08/03/2015
Chúa Nhật Tuần
III Mùa Chay Năm B
(phần I)
BÀI
ĐỌC I: Xh 20, 1-17
"Luật do Môsê đã ban ra".
Trích
sách Xuất Hành.
Trong
những ngày ấy, Chúa phán bảo những lời sau đây: Ta là Thiên Chúa ngươi, Đấng đã
dẫn dắt ngươi ra khỏi vùng Ai-cập, khỏi nhà nô lệ. Ngươi không được thờ thần
nào khác trước mặt Ta, đừng chạm trổ tượng gỗ, hay vẽ hình các vật trên trời,
dưới đất, trong nước, dưới lòng đất. Đừng thờ lạy và phụng sự các hình tượng ấy,
vì Ta là Chúa, Thiên Chúa ngươi, Chúa hùng mạnh, Chúa ganh tị, trừng phạt con
vì tội lỗi cha, cho đến ba bốn đời, những kẻ ghét Ta; Ta tỏ lòng nhân lành đến
ngàn đời đối với những ai kính mến Ta và tuân giữ các giới răn Ta.
Ngươi
đừng lấy danh Chúa, Thiên Chúa ngươi, mà lường gạt, vì Chúa không thể không trừng
phạt kẻ nào lấy danh Người mà lường gạt.
Ngươi
hãy nhớ thánh hoá ngày Sabbat. Ngươi làm lụng và làm tất cả mọi việc trong sáu
ngày, còn ngày thứ bảy là ngày Sabbat, thì thuộc về Chúa, Thiên Chúa ngươi;
trong ngày đó, ngươi, con trai, con gái, tôi tớ nam nữ, súc vật, ngoại kiều trọ
trong nhà ngươi, tất cả không được làm việc gì. Vì trong sáu ngày, Chúa đã tạo
dựng trời, đất, biển, và tất cả mọi vật trong đó, rồi Người nghỉ trong ngày thứ
bảy: cho nên Chúa chúc phúc và thánh hoá ngày Sabbat.
Ngươi
hãy tôn kính cha mẹ, để ngươi được sống lâu dài trong xứ mà Thiên Chúa sẽ ban
cho ngươi. Ngươi chớ giết người, chớ phạm tội ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm
chứng dối hại anh em mình, chớ tham lam nhà của kẻ khác, chớ ham muốn vợ bạn hữu,
tôi tớ nam nữ, bò lừa và bất cứ vật gì của bạn hữu. Đó là lời Chúa.
__________________
Hoặc
đọc bài vắn này: Xh 20, 1-3. 7-8. 12-17
Trong
những ngày ấy, Chúa phán bảo những lời sau đây: Ta là Thiên Chúa ngươi, Đấng đã
dẫn dắt ngươi ra khỏi vùng Ai-cập, khỏi nhà nô lệ. Ngươi không được thờ thần
nào khác trước mặt Ta. Ngươi đừng lấy danh Chúa, Thiên Chúa ngươi, mà lường gạt,
vì Chúa không thể không trừng phạt kẻ nào lấy danh Người mà lường gạt. Ngươi
hãy nhớ thánh hoá ngày Sabbat.
Ngươi
hãy tôn kính cha mẹ, để ngươi được sống lâu dài trong xứ mà Thiên Chúa sẽ ban
cho ngươi. Ngươi chớ giết người; chớ phạm tội ngoại tình; chớ trộm cắp; chớ làm
chứng dối hại anh em mình; chớ tham lam nhà của kẻ khác; chớ ham muốn vợ bạn hữu,
tôi tớ nam nữ, bò lừa và bất cứ vật gì của bạn hữu. Đó là lời Chúa.
ĐÁP
CA: Tv 18, 8. 9. 10. 11
Đáp:
Lạy Chúa, Chúa có lời ban sự sống đời đời (Ga 6, 69).
1)
Luật pháp Chúa toàn thiện, bồi bổ tâm linh; chỉ thị Chúa cố định, phá ngu kẻ dốt.
2)
Giới răn Chúa chính trực, làm hoan lạc tâm can; mệnh lệnh Chúa trong ngời, sáng
soi con mắt.
3)
Lòng tôn sợ Chúa thuần khiết, còn mãi muôn đời; phán quyết của Chúa chân thực,
công minh hết thảy.
4)
Những điều đó đáng chuộng hơn vàng, hơn cả vàng ròng, ngọt hơn mật và hơn cả mật
tàng ong.
BÀI
ĐỌC II: 1 Cr 1, 22-25
"Chúng tôi rao giảng Chúa Kitô chịu đóng đinh trên thập giá, một cớ
vấp phạm cho nhiều người, nhưng là sự khôn ngoan của Thiên Chúa đối với những
người được gọi".
Trích
thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh
em thân mến, các người Do-thái đòi hỏi những dấu lạ, những người Hy-lạp tìm kiếm
sự khôn ngoan, còn chúng tôi, chúng tôi rao giảng Chúa Kitô chịu đóng đinh trên
thập giá, một cớ vấp phạm cho người Do-thái, một sự điên rồ đối với các người
ngoại giáo, nhưng đối với những người được gọi, dầu là Do-thái hay Hy-lạp, thì
Ngài là Đức Kitô, quyền năng của Thiên Chúa và sự khôn ngoan của Chúa Cha, vì sự
điên rồ của Thiên Chúa thì vượt hẳn sự khôn ngoan của loài người, và điều yếu
đuối của Thiên Chúa thì vượt hẳn sự mạnh mẽ của loài người. Đó là lời
Chúa.
CÂU
XƯỚNG TRƯỚC PHÚC ÂM: Mt 4, 4b
Người
ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán
ra.
PHÚC
ÂM: Ga 2, 13-25
"Các ngươi cứ phá huỷ đền thờ này, nội trong ba ngày Ta sẽ dựng lại".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Lễ
Vượt Qua của dân Do-thái gần đến, Chúa Giêsu lên Giêru-salem. Người thấy ở
trong Đền thờ có những người bán bò, chiên, chim câu và cả những người ngồi đổi
tiền bạc, người chắp dây thừng làm roi, đánh đuổi tất cả bọn cùng với chiên bò
ra khỏi đền thờ. Người hất tung tiền của những người đổi bạc, xô đổ bàn ghế của
họ và bảo những người bán chim câu rằng: "Hãy đem những thứ này đi khỏi
đây, và đừng làm nhà Cha Ta thành nơi buôn bán". Môn đệ liền nhớ lại câu
Kinh Thánh: "Sự nhiệt thành vì nhà Chúa sẽ thiêu đốt tôi".
Bầy
giờ người Do-thái bảo Người rằng: "Ông hãy tỏ cho chúng tôi thấy dấu gì là
ông có quyền làm như vậy". Chúa Giêsu trả lời: "Các ông cứ phá huỷ đền
thờ này đi, nội trong ba ngày Ta sẽ dựng lại". Người Do-thái đáp lại:
"Phải bốn mươi sáu năm mới xây được đền thờ này, mà Ông, Ông sẽ dựng lại
trong ba ngày ư?" Nhưng Người, Người có ý nói đền thờ là thân thể Người.
Vì thế, khi Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại, các môn đệ mới nhớ lời đó, nên đã
tin Kinh Thánh và tin lời Người đã nói.
Trong
thời gian Người ở lại Giêrusalem mừng lễ Vượt qua, nhiều kẻ tin danh Người, vì
mục kích những phép lạ Người làm. Nhưng chính Chúa Giêsu không tin tưởng họ, vì
Người biết tất cả mọi người, và không cần ai làm chứng về người nào; Người biết
rõ mọi điều trong lòng người ta. Đó là lời Chúa.
Suy
niệm: Những Ðền Thờ
Trong
dịp lễ Vựơt qua của người Dothái năm 28, Chúa Yêsu xuất hiện ở đền thờ
Yêrusalem. Hằng năm, Người vẫn có thói quen trẩy lễ nơi đây như những người Dothái
đạo đức khác. Ta còn nhớ cũng tại đây, lúc lên 12 tuổi, Người đã long trọng
công bố: "Tôi phải ở tại nhà Cha tôi, để lo việc Người trao phó" (Lc
2,49). Chính lòng nhiệt thành đối với nhà Thiên Chúa đã thôi thúc Người xua đuổi
các con buôn đang mải miết làm ăn nơi tôn nghiêm thánh thiện (Yn 2,17). Lần này
Người công bố một lời khác, cũng long trọng và hàm chứa nhiều ý nghĩa:
"Hãy phá đền thờ này và sau 3 ngày Ta sẽ xây dựng lại" (Yn 2,19).
Nhưng đền thờ nào phải phá? Ðền thờ nào phải xây?
1.
Những Ðền Thờ Ngẫu Tượng
Chúa
Yêsu tự ví thân xác mình như một đền thờ, nhưng là một đền thờ phải phá đi, vì
Người sẽ chết để sống lại vinh quang. Thân xác phục sinh của Người chính là Ðền
thờ vĩnh cửu, nơi mà loài người phải thờ phượng Chúa Cha một cách chân thật
trong Thần Trí.
Người
Dothái không nghĩ được ý nghĩa sâu sắc của lời Chúa Yêsu nói. Họ chỉ nghĩ tới
ngôi đền thờ bằng đá do đại vương Hêrôđê đã khởi sự xây lại từ 46 năm trước đó.
Chính các môn đệ cũng chưa hiểu liền. Sau biến cố Phục sinh, họ nhớ lại và nhờ
suy niệm trong lòng, nhờ tìm kiếm trong Thánh Kinh, họ mới dần dà đi sâu vào mầu
nhiệm của Thầy Chí Thánh, như một Yoan và một Phaolô đã làm. Chúa Kitô muốn rằng:
chúng ta cũng phải vượt qua bình diện hữu hình của cái nhìn nhân loại, để vươn
tới những thực tại thiêng liêng của mầu nhiệm Thiên Chúa.
Lòng
trí con người vốn có xu hướng tôn thờ ngẫu tượng là những cái hấp dẫn và có lợi
trước mắt, làm cho nó dễ mù quáng. Lời Chúa Yêsu nói và việc Người làm trong
năng lực Thánh Thần nhằm giải thoát chúng ta khỏi sự mê hoặc ấy của ngẫu tượng.
Trước tiên Thần Trí Người thúc bách chúng ta phá đổ đền thờ ngẫu tượng lý trí.
Không
phải chỉ có người Hylạp xưa, mà cả chúng ta hôm nay vẫn khó chấp nhận sự điên rồ
của Thập giá. Ðó là một nhục nhã cho trí óc (1C 1,24). Ðối lại, thánh Phaolô khẳng
định rằng: Ðức Kitô chịu đóng đinh trên Thập giá là một bằng chứng cho sự khôn
ngoan tuyệt đỉnh của Thiên Chúa, vì sự điên rồ tột độ của cái chết ấy nói lên
tình yêu tột độ của Thiên Chúa đối với loài người (1C 1,24). Chỉ có đức tin
Kitô giáo mới hiểu và chấp nhận nổi điều nghịch lý đó. Quả vậy, thực tâm tin
vào Ðức Yêsu Kitô chết treo trên Thập giá, có nghĩa là chấp nhận cái nhìn ngược
đời của Thiên Chúa và sống một nếp sống không rập theo khuôn thói thế gian phản
nghịch với Người. Chính đó là khôn ngoan đích thực, một đức khôn ngoan vượt qua
giới hạn của lý trí và đem lại ơn cứu độ cùng với sự sống đời đời, giống như
ánh sáng Phục sinh đã xuất hiện từ trong bóng tối sự chết và thắng vượt sự chết.
Ðứng
trước cái thế giằng co giữa đức tin và lý trí, tuy chúng ta phải nghĩ như thánh
Anselmô rằng: "Ðức tin cũng cần được lý trí lĩnh hội", nghĩa là tôi
phải biết tôi tin ai, tôi tin gì và vì sao tôi tin; nhưng câu nói của thánh
Augustinô còn đúng một cách sâu sắc hơn nữa: "Tôi tin để tôi hiểu",
vì đức tin làm cho tôi thấy ý định cứu độ của Thiên Chúa trong lịch sử loài người.
Như thế đức tin đem khoa luận lý siêu nhiên của tình yêu và hy vọng bổ túc cho
khoa luận lý tự nhiên của lý trí hay suy tính, và đức tin làm cho lý trí chấp
nhận rằng Thiên Chúa có thể biến cái nghịch lý thành phương tiện cứu rỗi.
Chúa
Kitô còn muốn người ta phá đổ một đền thờ ngẫu tượng khác: đó là ngẫu tượng
"Vị Thiên Sai vinh quang trần thế". Ða số người Dothái thời bấy giờ,
kể cả những môn đệ của Người, đã mơ ước một Ðấng Cứu thế có quyền năng đem lại
thịnh vượng vật chất và vẻ vang thế tục cho họ, để họ đua đòi với thiên hạ. Họ
muốn rằng: Người phải là Vị cứu tinh đó. Nhưng Người đã quyết liệt khước từ, vì
Nước Người không ở trần gian và sứ mạng của Người tiên vàn không phải là xây dựng
đời sống vật chất, mà là đổi mới tâm hồn nhân loại. Chúa Kitô muốn rằng chúng
ta phải hoán cải, phải thay đổi kiểu nhìn và lối sống cho phù hợp với đức công
chính và luật thương yêu là đòi hỏi của Chúa Cha. Ðấng giải hòa chúng ta với
Người trong Con Một yêu dấu. Sự hoán cải nội tâm và giải hòa với Thiên Chúa bằng
tình yêu như thế chắc chắn sẽ có những âm hưởng xã hội trong tương quan giữa
con người với con người và đóng góp hữu hiệu vào việc xây dựng một thế giới
nhân đạo, huynh đệ và hạnh phúc hơn. Do đó người ta có thể nói: Nước Trời
lành-mạnh-hóa và củng cố Nước trần gian từ bên trong. Sứ mạng của Chúa Kitô
cũng như các tín hữu đối với thế giới, trước tiên là một sứ mạng tinh thần,
dùng sức mạnh của tình thương và ánh sáng của Thánh Thần để biến đổi và nâng
cao phẩm chất đời sống loài người. Tính háo danh và óc vụ lợi của người Dothái
ngày xưa cũng như chúng ta hôm nay là một ngẫu tượng đã và đang ngự trị trong
lòng ham muốn và ý chí thống trị của tâm thức nhân loại. Ta phải phá đền thờ ngẫu
tượng ấy, cũng như Chúa Kitô đã đánh tan hình ảnh sai lạc mà dân Dothái phác họa
về sứ mạng Thiên Sai của Người. Người đã cho họ thấy một thực tế phũ phàng là:
Ðấng Cứu thế phải chết trên Thập giá �một cớ vấp phạm
không thể chấp nhận đối với người Dothái- (1C1,24). Nhưng chính cái chết ô nhục
ấy đã đem lại cho ta: vinh dự được làm con Thiên Chúa và được cứu độ muôn đời.
Cõi
lòng con người chưa được cứu độ quả là một đền thờ chứa đầy ngẫu tượng: ngẫu tượng
dị đoan mê tín, gắn liền với sai lầm và dối trá, ngẫu tượng hận thù, ngẫu tượng
hưởng thụ, ngẫu tượng tiền tài, ngẫu tượng tự mãn. Ðạo Chúa cấm tôn thờ các ngẫu
tượng ấy, như bảng Mười Ðiều Răn của Giao Ước Sinai đã công bố (Xh 20,1-17). Chỉ
có một Ðấng duy nhất đáng tôn thờ: đó là Cha Ðức Yêsu Kitô và cũng là Cha chúng
ta ở trên trời. Ðền thờ Người không phải là những ngôi nhà bằng đá, nhưng là những
tâm hồn sống động xây quanh Người Con yêu dấu của Người: Ðức Yêsu Kitô, đền thờ
của Giao Ước mới.
2.
Phụng Tự Mới, Ðền Thờ Mới
"Hãy
phá đền thờ này và sau 3 ngày, Ta sẽ xây dựng lại" (Yn 2,19). Người
Dothái, khi nghe lời đó, đã hiểu theo nghĩa đen và nghĩ rằng Chúa Yêsu có ý định
phá ngôi đền thờ bằng đá, trung tâm phượng tự của dân tộc họ. Vì thế họ chất vấn
Người tại chỗ, và sau này trước tòa án công nghị, họ sẽ tố cáo Người và đòi xử
án tử hình cho Người (Mc 14,58). Quả thực trung tâm phượng tự ấy bị thu hẹp bởi
ranh giới quốc gia và chủng tộc, và nơi đây người ta sát tế chiên bò để làm lễ
đền tội. Ðền thờ ấy, từ nay, trong chế độ Tân Ước, đã hết ý nghĩa, vì thế phải
được thay thế bởi một đền thờ mới, để thờ phượng Chúa Cha trong Thần Trí và Sự
Thật. Việc phượng tự mới không dành riêng cho một dân tộc nào, nhưng mở rộng
cho cả loài người, quy tụ trong Ðức Kitô. Tế vật không còn phải chiên bò nữa,
nhưng chính là Con Thiên Chúa.
Theo
thần học của thánh Phaolô, Ðức Kitô đã trở thành tội vì ta, trong thân phận xác
thịt tội lỗi của ta (Rm 8,3). Người chấp nhận để cho thân xác Người bị phá hủy
hầu đền tội thay ta và kết án tội thế gian ngay nơi thân xác Người. Một khi Người
đã tự nguyện để cho thân xác mình bị dập nát và hạ xuống lòng đất, thì đền thờ
ngẫu tượng không có quyền đứng ngạo nghễ trong lòng ta nữa. Phải phá nó đi để
xây dựng lại đền thờ Thiên Chúa như một công trình sáng tạo mới, trong đà mạnh
mẽ vươn lên cõi sống.
-
"Hãy phá đền thờ này, đền thờ do bàn tay loài người làm ra" (Mc
14,58). Cái tôi tội lỗi trong ta phải chết đi với các đam mê của nó, để con người
mới sống lại với tinh thần của Thiên Chúa. Việc phượng tự hẹp hòi và bị giới hạn
bởi các nghi thức bề ngoài của lề lối cũ, phải được thay thế bằng việc phượng tự
nội tâm, thiêng liêng là cách thờ phượng chân thật, vì được thôi thúc bởi Thần
Trí của Ðức Kitô Phục sinh và dựa theo ánh sáng của mạc khải tròn đầy trong Con
Thiên Chúa.
-
"Sau ba ngày, Ta sẽ xây dựng lại một đền thờ không do bàn tay loài người
làm ra" (Mc 14,58; Yn 2,19). Ba ngày là thời gian Người sẽ chết trước khi
chỗi dậy trong năng lực Thánh Thần. Từ đó Người trở nên đền thờ thiêng liêng,
nơi phát xuất nguồn nước hằng sống (Yn 7,37-39; 19,34). Thân xác đã chịu chết
và sống lại của Người chính là dấu chỉ bí tích nền tảng, làm phát xuất Ơn Thánh
mà ta đã lãnh nhận qua bảy bí tích, nhất là bí tích Rửa tội và bí tích Thánh Thể.
Nhờ đó ta thờ phượng Chúa Cha cách xứng hợp và được nuôi dưỡng bởi Thân Mình
Chúa Kitô đã bị sát tế vì ta. Khi ta được sát nhập vào Thân Mình Ðấng Phục
sinh, ta thực sự trở nên đền thờ của Chúa Thánh Thần (1C 3,16; 6,19). Và cả
Giáo Hội là một đền thờ rộng lớn (Ep 2,19-21), trong đó phụng vụ được cử hành để
thờ phượng, tôn vinh Chúa Cha.
Việc
phượng tự mới của chúng ta cũng phải tuân theo định luật Vượt qua của mầu nhiệm
Chúa Cứu thế: đền thờ cũ với các ngẫu tượng phải phá đi. Con người cũ với các tội
lỗi, phải chết đi. Như thế Ðức Kitô Phục sinh sẽ hoạt động trong ta, và xây dựng
lại ngôi đền thờ mới ngay giữa lòng ta, nơi mà Thần Trí Người sẽ ngự trị, sẽ
khơi dậy tâm tình nghĩa tử và làm phát lên lời cầu nguyện thiết tha:
"Abba, lạy Cha yêu dấu" (Yn 4,6; Rm 8,15). Ðó chính là thờ phượng
Chúa Cha trong Thần Trí và Sự Thật (Yn 4,23).
Giảng
Lễ
Có
lẽ không bao giờ chúng ta thấy Chúa Yêsu có thái độ như trong bài Phúc Âm hôm
nay. Dường như khi bước vào đền thờ Yêrusalem, Người không còn tự chủ được nữa.
Người đi vào nơi cầu nguyện, thế mà trước mắt chỉ có cảnh chợ búa mua kém bán
hơn, ồn ào lủng củng. Nhà của Cha Người không còn là nơi gặp gỡ giữa tâm hồn đạo
đức và dân đã được tuyển chọn với Chúa Cả trời đất và Chúa của dân Israel nữa!
Người ta đã tụ họp lại đây, đâu còn giống như ngày trước, khi ở chân núi Sinai,
lúc Chúa ban 10 điều răn như bài đọc Cựu Ước hôm nay còn kể lại. Thay vào quang
cảnh phụng vụ của buổi lễ ký kết giao ước xưa, nay chỉ còn cảnh buôn bán bóc lột
nhau. Chịu làm sao nổi một cảnh tượng như vậy! Ðấng được Chúa Cha sai xuống trần
thế tái lập giao ước, không dẹp cảnh khốn nạn kia đi sao được! Lòng nhiệt thành
đối với Nhà Chúa, đối với Giao ước nung nấu tâm can Người. Người phải nhào vào,
đánh đuổi những kẻ buôn thần bán thánh, thanh tẩy đền thờ cho Cha Người, rửa lại
bộ mặt cho tôn giáo giao ước. Làm như vậy, Ðức Kitô đã tỏ ra là Cứu thế, là Ðấng
thánh hóa các tâm hồn, là vị phải đến để đưa tôn giáo vào con đường chính đáng.
Nhưng
đó chỉ là hành động tượng trưng. Việc xua đuổi hạng con buôn ra khỏi đền thờ chỉ
thành công trong một lúc, cùng lắm trong một ngày. Phúc Âm không nói có một sức
kháng cự nào. Nhưng liền sau đó, Ðức Kitô đã gặp ngay phải não trạng của người
Dothái. Chính đầu óc tội lỗi này đã đẻ ra cảnh chợ búa ở ngay trong đền thờ. Họ
chạy lại hạch Chúa Yêsu: "Ông tỏ ra có uy quyền gì mà dám làm như vậy?
Nghĩa là: Ông lấy quyền đâu mà dám đi ngược lại thứ tôn giáo của chúng
tôi?" Câu hỏi thật bất ngờ và sâu sắc. Nó diễn tả đúng não trạng của người
Dothái luôn luôn đòi dấu lạ. Phải có những phép lạ tương đương với các công cuộc
kỳ diệu mà xưa kia Chúa đã làm cho cha ông họ, mới làm họ tin được. Sách Thánh
nhắc nhở cho họ biết Chúa đã làm vô vàn kỳ công cho dân tộc này. Họ hãnh diện
nhưng đồng thời lại trở nên cứng lòng. Họ tin vào mình và vào truyền thống, đến
nỗi không còn gì nhạy cảm nữa đối với những lời tinh thần. Vì còn có thể có lời
tinh thần nào nữa ở ngoài đầu óc của họ, bởi lẽ họ là dòng dõi của người con
tinh thần là Isaac? Họ trở thành biệt phái, kỳ thị đối với hết mọi người cư xử
khác họ. Thế nên có lần họ dám kể Chúa Yêsu vào hàng ngũ Bêelzêbút. Muốn diễn tả
nôm na, thì đã có lần họ gọi Người là đồ quỷ! Thái độ của họ làm ta có thể liên
tưởng tới một vài thái độ hằng gặp ở nơi chính chúng ta, để chúng ta nên biết
đó là thái độ có thể đi đến chỗ giết Chúa và bóp nghẹt chân lý.
Chúa
Yêsu đã phản ứng thế nào trước một thái độ như vậy? Có thể nói, Người đã chẳng
biết phải đáp lại thế nào. Lời nói như đã đứng nghẹn ở nơi cổ Người, để cuối
cùng thốt ra thành một câu thật đầy ý nghĩa: "Cứ phá đền thờ này đi, ba
ngày sau Ta sẽ xây lại". Dĩ nhiên, những người Dothái kia đã chẳng hiểu
gì. Nói đúng hơn, họ đã hiểu theo chiều hướng cố hữu của mình: Ông Yêsu này thật
là lộng ngôn phạm thượng. Làm náo loạn trong đền thờ chưa đủ, ông ta còn muốn
phá đổ đền thờ này đi, để xây một đền thờ khác. Ông ta khinh bỉ và thù nghịch đền
thờ của ta đến như vậy! Họ ghi thêm một tội nữa vào bảng cáo trạng sau này dùng
vào việc lên án Chúa. Nhưng đó không phải là ý Người.
Ðối
với Người, các ngôi đền thờ bằng gạch đá không phải là điều quan trọng. Người
đã nói thẳng với người phụ nữ thành Samaria: kẻ tôn thờ chân thật, phải thờ phượng
trong tinh thần và trong chân lý. Người đến để tìm những con người như vậy. Mà
Người là Chân lý, là Sự thật, là Lời-Thiên Chúa nhập thể. Ai muốn thờ phượng
trong chân lý, phải nghe tiếng Người, phải giữ Lời Người, như nhiều lần Người
đã quả quyết với dân Dothái. Chính Chúa Cha cũng đã tuyên bố: Người là Con yêu
dấu, và chúng ta phải nghe Lời Người, như ta đã đọc thấy trong bài Phúc Âm Chúa
Nhật tuần trước. Nhưng người Dothái cứng đầu, họ không vâng lời. Họ không để Lời
Chúa giáo dục họ đi trong Giao ước 10 điều răn. Nên đền thờ của họ đã trở nên
nơi buôn bán; tôn giáo của họ đi đến chỗ vụ hình thức và pháp luật. Chúa Cứu thế
phải cải tạo não trạng này, chứ không cần thanh tẩy đền thờ. Người thánh hóa đền
thờ để nói rằng Người sẽ cải tạo những tâm hồn mà Người biết rõ đang sống trong
tội lỗi.
Chính
đền thờ các tâm hồn mới cần được thanh tẩy. Và đối với những tâm hồn chai đá,
phải đập nát để xây dựng lại hầu trái tim mọi người trở thành trái tim thịt biết
yêu mến và biết nghe lời.
Nhưng
làm thế nào? Ðức Kitô đã chấp nhận gánh lấy tội lỗi của mọi người trên vai. Người
đã mặc lấy thân xác của loài người. Người bằng lòng để thân xác mình chịu đóng
đinh vào thập giá. Thân thể Người sẽ bị tan nát trong đau thương, để từ đó sống
lại với sức mạnh thánh thiện của thần tính, thân xác Người trở thành đền thờ mới
cho người ta cầu nguyện.
Ðó
là con đường Người đã đi. Không có đường lối cứu độ nào khác. Người mời ta đi
vào con đường ấy trong mùa Chay này. Gương Người chịu chết để tiêu diệt tội lỗi
cho ta, khuyến khích ta trong những tuần lễ này phải kết hiệp với Người mà
thanh tẩy tâm hồn và đời sống. Bảng 10 điều răn ta đọc hôm nay nhắc nhở chúng
ta kiểm điểm lại đời sống. Biết đâu tâm hồn và đời sống ta hiện nay không như đền
thờ Yêruselem ngày trước. Phải đuổi, phải xua những gì không phù hợp với tín
ngưỡng và Phúc Âm ra khỏi đời sống của mình. Nhất là phải diệt cho đến tận gốc
của tội lỗi, là sự chai lì đối với Lời Chúa. Không còn nhạy cảm khi nghe Phúc
Âm nữa, mà như người Dothái, dường như phải chờ thấy phép lạ mới sửa đổi đường
lối sống đạo hiện nay. Chúa Yêsu đã trả lời cho người Dothái rồi: cứ phá đền thờ
này đi, ba ngày sau, Người sẽ xây dựng lại� Dân này đòi dấu lạ,
nhưng họ sẽ chẳng được thấy dấu lạ nào khác ngoài dấu lạ như Yôna thuở xưa. Ông
đã ở trong bụng cá ba ngày, thì Con Người cũng sẽ sống lại sau ba ngày nằm
trong lòng đất. Và dấu lạ này đòi người ta phải tham dự. Mọi người có bằng lòng
chết với Ðức Kitô, họ sẽ mới cùng Người được sống lại. Chẳng có phép lạ nào
khác có thể thay đổi được não trạng và đời sống tội lỗi của con người, ngoại trừ
chính việc người ta phải cùng Ðức Kitô đóng đinh tội lỗi vào Thập giá.
Chúng
ta đang tham dự Thánh lễ. Chúng ta muốn kết hiệp với Ðức Kitô trong mầu nhiệm
Thánh Thể là mầu nhiệm chết và sống lại của Chúa.
Chúng
ta chỉ thành tâm tham dự Thánh lễ này, nếu giờ đây ta cùng nhau dứt khoát đem ý
chí muốn tiêu diệt tội lỗi lên bàn thờ, để ta dâng mình với Ðức Kitô trong mầu
nhiệm hy tế, hầu ơn sống lại của Người sẽ khiến ta đổi đời và canh tân đời sống
sau khi bước ra khỏi nhà thờ này. Như vậy ta mới thật sự kết hiệp với Chúa
trong mầu nhiệm thanh tẩy đền thờ là chính tâm hồn và đời sống của ta.
(Trích
dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của
Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Chủ Nhật III Mùa
Chay,
Năm B
Bài đọc: Exo 20:1-17; I
Cor 1:22-25; Jn 2:13-25.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Làm thế nào để thanh tẩy và làm đẹp đền thờ tâm hồn?
Ít có người trong
chúng ta thích ở dơ dáy bẩn thỉu, và khó chịu khi phải ở chung với người như thế;
vì sợ bệnh tật và thiệt hại cho sức khỏe. Để tránh ở dơ, chúng ta phải dành thời
giờ để tắm rửa, dọn dẹp, và lau chùi. Trong đàng thiêng liêng cũng thế, chúng
ta không thể chất chứa tội trong tâm hồn; vì chúng sẽ tàn phá và đưa chúng ta dần
dần đến chỗ chết. Hơn nữa, Thiên Chúa không thể ở trong những tâm hồn tội lỗi.
Để có thể rước Thiên Chúa vào lòng và ở lại trong tâm hồn, chúng ta cần thường
xuyên xét mình để nhận ra những tội lỗi, và mau chạy đến với BT Giải Tội để làm
hòa và lãnh nhận ơn tha thứ. Mùa Chay là dịp thuận tiện để chúng ta thanh tẩy
những tính hư tật xấu trong tâm hồn, nhiều người gọi Mùa Chay là mùa xuân của
tâm hồn. Nhưng làm sao chúng ta có thể nhận ra những tội lỗi để thanh tẩy?
Các Bài Đọc hôm nay
cung cấp cho chúng ta những cách thức để nhận ra tội lỗi. Trong Bài Đọc I, Sách
Xuất Hành trình bày cách thức xét mình bằng Thập Giới: 3 giới răn đầu tiên đặc
biệt chú trọng tới mối liên hệ với Thiên Chúa, 7 giới răn sau chú trọng tới mối
liên hệ với tha nhân. Trong Bài-đọc II, Thánh Phaolô chọn Chúa Kitô chịu đóng
đinh trên cả hai thần: thần khôn ngoan của người Hy-lạp, và thần thích biểu
dương uy quyền của người Do-thái. Trong Phúc Âm, vì lòng nhiệt thành, khi thấy
Nhà Cha của Ngài ra ô uế, Chúa Giêsu đã đánh đuổi những con buôn ra khỏi Đền Thờ.
Ngài trách mắng họ: "Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà
Cha tôi thành nơi buôn bán."
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I:
Thập Giới giúp con người sống mối liên hệ tốt đẹp với Thiên Chúa và tha nhân.
1.1/
Ba điều giúp con người sống mối liên hệ với Thiên Chúa:
(1) Phải yêu mến Thiên Chúa hết lòng và trên hết mọi sự: Chỉ có một Thiên Chúa
mà thôi; tất cả các thần khác là do con người tạo nên: Thần Tài, Thần Mặt Trời,
Vệ Nữ, Thần Mammon. Lời của Thiên Chúa cảnh cáo những ai muốn thờ hai thần hay
làm tôi hai chủ: “Ngươi không được phủ phục trước những thứ đó mà phụng thờ: vì
Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, là một vị thần ghen tương. Đối với những kẻ
ghét Ta, Ta phạt con cháu đến ba bốn đời vì tội lỗi của cha ông. Còn với những
ai yêu mến Ta và giữ các mệnh lệnh của Ta, thì Ta trọn niềm nhân nghĩa đến ngàn
đời.”
(2) Chớ kêu tên Thiên Chúa cách vô cớ: Ngươi không được dùng danh Đức Chúa, Thiên
Chúa của ngươi, một cách bất xứng, vì Đức Chúa không dung tha kẻ dùng danh Người
một cách bất xứng.
(3) Giữ ngày Chủ Nhật: Người Do-thái giữ ngày thứ bảy, và gọi đó là ngày
Sabbath; vì Thiên Chúa đã hòan tất việc tạo dựng và nghỉ ngơi trong ngày đó. Họ
tuyệt đối không làm việc xác trong ngày đó. Chúng ta giữ ngày Chủ Nhật, vì là
ngày Chúa Giêsu sống lại. Vì kế sinh nhai, Giáo Hội cho phép người nghèo và những
người không thể nghỉ được làm việc; nhưng không có nghĩa là tất cả được phép.
Con người cần được nghỉ ngơi và cần dành thời giờ cho Thiên Chúa. Khi đã có đủ
ăn, con người cần lo lắng cho những giá trị tinh thần nhiều hơn, và cho anh chị
em có cơ hội làm việc để sinh sống. Thần Mammon rất dễ lợi dụng ngày này.
1.2/
Bảy điều giúp sống mối liên hệ với tha nhân: Các điều này cần thiết; tuy
nhiên, khi có xung đột, phải giữ ba điều trên trước.
(4) Thảo kính cha mẹ.
(5) Ngươi không được giết người.
(6) Ngươi không được ngoại tình.
(7) Ngươi không được trộm cắp.
(8) Ngươi không được làm chứng gian hại người.
(9) Ngươi không được ham muốn vợ người ta.
(10) Ngươi không được ham muốn bất cứ vật gì của người ta.
2/
Bài đọc II:
Đức Kitô chịu đóng đinh là sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa.
2.1/
Khôn ngoan của người đời: Mỗi dân tộc đều có những đặc điểm mà họ rất hãnh diện; chẳng hạn,
người Trung-hoa tự hào vì tài bắt chước, không một sản phẩm nào mà họ không làm
giả được. Thánh Phaolô cũng đưa ra hai dân tộc rất tự hào về truyền thống của họ,
là Do-thái và Hy-lạp:
- Người Do-thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ: Họ đã từng thách thức Chúa
Giêsu tỏ uy quyền bằng cách làm phép lạ để họ có thể tin vào Ngài. Trong Phúc
Âm Gioan hôm nay, họ cũng thách thức Chúa Giêsu: "Ông lấy dấu lạ nào chứng
tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?"
- Người Hy-lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan: Triết học của Plato và Aristotle, hùng
biện như Demosthenes. Họ khao khát biết sự thật và nguồn gốc của mọi sự để thuyết
phục con người tin họ.
Thánh Phaolô hãnh diện tuyên xưng: Nhưng chúng tôi lại rao giảng một Đấng Kitô
bị đóng đinh: điều mà người Do-thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và
Dân-ngoại cho là điên rồ. Ô nhục vì chỉ có kẻ cướp của giết người mới phải chịu
án tử Thập Giá; điên rồ vì Thiên Chúa không thể chịu đau khổ, một Thiên Chúa chịu
đau khổ không còn là Thiên Chúa uy quyền nữa.
2.2/
Khôn ngoan của Thiên Chúa: “Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do-thái
hay Hy-lạp, Đấng ấy chính là Đức Kitô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên
Chúa. Vì cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và
cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người.”
- Khôn ngoan không chỉ là học cho biết những lý thuyết cao xa, những điều bí ẩn,
kỳ diệu; nhưng không sinh lợi ích gì cho con người. Khôn ngoan đích thực là học
biết thánh ý của Thiên Chúa để đạt được mục đích của cuộc đời. Qua Đức Kitô,
con người biết được những kế họach của Thiên Chúa, và cách thức làm sao để đạt
được mục đích của cuộc đời. Thánh Thomas Aquinas, một nhà thần học lỗi lạc của
Dòng Đa-minh tuyên bố: “Tôi học dưới chân Thánh Giá được nhiều điều hơn bất cứ
nơi nào khác.”
- Sức mạnh không chỉ đo lường bằng vũ lực hay quyền năng, nhưng làm sao có thể
lay chuyển được lòng người; ví dụ, sức mạnh của anh hùng phải nhường bước trước
giọt nước mắt của phụ nữ. Thập Giá Đức Kitô có sức làm mềm những con tim chai
đá nhất, và cải hóa họ về cho Thiên Chúa. Qua Thập Giá, Đức Kitô đánh bại quyền
lực của quỉ thần và sự chết, và đưa con người về cho Thiên Chúa.
3/
Phúc Âm:
Đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán.
3.1/
Lòng nhiệt thành của Chúa Giêsu cho Nhà Cha của Ngài: Tại sao Chúa Giêsu
đuổi họ? Hai lý do chính:
(1) Đền Thờ là nơi cầu nguyện: là chỗ con người tiếp xúc với Thiên Chúa. Người
nói với những kẻ bán bồ câu: "Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng
biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán."
(2) Họ dùng Lề Luật tôn giáo để kiếm lợi nhuận kinh tế: Đây là cả một hệ thống
kinh tài dựa trên các luật con người dâng lễ vật để đền tội. Khi lên Đền Thờ
dâng lễ vật đền tội, con người phải dâng những lễ vật thanh sạch và không tì
tích. Để bảo đảm điều này, các con vật phải được khám xét bởi các chuyên gia của
Đền Thờ. Thử tưởng tượng trường hợp của những người phải mang lễ vật và đi mấy
ngày đàng mới tới Jerusalem, đến khi thanh tra những con vật mình mang lên lại
không đủ tiêu chuẩn, mà không có lễ vật thì tội không được tha. Họ đành phải bỏ
tiền mua các con vật của các chuyên gia hay người nhà của họ, nhiều khi đắt gấp
cả chục lần. Để có quầy hàng trong khu vực Đền Thờ, họ lại phải là người nhà
hay quen biết với các thượng-tế, kinh sư, và các tư tế.
3.2/
Làm thế nào để thanh tẩy và trang hòang đền thờ tâm hồn? Trong cuộc đối thọai
giữa Chúa Giêsu và các nhà lãnh đạo Do-thái, Ngài nhấn mạnh đến Đền Thờ là
chính thân thể của Ngài. Nếu Đền Thờ Jerusalem không thể vừa là chỗ thờ phượng,
vừa là chỗ để làm thương mại; đền thờ tâm hồn của mỗi người cũng không thể vừa
là chỗ cho Thiên Chúa vừa là chỗ cho ma quỉ. Vì Thánh Phaolô nhấn mạnh: “thân
thể anh em là đền thờ của Chúa Thánh Thần” và “thân thể anh em là chi thể của Đức
Kitô.”
Để có thể thanh tẩy tâm hồn, điều trước tiên con người phải làm là quyết tâm chỉ
thờ một Thiên Chúa mà thôi: Không thờ phượng hai thần, không làm tôi hai chủ.
Bài Đọc I nói rõ: “Thiên Chúa là Thiên Chúa ghen tương.” Ngài không chấp nhận ở
chung với bất cứ thần nào.
- Thánh Teresa Hài Đồng nói: “Thiên Chúa nhận tất cả những gì chúng ta cho
Ngài, nhưng sẽ không cho tất cả những gì của Ngài cho chúng ta, cho tới khi
Ngài nhìn thấy chúng ta đang cho Ngài tất cả những gì chúng ta có.”
- Thánh Gioan Thánh Giá nói: “Đừng để ý tới bất cứ tạo vật nào nếu anh muốn giữ
hình ảnh của Thiên Chúa rõ ràng và đơn nhất trong linh hồn anh, nhưng hãy trút
đi tất cả những gì liên quan tới chúng và chạy xa khỏi chúng, và anh sẽ đi
trong ánh sáng của Thiên Chúa.” Còn biết bao các thần tạo vật mà chúng ta đang
làm nô lệ cho nó trong cuộc đời. Hãy mạnh dạn để quăng đi tất cả để có thời
gian và dành cho Thiên Chúa chỗ ưu việt nhất trong cuộc đời.
- Nếu chúng ta chọn thanh tẩy tâm hồn, chúng ta biết rằng chúng ta càng thanh tẩy
tâm hồn bao nhiêu, tiến trình thanh tẩy càng dễ dàng bấy nhiêu. Trong đời sống
nội tâm có một ảnh hưởng dây chuyền, chúng ta càng đi sâu vào, chúng ta càng ao
ước được trở nên trong sạch hơn để chúng ta càng sống thân tình với Thiên Chúa
hơn.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải thờ phượng và kính mến Thiên
Chúa trên hết mọi sự.
- Chúng ta phải học nơi Thập Giá của Đức Kitô hơn là bất cứ nơi nào trong thế
giới này, vì Ngài là sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa.
- Chúng ta phải thường xuyên thanh tẩy tâm hồn, để nhiệt thành và dứt khóat
quét sạch các nhơ bẩn, bụi bặm của tội lỗi, để xứng đáng trở nên Đền Thờ cho
Thiên Chúa ngự. Chỉ có những tâm hồn trong sạch mới được nhìn thấy Thiên Chúa
(Phúc thứ 6). Thánh Thomas Aquinas quả quyết một tâm hồn trong sạch có thể
chiêm ngưỡng Thiên Chúa từ đời này.
- Chúng ta phải dứt khóat không làm tôi hai chủ, chỉ thờ phượng một mình Thiên
Chúa mà thôi.
Lm.Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.
08/03/15 CHÚA NHẬT TUẦN
3 MC – B
Ga 2,13-25
Ga 2,13-25
Suy niệm: Đức
Giê-su vốn quý trọng Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Ngài gọi đó là nhà Cha của Ngài,
nhà cầu nguyện. Ngài không muốn nơi thánh này trở thành nơi buôn bán, đổi chác
tiền bạc. Hơn nữa, tiền đang lưu hành trên thị trường được đổi thành tiền Đền
Thờ với giá cắt cổ. Bò, chiên, bồ câu thường được bán với giá gấp mười lăm lần
giá bên ngoài. Đền Thờ trở thành nơi giới thượng tế nhân danh việc phụng thờ
Thiên Chúa để bóc lột khách hành hương. Do lòng yêu mến Chúa Cha và yêu mến con
người, Đức Giê-su đã bừng bừng nổi giận, không thể khoanh tay nhìn nơi thánh bị
xúc phạm, khách hành hương khốn khổ bị bóc lột.
Mời Bạn: Giữ
gìn nhà thờ luôn sạch đẹp, bầu khí tôn nghiêm là điều cần thiết. Thế nhưng, giữ
gìn ngôi đền thờ thiêng liêng, nơi Chúa Ba Ngôi ngự, là tâm hồn ta, cũng cần
thiết không kém. Mùa Chay là dịp tốt nhất để Chúa thanh tẩy tâm hồn bạn khỏi
những ngẫu tượng như tiền bạc, bản năng, thói ích kỷ... qua việc thực hiện qua
trụ cột của mùa Chay: siêng năng cầu nguyện, ăn chay (hy sinh) và làm việc bác
ái.
Sống Lời Chúa: Tôi
sẽ bớt những chi tiêu không cần thiết để chia sẻ với người nghèo hoặc đóng góp
xây dựng nhà Chúa trong mùa Chay này.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, chúng con cảm phục Chúa đã can đảm thanh tẩy Đền Thờ dù
biết rằng làm vậy sẽ chịu nhiều thiệt thòi. Xin cho con can đảm từ bỏ
thói coi tiền bạc trọng hơn Chúa hầu tâm hồn con xứng đáng là nơi Chúa ngự.
Amen.
Yếu tố con người.
Paganini
là một nhạc sĩ vĩ cầm nổi tiếng của Ý vào thế kỷ XIX. Trong một cuộc trình diễn,
ông linh cảm như có một điều gì bất ổn và khi nhìn kỹ cây đàn, ông khám phá ra
đó không phải là cây đàn quen thuộc đã từng đưa ông lên đài danh vọng. Ông đứng
lặng trong giây lát, rồi lên tiếng: Vì lý do kỹ thuật, xin quý vị vui lòng chờ
đợi trong giây lát, vì tôi đã cầm lộn cây đàn. Nói xong, ông vào hậu trường bước
thẳng đến nơi ông vẫn để cây đàn quen thuộc. Ông bàng hoàng nhận ra có người đã
đánh cắp cây đàn quý giá của ông và đã đặt một cây đàn rẻ tiền thay thế vào đó.
Trong lúc còn bàng hoàng thì bỗng một ý tưởng loé lên trong đầu, khiến ông mạnh
dạn cầm lại cây đàn rẻ tiền kia mà bước ra sân khấu. Ông nói vơi khán giả: Kính
thưa quý vị, ai đó đã đánh cắp cây đàn quý giá của tôi, nhưng trong buổi trình
diễn này tôi muốn chứng minh cùng quý vị là vẻ đẹp và nét tinh tuý của âm nhạc
không nằm trong nhạc khí, nhưng hàm ẩn nơi chính con người của nhạc sĩ. Phải yếu
tố con người mới là quan trọng.
Từ
câu chuyện này chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay, qua đó chúng ta thấy Chúa
Giêsu xua đuổi phường buôn bán ra khỏi đền thờ, vì họ đã biến đền thờ, nơi cầu
nguyện thành một chốn buôn bán, thành một hang ổ trộm cướp. Và những người Do
Thái đã vặn hỏi: Ông lấy quyền gì mà làm như vậy? Chúa Giêsu đã trả lời: Các
ông cứ phá đền thờ này đi, nội trong ba ngày tôi sẽ xây dựng lại. Và Phúc âm đã
ghi nhận: Đền thờ Ngài muốn nói đến ở đây chính là thân xác Ngài. Lần khác, bên
bờ giếng Giacóp, Ngài đã nói với người phụ nữ Samaria: Không phải thờ phương
Thiên Chúa ở núi này hay núi nọ, mà phải thờ phượng trong tinh thần và chân lý.
Với
những lời xác quyết trên, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã đặt nặng yếu tố con người.
Con người với thân xác và tâm hồn chính là một đền thờ cho Thiên Chúa ngự trị,
chính là một nhạc sĩ làm vang lên muôn cùng điệu chúc tụng Thiên Chúa. Thực vậy,
nhờ bí tích Rửa Tội, tâm hồn chúng ta trở thành ngôi đền thờ thiêng liêng cho
Thiên Chúa. Chính vì thế, chúng ta phải gìn giữ tâm hồn chúng ta khỏi mọi dấu vết
của tội lỗi, để xứng đáng làm đền thờ của Ngài. Mặc dầu bên ngoài chúng ta nghèo
túng, ốm đau, hay gặp phải những điều bất hạnh, thì trong thẳm sâu cõi lòng,
trong ngôi đền thờ thiêng liêng ấy, luôn vang lên những lời ngợi khen và chúc tụng
Thiên Chúa.
Thế
nhưng, nếu lúc này Chúa Giêsu cũng đến và viếng thăm chúng ta, liệu Ngài có nhận
ra tâm hồn chúng ta là một nơi cư ngụ lý tưởng cho Ngài hay là bằng những hành
động tội lỗi, chúng ta đã biến tâm hồn chúng ta thành một hang ổ trộm cướp?
Gương
Thánh Nhân
Ngày
08-03:
THÁNH
GIOAN THIÊN CHÚA
Tu
sĩ (1495 - 1550)
Gioan
sinh ngày 8 tháng 3 năm 1495 tại Bồ Đào nha. Cha mẹ Ngài là những người nghèo
khổ nhưng đạo đức và đầy lòng bác ái. Lúc 9 tuổi Ngài bỏ nhà trốn đi, theo một
nhà mạo hiểm đã khéo kích thích trí tưởng tượng của tuổi thơ. Mẹ Ngài đã qua đời
sau ba tuần đau khổ vì không biết số phận của con trẻ ra sao. Còn cậu bé bi bỏ
rơi, thiếu thốn mọi sự nên đành ở đợ nuôi thân.
Ngài
giúp việc cho một nhà tiểu nông, hàng ngày lo đi chăn chiên, cho đến khoảng 20
tuổi. Chán với cuộc sống đều đều, Ngài đăng lính đi chiến đấu ở Phontarabia. Thật
bất hạnh khi kiếp sống suy đồi của các bạn đồng ngũ đã lôi kéo Ngài tới chỗ mất
cả lòng kính sợ Chúa. Nhưng Chúa đã không bỏ rơi kẻ Ngài đã chọn. Ngày kia, khi
đem thức ăn cho súc vật. Gioan bị té ngựa và bị trọng thương không còn cử động
và nói năng gì được nữa. Nhận biết được mối nguy đang đe dọa thân xác tâm hồn,
thánh nhân khấn cầu Đức Trinh Nữ và hứa sẽ sửa mình. Nhưng khi vừa hết bịnh,
Ngài lại trở về đường cũ.
Chúa
quan phòng vẫn tiếp tục thể hiện tình thương bằng một hình phạt khác. Vị chỉ
huy trao cho Gioan canh giữ chiến lợi phẩm. Nhưng vì bất cẩn sao đó mà chiến lợi
phẩm biến mất. Gioan bị án xử giảo, bất kể mọi phân bua kêu khóc. Đến giờ hành
hình, may có một cấp chỉ hy cao hơn can thiệp Ngài mới được tha với điều kiện
là bị giáng cấp. Bất mãn, Gioan trở về chủ cũ và được tiếp đón niềm nở. Gia chủ
còn đề nghị gả con cho Ngài nữa, nhưng Ngài đã từ chối và chỉ sống như một kẻ
chăn chiên vô tội.
Mười
năm sau Gioan lại đăng lính làm pháo thủ trong cuộc viễn chinh đánh phá Thổ Nhĩ
Kỳ. Chiến tranh kết thúc, binh đội Tây Ban nha được giải ngũ. Gioan muốn trở về
quê nhà. Nhưng người cậu cho biết mẹ Ngài đã qua đời ba tuần sau ngày Ngài bỏ
nhà ra đi, cha Ngài cũng mới qua đời tại một tu viện thánh Phanxicô, những lời
trách móc xâu xé tấm lòng của đứa còn hoang đàng... Gioan quyết sửa những ngông
cuồng của tuổi trẻ và muốn hiến thân phục vụ người nghèo khổ yếu đau.
Gioan
quyết định đi Phi Châu để giúp đỡ các Kitô hữu bị bắt làm nô lệ, với hy vọng được
chết vì đạo. Tới Gibraltar, Ngài gặp một nhà quí tộc bị thất sủng và phải đi
đày. Cùng ông đáp tàu tớiCeuta, Ngài đã phải làm việc để kiếm tiền nuôi ông chủ
chẳng may ngã bệnh và lâm cảnh cùng quẫn. Đồng thời Ngài đã vào các nhà tù, an ủi
các tù nhân và săn sóc họ. Vị lãnh Chúa qua đời. Gioan nhận lệnh của một tu sĩ
Phanxicô truyền phải trở lại Tây Ban Nha là nơi Thiên Chúa đã cho Ngài biết các
ý định của Ngài.
Gioan
trở lại Gibraltar. Ngài xin trời cao soi sáng và để nuôi thân Ngài đi bán
rong giày dép và tranh ảnh, nhưng vẫn luôn lo cải hóa các tâm hồn.
Một
ngày kia Ngài gặp trên đường một đứa trẻ cùng khổ đáng thương với cặp giò trần
trụi bị nứt nẻ vì sỏi đá. Ngài vác nó trên vai, dừng lại nghỉ, đám trẻ chỉ cho
vị ân nhân một trái lựu (Grenade) có mọc cây thánh giá và nói: - Hỡi Gioan Thiên
Chúa, trái lựu (Grenade) sẽ là thánh giá của ông.
Rồi
đứa trẻ biến mất. Gioan hiểu chính Chúa Giêsu là đứa trẻ Ngài đã giúp đỡ. Bây
giờ Gioan đi Grenada để sống đời bác ái và thống hối. Thánh giá đầu tiên của
Ngài là đã bị coi như một kẻ điên, phải chịu mọi thứ sỉ nhục và bị đối xử tàn tệ,
Ngài hành hương viếng Đức Bà Guadalupê, vừa bán củi khô để sinh sống. Cuối cuộc
hành hương Ngài thấy Đức Trinh Nữ cúi xuống và đặt hài nhi vào tay Ngài với y
phục để bao bọc cho Ngài.
Như
vậy ơn gọi của Ngài là giúp đỡ những người nghèo khổ của Chúa Giêsu Kitô. Khi
qua Oropezo, Gioan đã chữa lành một phụ nữ nghèo. Trở lại Grenada với
số tiền kiếm được và với những của trợ cấp, Ngài thuê một căn nhà để thu họp những
người khốn khổ, cho các người yếu đau bệnh tật trú ngụ. Ban chiều, Ngài vác giỏ
đi ăn xin. Với hai cái xoong trên vai Ngài la lớn :- Ai muốn hành thiện, xin tiếp
tay với tôi đây ?
Ngài
trở về nhà mang đầy những thực phẩm. Niềm vui cũng thật lớn lao khi Ngài dẫn về
nhà vài trú nhân mới, một đứa trẻ bi bỏ rơi. Ưu tư của Ngài không ngừng lại nơi
các thân thể bệnh tật. Ở đâu nghĩ là có linh hồn hư mất, Ngài liền đến cải hóa.
Ngài chỉ nghĩ tới việc cứu vớt họ.
Lần
nọ Ngài mang về một người hấp hối mình đầy thương tích. Khi lau rửa và cúi xuống
hôn chân bệnh nhân, Ngài thấy những lỗ đinh chói sáng. Và Chúa, vì chính Ngài,
nói: - Gioan đầy tớ trung tín của cha, mọi việc thiện con làm cho những người
nghèo khổ, là con làm cho chính Cha. Cha đếm từng bước chân con đi và cha sẽ ân
thưởng cho con.
Bệnh
viện tràn ngập ánh sáng khiến cho người ta ngỡ là một đám cháy.
Ngày
kia có một đám cháy thật, ở bệnh viện Hoàng gia tại Grenada, Gioan lao vào ngọn
lửa mang các bệnh nhân ra ngoài, rồi trở lại kéo các bệnh nhân khác. Thật là một
phép lạ, khi ra khỏi lò lửa một Ngài vẫn sống.
Trong
một trận lụt, Ngài cũng thực hiện những chuyện lạ lùng như vậy.
Giám
mục truyền gọi Gioan Thiên Chúa đến, mặc cho Ngài y phục và từ đó Ngài và các
môn sinh vẫn mặc. Khi đó Gioan Thiên Chúa đã thiết lập một hội dòng để giúp đỡ
những người yếu đau bệnh tật. Dòng sẽ lan rộng trên khắp thế giới, Ngài xây
thêm một nhà thương mới. Để trả nợ, Ngài phải đi quyên tiền ở Valladelid. Nhưng
có quá nhiều người nghèo vây quanh đến nỗi không đã phân phát hết số tiền quyên
được. Người bạn chỉ trích, Ngài đáp lại: - Này anh, người ta tặng ban cho ở đây
hay ở Grenada, cũng luôn là vì Chúa, bởi vì Thiên Chúa ở khắp nơi và trong mọi
người nghèo.
Gioan
tận tụy với mọi người đau khổ không phân biệt. Ngài ngã bệnh khi tổng giám mụcGrenada kêu
tới. Ngài đi ngay và là để nghe trách cứ vì đã nhận cả những người cứng lòng.
Thánh nhân trả lời: - "Nếu con chỉ nhận những người công chính, bệnh xá của
chúng con sẽ trống vắng ngay, và làm sao có thể lo lắng cho các tội nhân. Hơn nữa
con nhận biết mình chưa làm tròn hết bổn phận, cũng như con hổ thẹn mà thú thực
rằng trong nhà thương, Gioan Thiên Chúa là tội nhân duy nhất đã ăn của bố thí một
cách vô ích".
Nghe
những lời này, vị giám mục cảm động đến rơi lệ và ca tụng Gioan. Ít lâu sau,
Ngài ban các bí tích cuối cùng cho thánh nhân. Sắp chết Gioan còn thực hiện một
điều lạ lùng, Ngài được biết một người thợ dệt sắp thắt cổ vì quá cực khổ, Ngài
liền vội vã ra đi, tới thẳng người xấu số sắp kết liễu cuộc đời và cứu ông ra
khỏi cơn tuyệt vọng .
Vào
giờ phút cuối cùng, thánh nhân thú nhận ba thứ lo lắng làm se thắt lòng Ngài,
là bất xứng với ơn phúc đã lãnh nhận, ưu tư cho những người nghèo mắc cỡ mà
Ngài đã bỏ qua không trợ giúp được và những món nợ Ngài đã mắc phải vì các người
xấu số.
Các
y tá đã nhận Gioan Thiên Chúa làm thánh bảo trợ.
(Daminhvn.net)
08
Tháng Ba
Phục
Sinh
Một
linh mục Brazil thuật lại một kinh nghiệm Phục Sinh của mình như sau: "Mỗi
ngày, khi đi ngang qua một con đường ở Rio de Janeiro, tôi đều thấy một người
đàn ông còn trẻ ngồi dựa lưng vào tường, chìa tay xin ăn. Ông ta không đi được
vì đôi chân bị tật. Vì qua lại khá thường, nên sự hiện diện và số phận của người
ăn xin què quặt không làm tôi bận tâm suy nghĩ: thế nào là không đi được".
Nhưng
một ngày kia, số phận của ông ta bỗng đánh động tâm hồn tôi mãnh liệt. Nhất là
khi dừng lại đằng xa quan sát tôi thấy có bao nhiêu người đi ngang qua mà hình
như không trông thấy ông. Tôi quyết định đến nói chuyện và hỏi ông: "Ông
có thể đứng dậy được không? Ông có muốn đi không?". Ông ta đưa cặp mắt mệt
mỏi nhìn tôi dò xét và khi đọc được sự thành thật trên khuôn mặt của tôi, ông
ta nói: "Tôi luôn luôn hy vọng là một ngày nào đó cuộc đời tôi sẽ đổi mới.
Dĩ nhiên tôi sẽ đi được nhưng chi phí mua sắm những dụng cụ quá đắt làm sao tôi
với tới. Vì thế không còn cách nào hơn là đành quên giấc mơ có thể đi được".
Nghe
xong tâm sự của ông, tôi xiết chặt tay ông giã từ và hứa: "Một ngày gần
đây, giấc mơ của ông sẽ thành sự thật".
Trong
bài giảng thánh lễ Chúa Nhật sau đó, tôi thuật về số phận của ông ăn mày và đề
nghị cô�ng
đoàn hãy làm một cái gì để giúp ông ta. Một cuộc lạc quyên được tổ chức và tôi
vui mừng khi thấy số tiền quyên góp được vượt quá chi phí của cặp nạn và đôi
chân nhân tạo. Người hành khất càng hân hoan hơn khi tôi báo tin mừng: ông được
chuyên chở ngay đến một bệnh viện đặc biệt và trong những tuần lễ kế tiếp, ông
cố gắng tập đi đứng một mình.
Lễ
Phục Sinh đến. Tôi đi mời ông dự lễ và dành cho ông một chỗ đặc biệt gần bàn thờ.
Trong bài giảng hôm ấy, tôi lại đề cập về ông đại ý như sau: "Chúa Giêsu
đã Phục Sinh để sống một cuộc sống mới. Ngài sẵn sàng ban cho chúng ta thông phần
vào khả năng trao tặng nhau những cuộc sống mới. Nhờ lòng hảo tâm của anh chị
em, ông bạn của chúng ta đã được ban cho một cuộc sống mới". Nói đến đây,
tôi mời ông đứng dậy để giới thiệu ông với cộng đoàn mà kể từ nay ông đã trở
nên một phần tử. Ông đứng dậy và chống nạng đi trước mặt mọi người. Tôi cảm thấy
bầu khí nhà thờ lúc ấy tràn đầy sức sống".
Tin
mừng thuật lại như sau: sau mẻ lưới đầy cá, Chúa Giêsu mời các môn đệ cùng điểm
tâm với Ngài và Ngài đã cầm lấy bánh và cá trao cho các ông ăn. Phần các môn đệ,
tuy không giám hỏi, nhưng họ biết rõ đó là Ngài. Ðây là phương thế Chúa Giêsu
tiếp tục hiện diện giữa những kẻ tin vào Ngài trải qua mọi thời đại: tự nhiên
như trong một bữa ăn thân mật, nhưng muốn cảm nghiệm sự hiện diện của Ngài,
chúng ta phải noi gương Ngài chia sẻ cho nhau tất cả những gì mình có.
(Lẽ
Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét