01/03/2015
Chúa Nhật Tuần II
Mùa Chay Năm B
(phần I)
BÀI
ĐỌC I: St 22, 1-2. 9a. 10-13. 15-18
"Của hiến tế của Abraham Tổ phụ chúng ta".
Trích
sách Sáng Thế.
Trong
những ngày ấy, Chúa thử Abraham và nói với ông rằng: "Abraham,
Abraham!" Ông đáp lại: "Dạ, con đây". Chúa nói: "Ngươi hãy
đem Isaac, đứa con một yêu dấu của ngươi, và đi đến đất Moria, ở đó ngươi sẽ
dâng nó làm của lễ toàn thiêu trên núi Ta sẽ chỉ cho ngươi".
Khi
hai người đến nơi Chúa đã chỉ, Abraham làm một bàn thờ và chất củi lên, rồi
trói Isaac lại, đặt lên bàn thờ trên đống củi. Abraham giơ tay lấy dao để sát tế
con mình. Bấy giờ thiên thần Chúa từ trời gọi ông rằng: "Abraham,
Abraham!" Ông thưa lại: "Dạ, con đây". Người nói: "Đừng giết
con trẻ và đừng động đến nó, vì giờ đây ta biết ngươi kính sợ Chúa, đến nỗi
không từ chối dâng đứa con duy nhất cho Ta". Abraham ngước mắt lên, thấy
sau lưng mình có con cừu đực đang mắc sừng trong bụi cây, Abraham liền bắt nó
và tế lễ thay cho con mình. Thiên thần Chúa gọi Abraham lần thứ hai và nói rằng:
"Chúa phán: Ta thề rằng: vì ngươi đã làm điều đó, ngươi không từ chối dâng
đứa con duy nhất của ngươi cho Ta, nên Ta chúc phúc cho ngươi, Ta cho ngươi
sinh sản con cái đông đúc như sao trên trời, như cát bãi biển; miêu duệ ngươi sẽ
chiếm cửa thành của quân địch, và mọi dân tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc
nơi miêu duệ ngươi, vì ngươi đã vâng lời Ta". Đó là lời Chúa.
ĐÁP
CA: Tv 115, 10 và 15. 16-17. 18-19
Đáp:
Tôi sẽ tiến đi trước thiên nhan Chúa trong miền đất của nhân sinh (Tv 114, 9).
1)
Tôi đã tin cậy ngay cả trong lúc tôi nói: "Tấm thân tôi trăm phần khổ cực!"
Trước mặt Chúa thật là quý hoá cái chết của những bậc thánh nhân Ngài.
2)
Ôi lạy Chúa, con là tôi tớ Chúa, con là tôi tớ Ngài, con trai của nữ tỳ Ngài,
Ngài đã bẻ gãy xiềng xích cho con. Con sẽ hiến dâng Chúa lời ca ngợi làm sinh lễ,
và con sẽ kêu cầu danh Chúa.
3)
Tôi sẽ giữ trọn lời khấn xin cùng Chúa, trước mặt toàn thể dân Ngài, trong nơi
hành lang nhà Chúa, ở giữa lòng ngươi, Giê-rusalem hỡi!
BÀI
ĐỌC II: Rm 8, 31b-34
"Thiên Chúa không dung tha chính Con mình".
Trích
thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh
em thân mến, nếu Thiên Chúa ủng hộ chúng ta, thì ai có thể chống lại chúng ta?
Người không dung tha chính Con mình, nhưng lại phó thác Con vì tất cả chúng ta,
há Người lại chẳng ban cho chúng ta mọi sự cùng với Con của Người sao? Ai sẽ tố
cáo những kẻ Chúa chọn? (Chẳng lẽ là) chính Chúa, Đấng làm cho nên công chính?
Ai sẽ kết án? (Chẳng lẽ là) Đức Giêsu Kitô, Đấng đã chết và hơn nữa đã sống lại,
đang ngự bên hữu Thiên Chúa, cũng đang biện hộ cho chúng ta? Đó là lời Chúa.
CÂU
XƯỚNG TRƯỚC PHÚC ÂM: Mt 17, 5
Từ
trong đám mây sáng chói, có tiếng Chúa Cha phán rằng: "Đây là Con Ta yêu dấu,
các ngươi hãy nghe lời Người".
PHÚC
ÂM: Mc 9, 1-9 (Hl 2-10)
"Đây là Con Ta rất yêu dấu".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi
ấy, Chúa Giêsu đưa Phêrô, Giacôbê, và Gioan đi riêng với Người lên núi cao, và
Người biến hình trước mặt các ông, và áo Người trở nên chói lọi, trắng tinh như
tuyết, không thợ giặt nào trên trần gian có thể giặt trắng đến thế. Rồi Êlia và
Môsê hiện ra và đàm đạo với Chúa Giêsu. Bấy giờ Phêrô lên tiếng thưa Chúa Giêsu
rằng: "Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm. Chúng con xin làm ba lều,
một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia". Phêrô không rõ mình nói gì,
vì các ông đều hoảng sợ. Lúc đó có một đám mây bao phủ các Ngài, và từ đám mây
có tiếng phán rằng: "Đây là Con Ta rất yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người".
Bỗng nhìn chung quanh, các ông không còn thấy ai khác, chỉ còn một mình Chúa
Giêsu với các ông. Và trong lúc từ trên núi đi xuống, Chúa Giêsu ra lệnh cho
các ông đừng thuật lại cho ai những điều vừa xem thấy, trước khi Con Người từ
cõi chết sống lại. Các ông tuân lời căn dặn đó, nhưng vẫn tự hỏi nhau: "Từ
trong cõi chết sống lại nghĩa là gì?" Đó là lời Chúa.
SUY NIỆM : Cái Chết, Con Ðường Ðưa Tới Sự Sống
"Tôi biết tôi
tin vào ai".
Lời
khẳng định thâm tín đó của thánh Phaolô có thể coi như diễn tả đúng niềm tin của
Abraham trong cuộc hành trình về quê hương mới: quê hương sự sống qua ngõ sự chết.
Trong sứ mệnh nhập thế cứu đời, Ðức Kitô cũng không đi con đường nào khác ngoài
con đường chết-để-sống: nếu Người đã biến hình sáng chói để loan báo trước cảnh
vinh quang ngày Người lại đến, thì chính Người cũng đã cho môn đệ biết trước
đêm tối của giờ Thương khó Người sẽ phải đi qua (Mc 14,34-36).
Chấp
nhận mất tất cả để được nhận lại tất cả, chết với Chúa để sống lại vinh quang với
Người, đó là định luật căn bản của Kitô giáo. Ðịnh luật đó, hôm nay Giáo hội nhắc
lại cho chúng ta qua niềm tin của Abraham trong cơn thử thách cũng như qua ánh
sáng cuộc biến hình của Ðức Kitô trên núi Tabo.
1.
"Ðem Con Một... Lên Ðường... Hiến Tế"
Lệnh
Chúa truyền như phản ngược lại với Lời Chúa hứa. Abraham vẫn nhớ rõ lời Thiên
Chúa vừa mới giao ước. Isaac từ nay sẽ là người nối dõi tông đường cho dòng họ
Abraham (Kn 21,12). Ông cũng không quên Isaac là người con duy nhất của mình. Mẹ
con Hagar đã bị đuổi đi, mà Sara thì lại quá già nua cằn cỗi. Bây giờ lệnh truyền
phải đem con đi tế hiến! Phải chăng lưỡi dao oan nghiệt giáng xuống trên Isaac sẽ
chấm dứt dòng dõi của ông và do đó giao ước sẽ bị phá hủy? Chắc hẳn trong thân
phận làm người của mình, Abraham đã không thể nào nghĩ khác được. Nhưng ông đã
lên đường, không chần chờ, không do dự. Và rồi đã tới đỉnh cao, nơi cử hành hy
lễ, ông giơ tay, cầm dao, sẵn sàng giết con, người con duy nhất mà hơn ai hết,
ông biết rõ nếu chết đi là ông mất tất cả.
Thái
độ dứt khoát và hành động quyết liệt của Abraham, tự nó, nói lên trọn vẹn niềm
tin của ông: nó cho ta thấy ông biết rõ ông tin vào ai và phải tin thế nào.
Abraham
biết mình tin vào Ðấng không muốn sự chết nhưng muốn sự sống. Chính nhờ đó mà
ông nhìn thấy được sự sống phong phú qua cái chết tế hiến của con mình. Việc
Chúa đòi ông hy sinh con một mình chứng tỏ Chúa hoàn toàn làm chủ sự sống. Bởi
vì Người là nguồn gốc sự sống nên chỉ mình Người mới ban sự sống và có quyền
đòi lại sự sống đã ban. Thiên Chúa đã trao Isaac cho Abraham, bây giờ Người đòi
lại sự sống đó, dù rằng Người đã cam kết: Isaac sẽ khởi đầu của một miêu duệ
đông đảo. Sự đòi hỏi bất thường đó chỉ nhằm nói lên khả năng của Thiên Chúa làm
được những việc đối với ta xem ra nghịch lý: khơi dậy sự sống từ cái chết, gọi
được cái có từ cái không (Rm 4,17).
Nhờ
biết rõ mình tin vào ai, nên Abraham đã tin một cách dứt khoát, trọn vẹn, triệt
để: Chúa bảo ông đem Isaac đi, ông dẫn đi. Chúa bảo ông lên đường, ông lên đường.
Chúa bảo ông tế hiến con một của ông, ông thi hành. Nhưng không phải vì thế mà
niềm tin của ông mất hết vẻ nhân bản thông thường. Ông biết rõ dù là con do lời
hứa, Isaac thực sự cũng là con của ông. Vâng lệnh Chúa tế hiến con mình,
Abraham không thể không cảm thấy lòng mình bị xâu xé vì mối tình phụ tử. Nhưng
ông đã tuân theo thiên ý với niềm tin vững chắc: Chúa sẽ trù liệu mọi sự để thực
hiện lời hứa và chương trình cứu độ của Người. Chính niềm tin phó thác đó đã
giúp ông mau mắn làm điều ông có thể và để cho Chúa làm điều vượt quá sức ông.
Kết quả là sức mạnh của đức tin đã biến đổi đời ông. Ðể ông khỏi ray rứt suốt đời
vì mặc cảm giết con, thì đây Thiên Chúa gửi đến cho ông một tế vật, khiến ông
có thể tôn thờ Người với lòng tín phục hân hoan. Thay vì phải chấm dứt tuổi già
trong nỗi cô đơn của một gia tộc tuyệt tự, thì ông thanh thản sống nốt những
ngày còn lại trong niềm hãnh diện; con mình đã được thánh hiến và dòng dõi phát
sinh từ đó là một dân tộc thánh.
2.
Chết Ðể Sống Lại
Chính
vì biết mình tin vào ai, nên Abraham đã dứt khoát lên đường, chấp nhận với tâm
hồn phó thác, leo trọn con đường tế hiến lên đỉnh Mô-ri-gia, để rồi từ điểm cao
của núi đồi và tuyệt đỉnh của hy tế, ông đã hưởng trọn niềm vui ngắm khung trời
đầy sao, nhìn bãi biển trắng cát, liên tưởng đến miêu duệ đông đảo của mình. Mất
đi để nhận lại, chết rồi để được sống, người cha của mọi kẻ có lòng tin đã lấy
chính cuộc đời mình để làm sáng tỏ định luật đó của lịch sử cứu độ. Tin Mừng của
Marcô hôm nay (9,2-10) thuật lại cuộc biến hình trên núi Tabo cũng nhằm chứng
minh quá trình tất hữu đó của cuộc đời Chúa Kitô cũng như của chúng ta trên đường
về cõi sống.
Quả
vậy, định hướng của Tin Mừng là nhằm làm nổi bật mầu nhiệm chết-để-sống lại của
Chúa Cứu thế. Chính trong viễn tượng đó mà sau khi đã cho các tông đồ thoáng thấy
bóng tối của con đường Thương khó Người sắp đi qua, Người đã biến hình sáng
chói, báo trước cuộc Phục sinh và ngày trở lại vinh quang của Người, để nhắn bảo
các ông phải biết tìm ra sức sống phong phú bên kia cái chết. Vẻ huy hoàng của
Tabo hôm nay không làm ta quên dòng sông Yorđan ngày trước. Nếu hạt thóc không
mục nát đi trong lòng đất, thì không bao giờ nẩy sinh được cây lúa xanh tươi.
Ta cũng phải chết đi với Chúa Kitô để được sống lại với Người. Và trong Người,
chúng ta được trở thành con cái Thiên Chúa.
Nhưng,
cũng như Abraham, ta phải dứt khoát tin ở Ðức Kitô và chấp nhận đi vào con đường
cứu rỗi của Người, đồng thời sống trọn vẹn mầu nhiệm biến hình trong đời sống hằng
ngày của chúng ta, nghĩa là sẵn sàng để cho Thần Khí Ðức Kitô đổi mới con người
chúng ta và can đảm góp phần làm cho thế giới này biến dạng. Muốn thế, ta phải
trung thành lắng nghe Lời Con Thiên Chúa (Mc 9,7) trong Sách Thánh và qua mọi
biến cố của cuộc đời ta.
Giảng Lễ
Chúa
Yêsu đưa ba môn đệ lên núi cao để họ được chiêm ngưỡng vinh quang của Con Thiên
Chúa. Phụng vụ Giáo hội cũng đưa ta đến đây, để chứng kiến và tham dự vào mầu
nhiệm cao cả.
Trước
hết ta hãy nhìn xem câu truyện Chúa thử thách Abraham. Phụng vụ mùa Chay đọc
cho ta nghe câu chuyện kinh hoàng này, vì như ta đã thấy trong Chúa nhật tuần
trước, mùa Chay là mùa thử thách, thử thách đức tin của những người con Chúa.
Abraham hồi đó chỉ có một đứa con, đứa con duy nhất của tuổi già, đứa con của Lời
Hứa từ bao năm. Thế mà hôm nay Chúa gọi: Abraham! - Dạ. - Hãy đem người con yêu
quý của ngươi đi hiến tế cho ta! Chúng ta hãy tưởng tượng xem diện mạo và tâm
can của người cha già lúc đó như thế nào. Lời Chúa thật mạnh hơn tiếng sét lớn.
Nhưng Abraham không ngã, không mất tinh thần. Sách Thánh viết: ông dậy sớm, bổ
củi, thắng lừa rồi dắt Isaac đi, đi ba ngày trời ròng rã, ba ngày đau như cắt mỗi
khi nghĩ tới giờ phút kinh hoàng sẽ phải hạ sát đứa con vô tội. Chắc chắn không
ai có được thái độ đó. Chắc chắn không người cha nào đủ sức đi như vậy. Nhưng
Abraham không phải là con người thường. Ông là con người có đức tin. Lòng ông
tin Chúa thật tuyệt đối và vô điều kiện. Ông không lấy suy luận loài người chất
vấn mệnh lệnh Chúa. Lời Chúa ông đã nghe rõ nên ông chỉ còn biết thi hành. Ông
phó mặc hậu quả cho Thiên Chúa định liệu. Ðức tin của ông thật là gương mẫu. Phải
nói mạnh hơn, lòng tin đó quả thật vô địch. Thế nên ông được xưng tụng là cha của
các thế hệ tín hữu, là tổ phụ của dòng dõi tin tưởng. Ông là tổ phụ của ta, chứ
không riêng của con cái Israel. Và câu truyện về ông mà hôm nay phụng vụ nhắc lại
cho ta, thúc giục chúng ta tin mạnh mẽ hơn vào Chúa, dứt khoát chấp nhận Lời
Chúa mà không so đo hơn thiệt. Có như vậy chúng ta mới được chấp nhận vào giao
ước mà Chúa đã thề hứa với Abraham và miêu duệ ông đến muôn đời.
Ta
hãy để ý đến tư tưởng Giao ước mà đoạn cuối bài đọc thứ I đã gợi lên. Và nếu ta
còn nhớ, thì bài Cựu Ước Chúa nhật trước cũng nói đến Giao ước. Chúa đã giao ước
với Noe. Ngài hứa không còn phạt loài người như trong vụ đại hồng thủy nữa.
Trong bài đọc hôm nay, Ngài hứa ban phúc lộc chan hòa cho Abraham; dòng dõi ông
sẽ nhiều như sao trên trời và như cát ngoài biển; mọi dân tộc trên mặt đất sẽ
nhờ con cháu ông mà được hạnh phúc. Như vậy từ giao ước Noe tới giao ước mà
Chúa đã thề hứa với Abraham đã có một tiến bộ rõ rệt. Chẳng những Chúa không muốn
sát phạt loài người nữa, mà còn muốn cho họ được phát triển và hạnh phúc. Rồi
đây, trong các Chúa nhật sau ta sẽ thấy Chúa còn hành động cụ thể hơn nữa để dần
dần thực thi mọi Lời Hứa. Và như vậy, rõ ràng bao giờ Chúa cũng chỉ muốn ban
thêm ơn cho ta, cho những người tin Chúa, tin đến nỗi sẵn sàng hy sinh tất cả để
chấp nhận Lời Ngài. Hôm nay, chúng ta hãy tin vào Chúa mạnh mẽ hơn nữa, chắc chắn
bàn tay của Ngài đang hướng dẫn đời sống của ta đi đến chỗ tốt đẹp, nên ta sẽ cố
gắng bắt chước Abraham, không sờn lòng khi gặp thử thách, mà - có thể nói - cứ
nhắm mắt thi hành mọi lời Phúc Âm ta nghe được. Làm như vậy có liều lĩnh không?
Chắc chắn là không và chỉ có thể làm cho ta trở nên giống Ðức Kitô hơn và sẽ đạt
tới vinh quang như Người. Ðiều đó thật rõ rệt, như Phúc Âm hôm nay cho chúng ta
thấy.
Ðức
Kitô biến hình ở trên núi cao. Người được hưởng vinh quang đang dành cho Người
sau ngày Phục sinh. Chúa Cha muốn Người nếm trước vinh quang đó, không phải để
khích lệ Người đi vào con đường tử nạn. Ngay từ đầu Người đã quảng đại chấp nhận
đi vào con đường này rồi. Có thể nói không lúc nào Người quên nghĩ tới giờ của
mình, giờ ra đi chịu chết để đưa nhân loại về cùng Thiên Chúa Cha. Sở dĩ hôm
nay có cuộc biến hình này là vì các môn đệ và chúng ta. Người muốn củng cố đức
tin của mọi người, để đừng ai nao núng khi nhìn thấy bộ mặt đau thương của Người
trên thập giá. Vinh quang Chúa Cha dọi vào Người trên núi thánh, để chúng ta có
ấn tượng đích thực về Người hầu bao giờ chúng ta cũng nghe theo tiếng Người kêu
gọi. Nhưng đồng thời vinh quang ấy cũng đã bao bọc các môn đệ. Và qua sự kiện
biến hình này, Chúa Cha muốn cho chúng ta tin chắc vào vinh quang mà chính
chúng ta sẽ được trong vinh quang của Chúa Con. Có lần nhìn vào cộng đoàn các
tín hữu, thánh Phaolô phải thú nhận rằng: xét về phương diện trần gian quả thật
chúng ta chẳng đáng tự phụ gì, vì chúng ta thua kém người ta về mọi mặt. Nhưng
sau này sẽ thế nào? Thánh Kinh là Lời Chúa đoan chắc với chúng ta: Ðức Kitô ở
đâu, ta cũng sẽ ở đó. Ngài ở trong vinh quang, chúng ta cũng sẽ trở nên sáng
láng; Ngài biến hình ở trên núi cao trước mắt môn đệ, để họ thấy vinh quang
đang chờ Ngài và đồng thời cũng để họ biết mình sẽ được ở trong vinh quang ấy.
Thế
thì niềm tin của chúng ta quả thật quá phấn khởi! Và chúng ta phải gia tăng niềm
tin. Abraham chưa thấy gì mà đã tin mạnh mẽ. Ông chỉ tin rằng Chúa sẽ trù liệu
tất cả. Còn ta, chúng ta có bảo chứng về niềm tin của mình. Hơn cả ba môn đệ,
chúng ta biết chắc Ðức Kitô đã phục sinh, Người đang ở trong vinh quang, và Người
đang sửa soạn chỗ vinh quang cho những ai tin Người. Những người nghi ngờ về
tương lai tốt đẹp của mình, hãy nghe lời thánh Phaolô trong bài đọc II, Chúa
Cha đã không khước từ ban Con Một Mình chịu chết để cứu chuộc ta, thì hỏi có gì
và có ai khiến ta phải sợ hãi nữa? Ðể ta được hạnh phúc, Người đã hy sinh đến cả
người Con yêu dấu của mình, thì hỏi ai còn có thể nghi ngờ về lòng Người thương
ta? Và thương ta đến như vậy mà Người không muốn ta được hạnh phúc sao? Abraham
chưa phải hy sinh đứa con mà đã được hạnh phúc chan hòa. Huống nữa là Chúa Cha
đã hy sinh Con mình thật sự! Không lẽ tình thương của Người đối với ta không được
thỏa mãn sao? Nghĩa là không lẽ chúng ta sẽ không hạnh phúc như lòng Cha nhân từ
mong muốn sao? Không, dù hiện nay bề ngoài đời sống của ta còn phần nào chưa
vinh hiển, ta vẫn phải đinh ninh rằng: chẳng qua mình đang ở trần gian, Ðức
Kitô cần mặc lấy thân xác để đi con đường thánh giá, nhưng Người đã đạt tới
vinh quang và chắc chắn sẽ đưa chúng ta vào nơi vinh hiển.
Và
để bảo đảm điều đó, Người muốn dùng chính Thánh Thể mà chúng ta cử hành bây giờ
, để đi vào trong ta, sống trong ta, đi qua trần gian với ta, để đưa ta đến nơi
sáng láng.
Chúng
ta hãy tin vào Thánh Thể; hãy rước lấy Chúa vào lòng, hãy để tinh thần của Chúa
hướng dẫn đường đi nước bước của ta để dù có gặp thử thách lớn lao như Abraham,
lòng tin của ta vào đạo Chúa vẫn không hề nao núng, khiến mọi Lời hứa trong
giao ước sẽ thực hiện ở nơi ta, và nhiều người nhờ đấy cũng được phúc.
(Trích
dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của
Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Chủ Nhật II Mùa
Chay,
Năm B
Bài đọc: Gen 22:1-2, 9,
10-13, 15-18; Rom 8:31-34; Mk 9:2-10.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thiên Chúa hy sinh
Người Con Một cho con người.
Tình
yêu là quan niệm trừu tượng: con người không thể định nghĩa tình yêu, nhưng có
thể cảm nghiệm thế nào là tình yêu. Tình yêu Thiên Chúa còn khó hiểu hơn nữa,
vì chúng ta chưa từng thấy Ngài; nhưng chúng ta có thể cảm nghiệm sâu xa tình
yêu của Thiên Chúa dành cho con người mỗi khi ngước nhìn Cây Thập Giá.
Các
Bài Đọc hôm nay được sắp xếp rất tài tình để giúp chúng ta cảm nghiệm tình yêu
Thiên Chúa qua hai biến cố xảy ra trên Núi Moriah và trên Đồi Golgotha. Trong
Bài Đọc I, Sách Sáng Thế Ký tường thuật sự kiện Thiên Chúa muốn thử thách đức
tin của ông bằng cách ra lệnh cho ông phải giết Isaac, người con một duy nhất
chính Thiên Chúa đã ban cho ông trong lúc tuổi già. Với một niềm tin sắt đá vào
Thiên Chúa, ông đã giơ dao sẵn sàng giết con theo lệnh truyền của Thiên Chúa.
Trong Bài Đọc II, Thánh Phaolô đã so sánh biến cố này với biến cố Tử Nạn của
Chúa Giêsu trên Đồi Golgotha, trước khi rút ra kết luận: Nếu Thiên Chúa đã yêu
con người đến độ đã hy sinh Người Con Một cho con người, còn gì có thể mà Thiên
Chúa không làm cho con người. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu mang 3 môn đệ thân tín
lên núi Thabor, cho các ông xem thấy vinh quang của Ngài, để chuẩn bị cho các
ông đối diện với Cuộc Thương Khó sắp tới.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I:
Tổ-phụ Abraham sẵn sàng hy sinh người con một cho Thiên Chúa.
1.1/
Đức tin của Tổ-phụ Abraham: Đức tin phải chịu thử thách. Trình thuật Sáng Thế Ký hôm nay nói
rõ: “Thiên Chúa muốn thử lòng ông Abraham.” Nhưng là một thử thách quá to lớn,
vượt quá sức chịu đựng của con người khi Thiên Chúa đòi hỏi: “Hãy đem con của
ngươi, đứa con một yêu dấu của ngươi là Isaac, hãy đi đến xứ Moriah mà dâng nó
làm lễ toàn thiêu ở đấy, trên một ngọn núi Ta sẽ chỉ cho.”
(1)
Nếu chúng ta là Abraham, chúng ta sẽ phản ứng làm sao trước đòi hỏi của Thiên
Chúa:
*
Đủ rồi Chúa ơi! Hết cách để thử rồi sao Chúa? Đây là người con một, người con
Chúa ban cho trong lúc tuổi già. Nếu Thiên Chúa muốn Isaac như thế, chẳng thà đừng
ban!
*
Làm sao một người cha có can đảm cầm dao giết đứa con vô cùng yêu quí của mình?
Lại là đứa con nối dõi tông đường!
(2)
Phản ứng của Abraham: Nếu cứ quanh quẩn với lý luận con người, Abraham sẽ không
thể hiểu nổi và chấp nhận đòi hỏi của Thiên Chúa, vì nó quá vô lý; nhưng ông chọn,
như bao nhiêu lần đã chọn, để sống theo niềm tin. Thiên Chúa ban cho rồi Thiên
Chúa cất đi, xin cho ý Ngài thể hiện. Thiên Chúa cất đi rồi Thiên Chúa lại ban,
chẳng có gì không thể đối với Ngài. Vì thế, khi tới nơi Thiên Chúa đã chỉ, ông
Abraham dựng bàn thờ tại đó, xếp củi lên, trói Isaac con ông lại, và đặt lên
bàn thờ, trên đống củi. Rồi ông Abraham đưa tay ra cầm lấy dao để sát tế con
mình.
1.2/
Vở bi kịch chấm dứt các đột ngột: Nhưng sứ thần của Đức Chúa từ trời gọi ông:
"Abraham! Abraham!" Ông thưa: "Dạ, con đây!" Người nói:
"Đừng giơ tay hại đứa trẻ, đừng làm gì nó! Bây giờ Ta biết ngươi là kẻ
kính sợ Thiên Chúa: đối với Ta, con của ngươi, con một của ngươi, ngươi cũng chẳng
tiếc!"
-
Thiên Chúa nhìn thấu suốt tâm hồn Abraham: Ông thực sự đặt niềm tin trọn vẹn
nơi Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa muốn thử ông, nên khi thấy ông đã chứng tỏ niềm
tin, Thiên Chúa không cần phải nhìn thêm điều gì nữa.
-
Tổ-phụ Abraham dâng của lễ thay cho con mình là Isaac: “Ngước mắt lên nhìn, thì
thấy phía sau có con cừu đực bị mắc sừng trong bụi cây. Ông Abraham liền đi bắt
con cừu ấy mà dâng làm lễ toàn thiêu thay cho con mình.”
1.3/
Phần thưởng Đức Chúa hứa ban cho Tổ-phụ Abraham: Sứ thần của Đức Chúa từ trời gọi
ông Abraham một lần nữa và nói: "Đây là sấm ngôn của Đức Chúa, Ta lấy
chính danh Ta mà thề: bởi vì ngươi đã làm điều đó, đã không tiếc con của ngươi,
con một của ngươi, nên Ta sẽ thi ân giáng phúc cho ngươi:
(1)
Giòng dõi đông đúc: Ta sẽ làm cho dòng dõi ngươi nên đông, nên nhiều như sao
trên bầu trời, như cát ngoài bãi biển.
(2)
Đất Hứa: Giòng dõi ngươi sẽ chiếm được thành trì của địch.
(3)
Và một dân tộc được tuyển chọn: Mọi dân tộc trên mặt đất sẽ cầu chúc cho nhau
được phúc như dòng dõi ngươi, chính bởi vì ngươi đã vâng lời Ta.
2/
Bài đọc II:
Thiên Chúa đã hy sinh Người Con Một cho con người.
2.1/
So sánh tình yêu của Thiên Chúa với tình yêu của Tổ-phụ Abraham: Biến cố xảy ra trên
Núi Moriah chỉ là hình bóng và sự chuẩn bị để con người hiểu được biến cố xảy
ra trên Đồi Golgotha. Có nhiều điểm giống nhau và khác nhau giữa hai biến cố
này:
(1)
Cả hai người cha đều sẵn sàng hy sinh Người Con Một, người con yêu quí nhất. Nếu
chúng ta hiểu được tình cha con giữa Abraham và Isaac, chúng ta cảm nghiệm được
phần nào tình yêu giữa Chúa Cha và Chúa Con. Trong sự quan phòng của Thiên
Chúa, biến cố Abraham-Isaac là để chuẩn bị tâm hồn chúng ta cho biến cố Chúa
Giêsu, để chúng ta cảm nhận được phần nào tình yêu Thiên Chúa dành cho con người.
(2)
Một sự khác biệt vô cùng lớn lao giữa hai biến cố: Trong biến cố Cựu Ước, Isaac
không chết, con cừu đực được giết làm của lễ tòan thiêu chết thay cho con trẻ.
Trong biến cố Tân Ước, Chúa Giêsu đã chết thực sự thay cho con người bằng cái
chết tủi nhục và đau đớn hơn nhiều. Nếu chúng ta đã từng bất bình khi Thiên
Chúa đòi Abraham sát tế con mình, chúng ta có thể hiểu nổi tình thương Thiên
Chúa dành cho con người không? Thiên Chúa, chúng ta chưa từng xem thấy; nhưng
khi nhìn thấy Chúa Giêsu chết treo trên Thập Giá, chúng ta cảm nhận được tình
yêu quá lớn lao Ngài dành cho con người.
2.2/
Thiên Chúa không kết án con người: Thánh Phaolô giúp chúng ta rút ra một số kết luận từ
biến cố này: “Vậy còn phải nói gì thêm nữa? Có Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai
còn chống lại được chúng ta? Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha,
nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta. Một khi đã ban Người Con đó, lẽ nào
Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta?”
Thiên
Chúa không muốn kết án con người, con người kết án chính mình bằng cách dửng
dưng hay quay lưng lại với tình yêu Thiên Chúa: “Ai sẽ buộc tội những người
Thiên Chúa đã chọn? Chẳng lẽ Thiên Chúa, Đấng làm cho nên công chính? Ai sẽ kết
án họ? Chẳng lẽ Đức Giêsu Kitô, Đấng đã chết, hơn nữa, đã sống lại, và đang ngự
bên hữu Thiên Chúa mà chuyển cầu cho chúng ta?”
3/
Phúc Âm:
Chúa Giêsu biến hình để chuẩn bị tâm hồn cho các Tông-đồ.
3.1/
Mục đích của việc Biến Hình: Chúa Giêsu cho các Tông-đồ nhìn thấy vinh quang Thiên Chúa là để
dạy cho các ông bài học: phải qua đau khổ mới đạt tới vinh quang. Ngài chuẩn bị
cho các Tông-đồ trước Cuộc Thương Khó sắp tới; để khi các ông phải đương đầu với
Cuộc Thương Khó, các ông có sức mạnh để chịu đựng và vượt qua.
3.2/
Chúa Giêsu mặc khải cho các Tông-đồ nhiều điều: Có nhiều điều Chúa Giêsu muốn mặc
khải cho các Tông-đồ qua việc Biến Hình này, nhưng không được trình bày cách rõ
ràng:
(1)
Ngài chính là Con Thiên Chúa: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người.”
Đây
là lần thứ hai Thiên Chúa Cha nói những lời này; lần thứ nhất trong biến cố
Chúa chịu Phép Rửa tại sông Jordan trước khi Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ rao giảng.
Lần này trước khi Chúa Giêsu bắt đầu Cuộc Thương Khó và Phục Sinh. Mục đích là
để các Tông-đồ xác tín mối liên hệ giữa Chúa Cha và Chúa Con.
(2)
Ngài chính là Đấng Thiên Sai mà Luật và các tiên-tri loan báo: Sự có mặt của
hai chứng nhân: ông Elijah đại diện cho các tiên tri, cùng ông Moses đại diện
cho Luật, hiện ra đàm đạo với Đức Giêsu, chứng tỏ điều này.
(3)
Đấng Thiên Sai tự nguyện chọn con đường Thập Giá: Câu hỏi của các môn đệ ở cuối
trình thuật: "từ cõi chết sống lại nghĩa là gì?” chứng tỏ các ông biết họ
đàm đạo về Cuộc Thương Khó sắp xảy ra cho Chúa Giêsu tại Jerusalem. Trình thuật
Biến Hình của Luca nói rõ điều này.
(4)
Tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người: Đây là điểm cao của việc Biến Hình,
mặc dù trình thuật không đề cập tới. Khi cho Con của Ngài đi qua Cuộc Thương
Khó để cứu chuộc con người, Thiên Chúa muốn các ông hiểu tình yêu của Ngài dành
cho con người.
(5)
Chúa Giêsu tự nguyện đi qua Cuộc Thương Khó: Các ông đã nghe chính Ngài bàn với
các chứng nhân Cựu Ước về những gì sắp xảy ra; để khi nó thực sự xảy ra, các
ông biết đó không phải là chuyện tình cờ. Ngài tình nguyện chấp nhận chịu đau
khổ, chứ không phải Ngài thua cuộc trước bạo lực của con người.
3.3/
Tại sao Chúa Giêsu ngăn cấm các ông kể lại việc Biến Hình:
-
Bí mật của Đấng Thiên Sai: Có những việc chỉ cần cho một số người biết, nếu
không sẽ gây hoang mang. Có những việc chỉ được tiết lộ khi thời gian đã chín
mùi. Chúa chỉ tỏ việc Biến Hình cho ba môn đệ thân tín là Phêrô, Giacôbê, và
Gioan. Ở trên núi xuống, Đức Giêsu truyền cho các ông không được kể lại cho ai
nghe những điều vừa thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Thiên Chúa cho Người Con Một là cho chính Ngài. Ngài cũng mong chúng ta phải
cho chính người con một của chúng ta, tức là cho chính chúng ta, như Abraham vậy.
Tình yêu trọn vẹn là như thế. Thiên Chúa chứng tỏ tình yêu của Ngài qua hai biến
cố: chuẩn bị tâm hồn con người qua biến cố Abraham-Isaac, và cảm nghiệm rõ ràng
qua Cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu.
-
Chúng ta không thể hiểu sự thử thách của Thiên Chúa dành cho Abraham, và càng
không thể hiểu nổi tại sao Thiên Chúa lại hy sinh Người Con Một của Ngài. Điều
này giúp chúng ta những lúc không thể hiểu tại sao Thiên Chúa để đau khổ xảy
ra, chúng ta biết tin tưởng vào Ngài như Abraham.
-
Đức tin phải được tôi luyện trong thử thách và đau khổ. Đàng sau Cuộc Thương
Khó và Thập Giá là vinh quang Phục Sinh. Nếu chúng ta từ chối đau khổ và Thập
Giá, chúng ta cũng từ chối con đường dẫn tới vinh quang Phục Sinh.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
01/03/2015 - CHÚA NHẬT TUẦN 2 MC – B
Mc 9,2-10
QUA THẬP GIÁ ĐẾN PHỤC SINH
“Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người.
” (Mc 9,7)
Suy niệm: Các học giả thường hỏi Đức Giê-su đưa ba môn đệ lên núi nào
để cầu nguyện? Núi Tabor (cao 300m) theo truyền thống hay núi Hermon (cao
3000m) theo học giả W. Barclay? Thật ra, ngọn núi ở đây nhắm đến ý nghĩa thần
học hơn là địa lý, núi theo Kinh Thánh là khung cảnh cho những mạc khải của
Thiên Chúa. Vậy thì trên ngọn núi Si-nai mới ấy, Thiên Chúa muốn đặc biệt nói
với ta điều gì? Đức Giê-su biến hình sáng láng trước mặt các môn đệ, Ngài cho
các ông thấy vinh quang của một vị Thiên Chúa làm người, vinh quang mà Ngài lại
sẽ chiếu tỏa vào ngày phục sinh vinh hiển. Hôm nay Ngài dứt khoát chọn con
đường thập giá đau khổ để cứu độ nhân loại. Còn tuần lễ sau, Ngài bước đi trên
con đường thập giá ấy cho đến giọt máu cuối cùng.
Mời
Bạn: “Ai
không kiếm tìm thập giá Chúa Ki-tô cũng không kiếm tìm vinh quang của Ngài”
(Th. Gioan Thánh Giá). Đức Giê-su được biến hình sáng chói sau khi chọn thập
giá đau khổ theo ý của Chúa Cha, và phục sinh khải hoàn sau khi hoàn thành thập
giá đau khổ ấy. Cũng vậy, tâm hồn bạn cũng được biến hình rực rỡ, khuôn mặt bạn
rạng rỡ hơn sau mỗi nghĩa cử hy sinh quên mình vì Tin Mừng Nước Trời.
Sống
Lời Chúa: Tôi
thực hiện một nghĩa cử bác ái mỗi ngày để tâm hồn mình được hiển dung như Chúa
Giê-su.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, cảm tạ
Chúa đã nêu gương hy sinh tự hiến cho chúng con trên thập giá và sau đó phục
sinh để đưa chúng con vào sự sống vĩnh cửu. Xin cho chúng con dám chấp nhận
những hy sinh âm thầm mỗi ngày trên con đường theo Chúa. Amen.
(5 Phút Lời Chúa)
ĐƯỢC BIẾN HÌNH ĐỔI DẠNG
Người Kitô hữu lên núi gặp
Chúa để rồi được sai xuống núi hành đạo. Nhưng xuống núi rồi, lại có khi thấy cần
lên núi.
Suy niệm:
Ðức Giêsu mê những ngọn núi
vắng vẻ,
đó là nơi Ngài gặp gỡ Cha,
chìm đắm trong cầu nguyện.
Có nhiều ngọn núi trong cuộc
đời Ðức Giêsu:
núi của Bài Giảng về các mối
phúc,
núi Tabo nơi Ngài biến hình,
núi Sọ và núi Ôliu nơi Chúa
thăng thiên.
Những ngọn núi trở thành cột
mốc đánh dấu.
Những ngọn núi đan vào nhau
làm nên cuộc hành trình.
Ba môn đệ thân tín được Ngài
đưa lên núi Tabo,
để củng cố niềm tin của họ,
trước khi họ thấy Ngài như
người bị Cha bỏ rơi
và bị mọi người khai trừ
ruồng rẫy trên núi Sọ.
Nhưng vinh quang của núi
Tabo
chỉ là một loé sáng bất ngờ
và tạm thời,
báo trước vinh quang viên
mãn khi Ngài về Thiên Quốc.
Biến hình là một hành động
của Thiên Chúa Cha.
Sau khi gặp Cha, Ðức Giêsu
được Cha biến hình.
Sự biến đổi này ảnh hưởng
đến thân xác và khuôn mặt,
và đến cả y phục của Ngài.
Vinh quang của Con Thiên
Chúa làm người vốn bị che khuất,
nay được Cha hé mở cho các
môn đệ.
Ông Môsê ngày xưa, sau khi
lên núi gặp Ðức Chúa
cũng đã phải che lại khuôn
mặt chói lọi của mình.
Chẳng ai gặp Thiên Chúa thực
sự mà lại không biến hình.
Ðời sống kết hiệp thực sự
với Thiên Chúa
làm cho người Kitô hữu tỏa
sáng rực rỡ.
Biến hình không phải là trở
thành cái gì khác mình,
như Tôn Ngộ Không với các
trò biến hoá.
Biến hình là trở lại với cái
tôi sâu thẳm của mình:
tôi là con yêu dấu của Thiên
Chúa.
Từ khi chịu phép Thánh Tẩy,
chúng ta đã bước vào một
cuộc biến hình,
từ từ và liên tục.
Nếu chúng ta chấp nhận đi
vào đường hẹp của Thầy Giêsu
chúng ta sẽ được biến hình
đổi dạng
và phản ánh ngời sáng hơn
vinh quang Chúa (x. 2Cr 3,18).
Chúng ta phải trở thành điều
chúng ta đang là.
Ðời sống Kitô hữu là một
cuộc lên núi
và xuống núi với Chúa Kitô
mỗi ngày.
Cần cảm nếm được sự dịu ngọt
và hạnh phúc
khi được chiêm ngắm Chúa
Giêsu trên núi cao.
Nhưng cũng phải xuống núi
với Chúa
để đi đến nơi hiến mình, nơi
phục vụ,
đi cùng và đi sau Chúa Giêsu
đến với Vườn Dầu và Núi Sọ.
Ước gì chúng ta dám đón nhận
những gai góc đời thường
và nhìn mọi khổ đau bằng cái
nhìn mới mẻ.
Người Kitô hữu lên núi gặp
Chúa
để rồi được sai xuống núi
hành đạo.
Nhưng xuống núi rồi, lại có
khi thấy cần lên núi.
Cầu nguyện:
Khi bị bao vây bởi muôn tiếng ồn ào,
xin cho con tìm được những
phút giây thinh lặng.
Khi bị rã rời vì trăm công ngàn việc,
xin cho con quý chuộng những
lúc
được an nghỉ trước nhan
Chúa.
Khi bị xao động bởi những bận tâm và âu lo,
xin cho con biết thanh thản
ngồi dưới chân Chúa
để nghe lời Người.
Khi bị kéo ghì bởi đam mê dục vọng,
xin cho con thoát được lên
cao
nhờ mang đôi cánh thần kỳ
của sự cầu nguyện.
Lạy Chúa,
ước gì tinh thần cầu nguyện
thấm nhuần vào cả đời con.
Nhờ cầu nguyện,
xin cho con gặp được con người thật của con
và khuôn mặt thật của Chúa.
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
1
THÁNG BA
Một
Hình Bóng Của Đất Hứa
Trong
Mùa Chay, chúng ta được mời gọi một cách đặc biệt bước vào thực tại vượt qua.
Thực tại này được tìm thấy nơi Đức Kitô. Đồng thời, thực tại này cũng dành cho
chúng ta. Nó phải bao trùm lấy chúng ta, như đám mây đã bao trùm Phê-rô,
Gia-cô-bê và Gio-an trên núi Hiển Dung (Lc 9,34).
Lời
hứa của giao ước mới được hoàn thành xuyên qua mầu nhiệm vượt qua – một mầu nhiệm
chạm đến con người. Trong mầu nhiệm đó, chúng ta nhận thấy lời cam kết của
Thiên Chúa được hoàn thành trọn vẹn: lời cam kết đưa dẫn Abraham và con cháu
ông vào miền Đất Hứa. Trong nhiều thế hệ, miền đất này đã trở thành It-ra-en của
Giao Uớc Cũ. Tuy nhiên, đó chỉ là một bóng hình báo trước miền đất mà Thiên
Chúa đã trao ban cho chúng ta trong Đức Kitô.
Vì
Thiên Chúa của Giao Ước Mới không hạn định lời hứa của Ngài nơi bất cứ một đất
nước riêng rẽ nào hay bất cứ một nơi chốn chất thể nào. Không một nơi chốn nào
trên trần gian có thể chứa đựng được hoạt động cứu độ của Thiên Chúa đối với những
ai qui tụ lại trong Đức Kitô. Về mầu nhiệm này, Thánh Phao-lô viết: “Còn chúng
ta, quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giê-su
Kitô từ trời đến cứu chúng ta. Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ
dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác
vinh hiển của Người” (Pl 3,20-21).
-
suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm.
Lê Công Đức dịch
từ nguyên tác
LIFT
UP YOUR HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia
Đình
NGÀY
01-3
Chúa
Nhật II Mùa Chay
St
22,1-2.9a.10-13.15-18; Rm 8,31b-34; Mc 9,2-10.
LỜI
SUY NIỆM: “Đây là Con Ta, yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người”
Chúa
Giêsu khi Người đến trong thế gian, Người đã ẩn giấu trong thân xác một con người
đơn sơ nghèo khó, Trước khi Người đi vào cuộc khổ nạn; Người dẫn ba môn đệ của
Người lên một ngọn núi cao. Người đã tỏa ánh sáng vinh quang của Người, làm cho
ba môn đệ choáng ngợp ánh sáng từ Người. Ánh sáng làm cho các ông muốn ở lại
trong đó. Nhưng Chúa Cha đã thương, Ngài che phủ lấy các ông và Ngài cho biết
điều quan trọng và cần thiết đó là Chúa Giêsu chính là Con yêu dấu của Ngài và
Ngài dạy là phải vâng nghe lời Người.
Lạy
Chúa Giêsu. Xin cho mọi thành viên trong gia đình chúng con luôn tin và vâng
nghe Lời Chúa cho đến trọn đời.
Mạnh
Phương
01
Tháng Ba
Tro Tàn Của Lịch Sử
Một
buổi sáng dạo đầu tháng 8 năm 1990, dân chúng Bulgary bỗng chứng kiến một cảnh
khác thường tại quảng trường chính ở thủ đô Sofia: người ta kéo thi hài của chủ
tịch Georgi Dimitrov ra khỏi lăng tẩm và mang đi hỏa táng. Chỉ có một vài người
thân của ông tham dự nghi lễ hỏa táng. Sau đó, tro tàn của ông được mang đi cải
táng bên cạnh phần mộ của mẹ ông.
Georgi
Dimitrov đã từng được tôn thờ như anh hùng dân tộc vì đã đánh đuổi được Phát
xít và sáng lập Ðảng Cộng Sản Bulgary. Năm 1949, khi ông qua đời, người ta đã ướp
xác ông và đặt vào trong lăng tẩm để dân chúng chiêm ngắm và suy tôn. Nhưng
vinh quang của quá khứ ấy đã không đủ sức để bảo vệ ông khỏi đống tro của lịch
sử...
Người
ra lệnh đưa ông ra khỏi lăng tẩm và hỏa táng không ai khác hơn chính là Ðảng Cộng
Sản Bulgary nay đã đổi tên thành Ðảng Xã Hội...
Georgi Dimitrov là một trong số các lãnh tụ Cộng Sản như Lênin, Mao Trạch Ðông, Hồ Chí Minh đã được ướp xác và tôn thờ trong lăng tẩm như các vua chúa Ai Cập thời cổ...
Georgi Dimitrov là một trong số các lãnh tụ Cộng Sản như Lênin, Mao Trạch Ðông, Hồ Chí Minh đã được ướp xác và tôn thờ trong lăng tẩm như các vua chúa Ai Cập thời cổ...
Con
người bởi đâu mà ra? Con người sống để làm gì trong cõi đời này? Con người sẽ
đi về đâu sau cái chết?... Nếu ai cũng nghiêm chỉnh từ đặt ra chi mình những
câu hỏi lớn ấy thì có lẽ không ai còn nhọc công để chạy theo tiền của, danh vọng,
không ai còn nghĩ đến chuyện ướp xác và xây lăng tẩm nữa... Có ai thoát khỏi đống
tro tàn của lịch sử? Hôm nay người ta tôn thờ, ngày mai người ta hạ bệ. Hôm nay
người ta ướp xác, ngày mai người ta lại đưa ra đốt...
Là
người có niềm tin, chúng ta đặt tin tưởng nơi Ðức Kitô. Qua cuộc sống, cái chết
và sự Phục Sinh. Chúa Giêsu đã mang lại giải đáp cho tất cả những câu hỏi lớn của
đời người. Phúc thay cho những ai biết mình từ đâu đến, biết mình sống để làm
gì và biết mình sẽ đi về đâu. Một ý nghĩa, một hướng đi cho cuộc sống: phải
chăng đó không là điều chúng ta đang tìm kiếm?
Tin
Mừng ghi lại phép lạ Chúa Giêsu hóa bánh ra nhiều cho hơn 5 ngàn người ăn. Chỉ
bằng một lời nói, chỉ trong chớp nhoáng, Chúa Giêsu đã có thể nuôi sống hàng
ngàn người đói khát. Với quyền năng của Thiên Chúa, Chúa Giêsu có thể vung cây
đũa thần để mang lại no cơm, ấm áo cho nhân loại. Nhưng Ngôi Hai Thiên Chúa đã
không làm người vì sứ mệnh ấy. Ngài đến để mang lại một thức ăn khác: một thức
ăn sẽ không làm cho con người phải đói khát, phải chết, phải mai một trong hư
vô của tiền của và danh vọng nữa... Ngài đến để mang lại cho chúng ta Sự Sống
trường sinh... Ðó là lý do đã khiến Chúa Giêsu khước từ không chịu làm vua khi
người ta muốn tôn vinh Ngài. Sau bữa ăn do phép lạ hóa bánh ra nhiều, Ngài mời
gọi con người hãy hướng đến của thức ăn không hư nát, của ăn mang lại sự sống bất
diệt.
(Lẽ
Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét