Đức tân
Hồng y Phêrô Nguyễn Văn Nhơn trả lời phỏng vấn America Magazine:
“Hãy mạnh
dạn lên đường đến với người nghèo”
WHĐ (17.02.2015) – Ngay sau khi Toà thánh công bố danh tính 20 vị
hồng y do Đức Thánh Cha Phanxicô tuyển chọn, tuần báo America Magazine của Hoa
Kỳ đã liên hệ với trang tin điện tử của Hội đồng Giám mục Việt Nam (WHĐ) để xin
phỏng vấn Đức tân Hồng y Phêrô Nguyễn Văn Nhơn. Đức hồng y Tổng giám mục Hà Nội
đã nhận trả lời America Magazine với nội dung sau đây*.
Toàn văn bài viết của
America Magazine được công bố tại http://americamagazine.org/content/dispatches/take-courage-and-go-out-poor-archbishop-peter-nguyen-van-nhon-hanoi-vietnam
***
Theo Đức Tổng giám mục Hà
Nội Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, châu Á “thích hợp hơn với cách nói về cuộc đời Đức
Giêsu như chính Ngài đã rao giảng bằng dụ ngôn hai nghìn năm về trước. Một cách
thế của phương Đông chứ không phải theo phong cách duy lý trí”.
Ở tuổi 76, Đức hồng y đã dành cả một đời xây dựng những
chiếc cầu nối giữa Kitô giáo và đất nước Việt Nam, nỗ lực phát ngôn bằng con
đường dẫn đến đối thoại và hiệp thông. Với xã hội Việt Nam, Công giáo đã từng
bị cho là mơ hồ; vào thế kỷ thứ 19 thì được cho là tôn giáo của người Pháp - là
những kẻ chiếm đóng đất nước. Vào cuối thế kỷ 20, đã có lúc chính quyền cộng sản
cho rằng đây là mối đe dọa ngoại bang. Toà thánh không có một tiếng nói chính
thức, cụ thể như việc tấn phong giám mục của Đức hồng y vào năm 1991, nhưng
phải được sự chuẩn thuận của chính quyền. Nhiều linh mục và giáo dân bị cầm tù
với những tội danh hoạt động chống chính quyền.
Những năm gần đây, Việt Nam
đã cho phép nhiều tự do tôn giáo hơn trong một đất nước có 6 triệu người Công
giáo, nhiều mâu thuẫn đã xảy ra, cụ thể là đối với những lời hứa trao trả tài
sản đã tịch thu như nhà dòng và nhà thờ. Năm 2007, nhiều giáo dân và lãnh đạo
Giáo hội đã phản kháng. Tuy nhiên theo Đức hồng y thì “những cuộc đấu tranh và
va chạm ấy chẳng mang lại ích lợi cho ai”.
Thừa nhận lo lắng của nhà
cầm quyền, Đức hồng y đã trình bày với chính quyền rằng việc đòi lại tài sản
của Giáo hội “không nhằm vào tư lợi, tích trữ hay làm giàu nhưng muốn bảo đảm
rằng chúng mưu ích cho mọi người”. Quan điểm này không phải bao giờ
cũng vừa lòng các tín hữu, nhất là đối với những quan ngại cho việc bổ nhiệm
Tổng giám mục Hà Nội vào năm 2010.
Thế nhưng mối quan tâm của
Đức hồng y đã đem lại những hoa trái: kể từ năm 1990, Toà thánh đã cử đặc sứ
đến Việt Nam, mong muốn bình thường hóa quan hệ. Năm 2011, lần đầu tiên Việt
Nam đã chấp thuận vị Đại diện Toà thánh không thường trú. Phát biểu sau Công
nghị hồng y vào ngày thứ Bảy, Đức hồng y cho biết cuộc đối thoại “đòi hỏi kiên
nhẫn và chân thành” và “tôi đã thấy những nỗ lực từ Toà thánh lẫn Chính phủ”;
tuy nhiên cho dù “hướng đi có vẻ lạc quan nhưng lộ trình còn dài và chúng tôi
cần thời gian”.
– Tôi
thật sự ngỡ ngàng khi được biết mình có tên trong danh sách những vị tân Hồng y của Giáo hội Công giáo. Lý do là tôi đã
đến tuổi nghỉ hưu và đang chờ đợi sự chấp thuận của Toà thánh cho tôi nghỉ hưu.
Tuy nhiên, vì là con người của Giáo hội, nên tôi đón nhận tất cả mọi biến cố
trong tinh thần Giáo hội. Tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn đối với Thiên Chúa, đối
với Đức giáo hoàng Phanxicô. Tôi xem
tước vị Hồng y là
một vinh dự; và theo tinh thần Giáo hội, vinh dự là để phục vụ anh em mình hữu
hiệu hơn. Với ơn Thiên Chúa và trong khả năng của tôi, tôi sẽ tiếp tục yêu thương
và phục vụ Giáo hội và Quê hương tôi theo trách nhiệm mà tôi được trao phó. Tôi
được sinh ra và lớn lên trong một gia đình có truyền thống Công giáo từ lâu
đời. Cha mẹ tôi có 6 người con, 3 trai và 3 gái mà 3 người đã được dâng cho
Chúa. Những người trong gia đình tôi cũng như các bạn hữu của tôi hiệp ý tạ ơn
Thiên Chúa, tri ân Đức giáo hoàng Phanxicô và Giáo hội; chúc mừng tôi và
khích lệ tôi tiếp tục yêu thương và phục vụ Giáo hội và Quê hương theo trách
nhiệm của mình.
– Ngài hy vọng điều gì cho
giáo hội hôm nay?
– Giáo
hội do Chúa Kitô thiết lập trên nền tảng các Tông đồ và các Đấng kế vị Tông đồ,
có Chúa Thánh Thần hướng dẫn, cùng với lời hứa của Chúa: “Thầy ở cùng
anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt
28, 20), nên tôi vững tin vào Giáo hội và đặt niềm phó thác cho Giáo hội. Có
thể nói: “Đời sống của tôi là thuộc về
Giáo hội và cho Giáo hội”. Tôi hy vọng Giáo hội chiếu toả khuôn mặt hiền lành, nhân từ, giàu lòng
thương xót của Thiên Chúa bằng sứ mạng yêu thương và phục vụ của mình.
– Đâu là thông điệp mà ngài
cảm nhận giáo hội cần gửi đến thế giới hôm nay?
– Tin
mừng bình an đầy niềm vui và hy vọng là sứ điệp mà thế giới ngày hôm nay đang
cần. Tôi tin tưởng Giáo hội của Chúa có thể loan báo và làm chứng về Tin mừng
bình an cho nhân loại.
– Đâu là những vấn đề căng
thẳng đang đối diện với địa phương và giáo phận của Đức hồng y?
– Quê
hương Dân tộc của chúng tôi trải qua chiến tranh lâu dài và gánh chịu hậu quả
của chiến tranh về nhiều phương diện. Tôi cầu nguyện cho Quê hương Dân tộc
chúng tôi vượt qua những khó khăn thử thách để được phát triển tốt đẹp, đem lại
niềm hạnh phúc và ổn định cho mọi người.
– Điều gì đã giúp Đức hồng
y học biết về Chúa và Hội thánh?
– Trong
số gần 90 triệu 5 trăm ngàn người của Cộng đồng Dân tộc Việt Nam, người Công
giáo chúng tôi mới khoảng 7 triệu người, chiếm 7,5%. Như vậy, chúng tôi thực sự là thiểu số.
Giáo hội có 3 giáo tỉnh và 26 giáo phận, 43 giám mục, trong đó có 13 vị đã nghỉ hưu. Hiện chúng tôi có
8 Đại chủng viện và nhiều cơ sở đào tạo ơn gọi chuẩn bị chủng sinh cho các Đại
chủng viện; con số các Dòng tu, Tu đoàn Tông đồ và Tu hội đời khoảng gần 200. Về đời
sống bình thường, chúng tôi chia sẻ hoàn toàn các sinh hoạt và vận mệnh của Dân
tộc chúng tôi. Người Công giáo ở giáo tỉnh Hà Nội cũng như ở giáo tỉnh Huế, ở giáo tỉnh
Saigon... chúng tôi vẫn sinh hoạt tôn giáo bình thường. Tôi có thể nói: Giáo
hội Việt Nam hiệp nhất với nhau, sống động và hiệp thông với Giáo hội toàn cầu,
với Toà thánh Vatican, với Đức giáo hoàng Phanxicô.
– Đâu là dung mạo của Chúa
từ Kinh Thánh và lịch sử Hội thánh vốn nâng đỡ và thúc đẩy Đức hồng y?
– Giáo
hội Việt Nam được sinh ra và lớn lên nhờ các Thừa sai và các Chứng nhân đức
tin. Tin mừng của Chúa đã được loan báo cho Tổ tiên Việt Nam chúng tôi từ trên
400 năm rồi. Cuộc đời nghèo khổ và công cuộc cứu chuộc của Chúa Giêsu mà đỉnh
cao là cuộc tử nạn trên thập giá để làm chứng rằng: “Không ai có tình
yêu cao cả hơn người hy sinh mạng sống vì bạn hữu mình” (Ga 15,13); đồng thời gương sống thánh thiện của hơn
130.000 chứng nhân đức tin của Tổ tiên Việt Nam chúng tôi luôn là nguồn trợ lực
và nâng đỡ chúng tôi trong cuộc lữ hành đức tin. Do đó, lời mời gọi của Đức giáo hoàng Phanxicô chạm tới thâm sâu của
chúng tôi. Chúng tôi luôn nhắc nhở nhau mạnh dạn lên đường đến với người nghèo,
người bị thiệt thòi, các dân tộc thiểu số ở vùng sâu vùng xa; chúng tôi cũng ý
thức phải đi ra khỏi
chính mình để đem niềm vui Tin mừng đến số đông đồng bào của chúng tôi. Bằng
cuộc sống xác tín vào sức mạnh của Tin mừng, chúng tôi nỗ lực sống “đạo tình thương” để hương thơm tốt lành của Tin mừng
tình yêu của Chúa có thể lantoả đến
anh chị em đồng bào Việt Nam yêu quý của chúng tôi.
– Cuối cùng: Đức hồng y hy vọng gì nơi Thượng hội đồng giám
mục trong tháng Mười sắp tới?
– “Thiên
Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để phàm ai tin vào Con của Người thì
không phải diệt vong, nhưng có sự sống đời đời” (Ga 3,16). Theo gương của Chúa Giêsu, giáo huấn của
Giáo hội, cụ thể trong Thông điệp “Đấng Cứu chuộc con người” (Redemptor Hominis) của Đức Thánh giáo hoàng Gioan-Phaolô II cho chúng ta thấy
mọi suy nghĩ, quyết định của Giáo hội luôn nhắm đến sự sống và hạnh phúc của
con người; vì “con người là con đường của Giáo hội”, bởi lẽ “tất cả mọi con đường của Giáo hội đều dẫn đến
con người” (Redemptor Hominis, 14). Như
vậy, tôi tin là Thượng Hội đồng Giám mục thế giới vào tháng 10 tới đây sẽ đem
đến niềm vui, bình an và hạnh phúc cho Giáo hội, cách riêng cho các gia đình. ■
–––––––––––––––––––––––––––––––
* Đức hồng y trả lời bằng
tiếng Việt;
Bài viết của America
Magazine do Linh Vũ chuyển ngữ
America Magazine
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét