16/03/2015
Thứ Hai Tuần IV Mùa
Chay Năm lẻ
BÀI
ĐỌC I: Is 65, 17-21
"Thiên hạ sẽ không còn nghe tiếng khóc lóc và than van nữa".
Trích
sách Tiên tri Isaia.
Đây
Thiên Chúa phán: "Này Ta tác tạo trời mới, đất mới; người ta sẽ không còn
nhớ lại dĩ vãng, và cũng sẽ không bận tâm đến dĩ vãng nữa. Nhưng các ngươi hãy
hân hoan và nhảy mừng cho đến muôn đời trong các việc Ta tác tạo, vì đây Ta tác
tạo một Giêrusalem hân hoan và một dân tộc vui mừng. Ta sẽ hân hoan ở
Giêrusalem, sẽ vui mừng nơi dân Ta, và từ đây người ta sẽ không còn nghe tiếng
khóc lóc và than van nữa. Ở đó sẽ không còn trẻ nhỏ chết yểu, không còn người
già chết sớm nữa, vì người chết trăm tuổi cũng còn gọi là chết trẻ, người không
sống đến trăm tuổi, kể là bị chúc dữ. Họ sẽ xây cất nhà cửa và cư ngụ ở đó, sẽ
trồng nho và ăn trái nho". Đó là lời Chúa.
ĐÁP
CA: Tv 29, 2 và 4. 5-6. 11e-12a và 13b
Đáp:
Lạy Chúa, con ca tụng Chúa vì đã giải thoát con (c. 2a).
1)
Lạy Chúa, con ca tụng Chúa vì đã giải thoát con, và không để quân thù hoan hỉ về
con. Lạy Chúa, Ngài đã đưa linh hồn con thoát xa Âm phủ, Ngài đã cứu con khỏi số
người đang bước xuống mồ. - Đáp.
2)
Các tín đồ của Chúa, hãy đàn ca mừng Chúa, và hãy cảm tạ thánh danh Ngài. Vì
cơn giận của Ngài chỉ lâu trong giây phút, nhưng lòng nhân hậu của Ngài vẫn có
suốt đời. Chiều hôm có gặp cảnh lệ rơi, nhưng sáng mai lại được mừng vui hoan hỉ.
- Đáp.
3)
Lạy Chúa, xin nhậm lời và xót thương con, lạy Chúa, xin Ngài gia ân cứu giúp
con. Chúa đã biến đổi lời than khóc thành khúc nhạc cho con, lạy Chúa là Thiên
Chúa của con, con sẽ tán tụng Chúa tới muôn đời. - Đáp.
CÂU
XƯỚNG TRƯỚC PHÚC ÂM: Lc 15, 18
Tôi
muốn ra đi trở về với cha tôi và thưa người rằng: Thưa cha, con đã lỗi phạm đến
trời và đến cha.
PHÚC
ÂM: Ga 4, 43-54
"Ông hãy về đi, con ông mạnh rồi".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi
ấy, Chúa Giêsu bỏ Samaria mà đến Galilêa. Chính Người đã nói: "Không vị
tiên tri nào được kính nể nơi quê hương mình". Khi Người đến Galilêa, dân
chúng ra đón tiếp Người: Họ đã chứng kiến tất cả các việc Người làm ở Giêrusalem
trong dịp lễ; vì họ cũng đi dự lễ.
Người
trở lại Cana xứ Galilêa, nơi Người đã biến nước thành rượu. Bấy giờ có một quan
chức nhà vua ở Capharnaum có người con trai đang đau liệt. Được tin Chúa Giêsu
đã bỏ Giuđêa đến Galilêa, ông đến tìm Người và xin Người xuống chữa con ông sắp
chết. Chúa Giêsu bảo ông: "Nếu các ông không thấy những phép lạ và những
việc phi thường, hẳn các ông sẽ không tin". Viên quan chức trình lại Người:
"Thưa Ngài, xin Ngài xuống trước khi con tôi chết". Chúa Giêsu bảo
ông: "Ông hãy về đi, con ông mạnh rồi". Ông tin lời Chúa Giêsu nói và
trở về.
Khi
xuống đến sườn đồi thì gặp gia nhân đến đón, báo tin cho ông biết con ông đã mạnh.
Ông hỏi giờ con ông được khỏi. Họ thưa: "Hôm qua lúc bảy giờ cậu hết sốt".
Người cha nhận ra là đúng giờ đó Chúa Giêsu bảo ông: "Con ông mạnh rồi",
nên ông và toàn thể gia quyến ông đều tin. Đó là phép lạ thứ hai Chúa Giêsu đã
làm khi Người ở Giuđêa về Galilêa. Đó là lời Chúa.
(thanhlinh.net)
SUY NIỆM : Chữa con một quan chức
Một
thiếu nữ có giọng hát thiên phú, cô luyện giọng với một giáo sư âm nhạc tài ba,
cô đã hát được những giai điệu tuyệt hảo. Thế nhưng khi trình diễn, cô vẫn thấy
giọng hát của cô chưa được truyền cảm. Vị giáo sư âm nhạc giải thích cho cô:
“Tôi đã dạy cô tất cả những gì tôi biết, nhưng cô còn thiếu một điều mà tôi
không thể cung cấp cho cô được, điều đó đến từ cuộc sống: chỉ có kinh nghiệm của
cuộc sống, chỉ có những điều làm tan vỡ cõi lòng mới làm cô hát với tất cả cảm
xúc”.
Bước
vào tuần 4 mùa chay, Giáo Hội mỗi lúc một tha thiết mời gọi chúng ta tham dự
vào cuộc tử nạn của Chúa Giêsu để được xứng đáng chung phần vinh quang Phục
Sinh của Ngài. Cuộc sống với những khổ đau mà chúng ta đang trải qua quả là một
cuộc tử nạn dai dẳng. Là người kitô hữu, chúng ta được mời gọi sống lại cuộc tử
nạn của Chúa Giêsu bằng chính cuộc sống ấy. Sống lại cuộc tử nạn của Chúa Giêsu
không có nghĩa là tự đày đọa mình vào cuộc sống khổ lụy. Đau khổ tự nó không phải
là một giá trị để tìm kiếm. Sống lại cuộc tử nạn của Chúa Giêsu chính là mặc lấy
tinh thần tin yêu phó thác của Ngài. Thất vọng, buông xuôi, nổi loạn, trách móc
là cơn cám dỗ chung của mọi người. Chúa Giêsu có lẽ cũng không thoát khỏi những
giờ phút thử thách ấy. Thế nhưng ý hướng duy nhất của Ngài lúc đó là niềm tín
thác và tha thứ. Chỉ có thái độ như thế mới đem lại giá trị cho đau khổ và biến
cuộc tử nạn của Ngài thành của lễ đẹp lòng Thiên Chúa.
Đó
cũng chính là tâm tình mà Giáo Hội mời gọi chúng ta mặc lấy khi cho chúng ta
nghe và suy niệm về lòng tin của viên bách quản Caphanaum. Dù chỉ là một người
ngoại giáo, dù chưa một lần chứng kiến phép lạ nào của Chúa Giêsu, nhưng ông đã
tìm đến để xin Ngài chữa lành cho đứa con của ông, hay đúng hơn là để xoa dịu nỗi
đau khổ của người cha phải chứng kiến con mình quằn quại trong đau khổ.
Đau
khổ là lửa thử niềm tin con người, đau khổ có thể đưa con người đến thất vọng,
chối bỏ, và lộng ngôn, nhưng đau khổ cũng có thể là khởi điểm của tin yêu phó
thác. Nguyện xin Đấng là đường, là sự thật và là sự sống củng cố niềm tin chúng
ta giữa những đau khổ đè nặng trên thân xác và tâm hồn chúng ta.
(Trích
trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Hai Tuần IV MC
Bài đọc: Isa 65:17-21; Jn
4:43-54.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Niềm tin vào Thiên
Chúa có thể làm được mọi sự.
Có
một sự khác biệt to lớn giữa người có và không có niềm tin: Người có niềm tin
luôn lạc quan hy vọng, ngay cả trong những lúc tăm tối nhất của cuộc đời, như
khi phải sống trong đau khổ, bệnh tật, hay phải đối diện với thần chết. Người
không có niềm tin sống mà không biết hướng về đâu. Họ không có nghị lực để
đương đầu với đau khổ, bệnh tật, và đứng trước cái chết, họ không dễ dàng chấp
nhận. Các Bài Đọc hôm nay cho chúng ta thấy sự khác biệt của những con người đặt
niềm tin nơi Thiên Chúa.
Trong
Bài Đọc I, tuy sống cực khổ trong nơi lưu đày, tiên-tri Isaiah tin tưởng Chúa sẽ
xóa sạch mọi tang thương quá khứ, để sáng tạo một trời mới đất mới. Như Ngài đã
xóa sạch tội lỗi nhân lọai trong trận Lụt Hồng Thủy, Ngài sẽ xóa sạch tội lỗi
và cho dân hồi hương để tái thiết quốc gia và xây dựng lại Đền Thờ. Hơn nữa,
tiên-tri Isaiah cũng nhìn thấy trước ngày Đấng Thiên Sai sẽ tới và gánh tội cho
con người. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu chữa lành người con trai của viên sĩ quan
Dân Ngọai, không bằng việc đặt tay, nhưng bằng đức tin của người cha. Viên sĩ
quan năn nỉ Chúa Giêsu về nhà chữa trị cho con ông, Chúa Giêsu bảo: “Ông về đi,
và con ông sống!” Ông tin tưởng trở về; và đang khi còn trên đường, đầy tớ của
ông chạy ra báo tin con ông đã khỏi bệnh vào đúng thời gian mà Chúa Giêsu hứa với
ông.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I:
Này đây Ta sáng tạo trời mới đất mới.
1.1/
Thiên Chúa sẽ sáng tạo mọi sự mới: “Này đây Ta sáng tạo trời mới đất mới, không còn ai
nhớ đến thuở ban đầu và nhắc lại trong tâm trí nữa. Nhưng thiên hạ sẽ vui mừng
và luôn mãi hỷ hoan vì những gì chính Ta sáng tạo.” Cụm từ “trời mới đất mới”
được dùng nhiều trong các Sách Ngọai Thư và Tân Ước (x/c 2 Edr 6:16, 7:30, 2
Bar 32:16, I Enoch 91:16, 2 Cor 5:17, 2 Pet 3:10-13, Rev 21:1). Nghĩa của cụm từ
thay đổi: Trong Thư Corintô, Thánh Phaolô muốn nói trong Chúa Kitô, con người
trở thành một tạo vật mới, con người cũ cùng với tính hư nết xấu đã qua đi, con
người mới cùng với các nhân đức xuất hiện nhờ ân sủng của Đức Kitô. Trong Thư
Phêrô II và Sách Khải Huyền, “trời mới đất mới” chỉ những gì sẽ xảy ra sau Ngày
Cánh Chung, nơi công lý của Thiên Chúa ngự trị. Theo tiên-tri Isaiah, “trời mới
đất mới” chỉ cả hai: những gì mới được tái tạo sau Thời Lưu Đày và những gì mới
do Đấng Thiên Sai mang lại.
Jerusalem
sẽ trở nên nguồn hoan hỷ và dân ở đó thành nỗi vui mừng: Đền Thờ sẽ được tái
thiết và dân Chúa sẽ lại có cơ hội thờ phượng Thiên Chúa. Jerusalem cũng là nơi
Dân Ngọai sẽ qui tụ về để cùng hợp với dân Do-Thái làm thành dân của Thiên
Chúa. Như một người Cha, Thiên Chúa sẽ hoan hỷ vì Jerusalem, khi nhìn thấy con
cái Ngài được qui tụ thành một mối.
1.2/
Thiên Chúa sẽ xóa sạch tất cả đau thương của quá khứ: Dân chúng khóc than
vì chết chóc trong thời chiến tranh và khổ cực trong Thời Lưu Đày; nhưng Thiên
Chúa sẽ xóa sạch tất cả. Ngài hứa với dân 3 điều sau đây:
- Họ sẽ không còn phải chịu đau khổ của kiếp lưu đày;
- Họ sẽ không còn phải chịu đau khổ của kiếp lưu đày;
-
Họ sẽ không còn sợ chết vì chiến tranh;
-
Họ sẽ được hưởng cuộc sống an tòan: “Người ta sẽ xây nhà và được ở, sẽ trồng
nho và được ăn trái.”
2/
Phúc Âm:
"Ông cứ về đi, con ông sống."
Khỏang
cách từ Capernaum tới Cana khỏang 20 dặm, một khỏang cách dài cho người đi bộ.
Đi và trở về ngay phải mất khỏang 20 tiếng. Có một trình thuật tương tự trong
Tin Mừng Nhất Lãm (Mt 8:5-13, Lk 7:1-10). Tuy nhiên, có sự khác biệt giữa 2
trình thuật: Trong Tin Mừng Nhất Lãm, viên sĩ quan nói với Chúa Giêsu: “Thưa
Ngài, tôi chẳng đáng Ngài vào nhà tôi, nhưng xin Ngài chỉ nói một lời là đầy tớ
tôi được khỏi bệnh.” Trong trình thuật của Gioan, Chúa bảo: “Ông cứ về đi, con
ông sống.” Chúng ta có thể học được nhiều điều qua thái độ của viên sĩ quan
này:
(1)
Khiêm nhường: Viên sĩ quan, tiếng Hy-lạp dùng chữ “basilikos” có nghĩa là “ông
vua nhỏ.” Có nhiều bức tường ngăn cách giữa Chúa Giêsu và viên sĩ quan này:
-
Bức tường ngăn cách xã hội: Ông là người có địa vị cao trong hòang gia, khiêm
nhường đi bộ đến cầu xin với Chúa Giêsu, một người không có địa vị trong xã hội.
-
Bức tường ngăn cách giữa người Do-thái và Dân Ngọai: Người Do-thái không muốn
có bất kỳ liên hệ gì với Dân Ngọai. Ông biết ông có thể bị mất mặt nếu Chúa
Giêsu từ chối.
Tuy
nhiên, lòng thương con đã thắng vượt tất cả, ông sẵn sàng hy sinh mọi sự để có
thể cứu vãn sự sống của con ông.
(2)
Vượt qua thử thách: Đức Giêsu nói với ông: "Các ông mà không thấy dấu lạ
điềm thiêng thì các ông sẽ chẳng tin đâu!" Ngài dùng số nhiều “các ông,”
có lẽ muốn nói với ông và những người chung quanh. Chúa Giêsu muốn nói lên một
thực tại của người Do-thái: họ sẽ không tin khi không nhìn thấy dấu lạ. Đồng thời,
Chúa Giêsu cũng muốn cho những người Do-thái xem niềm tin không dựa trên việc
chứng kiến phép lạ của viên sĩ quan Dân Ngọai. Khi viên sĩ quan năn nỉ van xin
Chúa Giêsu xuống Capernaum chữa bệnh cho con ông, Chúa thử đức tin của ông,
Ngài không đi với ông, nhưng bảo: "Ông cứ về đi, con ông sống." Người
Do-thái chắc phải ngạc nhiên vì niềm tin của ông khi thấy: “Ông tin vào lời Đức
Giêsu nói với mình, và ra về.” Trong trình thuật của Matthêu, Chúa Giêsu khen
viên sĩ quan: “Tôi bảo thật các ông: Tôi không thấy một người Israel nào có
lòng tin như thế.”
(3)
Đức tin được kiện tòan bởi lý trí: Ông còn đang đi xuống, thì gia nhân đã đón gặp
và nói là con ông sống rồi. Đối với một người vô tâm, họ sẽ vui mừng khi biết
con còn sống và quên hết mọi sự khác; nhưng viên sĩ quan còn đang sống trong tiến
trình của đức tin, nên ông hỏi họ con ông đã bắt đầu khá hơn vào giờ nào. Họ
đáp: "Hôm qua, vào lúc một giờ trưa thì cậu hết sốt."
Ông
nhận ra là vào đúng giờ đó, Đức Giêsu đã nói với mình: "Con ông sống."
Đức tin của ông vào Chúa Giêsu được kiện tòan. Ngài hứa với ông và lời hứa đã thành
sự thực, ông tin vào Ngài.
(4)
Ông và cả nhà đều tin: Không dễ cho một viên sĩ quan công khai thú nhận niềm
tin vào Chúa Giêsu vì sợ ảnh hưởng của dư luận. Nhưng viên sĩ quan này đã có một
niềm tin được sự trợ giúp của lý trí. Ông muốn không những chỉ có ông, nhưng
còn cả nhà tin vào Chúa Giêsu. Điều này thông thường đối với dân thời đó: Gia
trưởng có quyền quyết định mọi chuyện trong nhà. Khi nhận ra điều gì tốt, người
gia trưởng có quyền bắt tất cả người trong nhà phải làm theo. Ví dụ, Tổ-phụ
Abraham bắt mọi người trong nhà phải cắt bì.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Thiên Chúa không muốn nhớ tới dĩ vãng tội lỗi và đau thương của con người. Ngài
luôn mời gọi chúng ta nhìn về tương lai và hy vọng bước tới. Như một người Cha,
Ngài mừng vui khi thấy con cái được vui vẻ, hạnh phúc.
-
Thiên Chúa muốn con người luôn tin tưởng tuyệt đối nơi Ngài, ngay cả những lúc
chưa nhìn thấy kết quả, hay những đêm tăm tối của cuộc đời; vì những gì Thiên
Chúa đã hứa, Ngài sẽ thực hiện.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
16/03/15 THỨ HAI TUẦN 4 MC
Ga 4,43-54
Ga 4,43-54
Suy niệm: Cuộc sống càng ngày sung túc tiện nghi nhưng
con người vẫn không hết canh cánh trong lòng nỗi lo bệnh tật. Khoa học tiến bộ
bao nhiêu thì các bệnh mới lại phát sinh bấy nhiêu, khiến cho các phương pháp
trị liệu không kịp thích ứng. Đứng trước những căn bệnh nan y, người ta mới
thấy mọi vấn đề nhân sinh đều có liên hệ đến những giá trị đức tin. Với một số
người, bệnh tật có thể là cớ vấp phạm, họ thất vọng và oán trách Thiên Chúa.
Thế nhưng, với một số khác, đó lại là phương thế giúp họ thêm hy vọng, tín thác
vào Chúa. Qua cơn trọng bệnh của đứa con trai, gia đình viên sĩ quan nhờ đó mà
được ơn đức tin. Vượt quãng đường xa hơn 30km từ Ca-phác-na-num đến Ca-na để
gặp Đức Giê-su, ông an tâm ra về, tin vào lời cam kết con ông sẽ sống mà không
cần ông Thầy Giê-su ấy đến nhà chữa bệnh. Quả thật, bệnh tật là một thách thức
không nhỏ cho đức tin, nhưng cũng từ đó đức tin được thêm vững vàng.
Mời Bạn: Y
khoa tiến bộ là điều ích lợi cho đời sống con người, nhưng y khoa không phải là
chiếc đũa thần có thể chữa trị mọi bệnh tật. Bất cứ phương pháp chữa trị nào
cũng cần đến sự lạc quan, mà đức tin là yếu tố chính tạo nên sự lạc quan, hy
vọng ấy.
Sống Lời Chúa: Tôi
luôn tin tưởng, cậy trông vào Chúa, dù phải bệnh hoạn, tật nguyền trong cuộc
đời.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, con xin dâng mọi bệnh
tật con đang chịu, để được kết hiệp với cuộc Khổ Nạn của Chúa trên đồi
Gôn-gô-tha. Amen.
Con ông sống
Hãy nhìn lên thánh giá để khỏi mất lòng tin. Hãy
chấp nhận đi vào những nẻo đường lạ lẫm mà Chúa đang mời gọi. Như viên sĩ quan,
ta sẽ gặp tin vui ngay trên đường về nhà.
Suy niệm:
Trong các sách Tin Mừng,
chúng ta thường gặp nỗi sợ hãi, lo lắng
của những bậc cha mẹ trước
căn bệnh hiểm nghèo của con mình.
Ông trưởng hội đường Giairô
khẩn khoản nài xin Đức Giêsu
“Con bé nhà tôi gần chết.
Xin Thầy đến và đặt tay trên nó” (Mc 5, 23).
Bà dân ngoại gốc Canaan kêu
lên: “Xin thương xót tôi,
vì con gái của tôi bị quỷ ám
trầm trọng lắm” (Mt
15, 22).
Người cha có đứa con bị động
kinh cũng nài van Đức Giêsu:
“Xin Thầy chạnh lòng thương
mà cứu giúp chúng tôi” (Mc
9, 22).
Trong bài Tin Mừng hôm nay
viên sĩ quan, có lẽ của vua Hêrôđê, cũng năn nỉ:
“Xin Ngài xuống cho, kẻo
cháu nó chết mất !” (c.
49).
Bệnh tật và cái chết đang đe
dọa đứa con khiến cha mẹ khổ đau và bối rối.
Họ không muốn mất đứa con đã
trở nên một phần của đời họ.
Họ vội vã đến với Đức Giêsu
như đến với một nơi có thể cấp cứu kịp thời.
Họ tin vào sự hiện diện của
Ngài, vào sự chữa lành mà Ngài đem lại.
Lòng tin của viên sĩ quan đã
lớn lên từ từ.
Ông tin nhờ nghe người ta
nói về những gì Đức Giê su đã làm ở vùng Giuđê.
Ông gặp Ngài vì tin Ngài có
thể chữa đứa con trai đang nguy tử của ông
bằng cách đi với ông về nhà
ở Caphácnaum (c. 49).
Nhưng sau đó ông tin vào uy
quyền của lời Đức Giêsu :
“Ông cứ về đi, con ông
sống!”
nên ông vâng lời đi về nhà
một mình (c.50).
Chẳng cần sự hiện diện, chỉ
cần lời của Ngài nói từ xa cũng đủ con ông khỏi bệnh.
Lòng tin của ông được vững
vàng hơn khi ông kiểm chứng và biết rõ
chính vào giờ Ngài nói thì
con mình được chữa lành (c. 53).
Bây giờ hẳn ông đã tin trọn
vẹn vào chính con người Đức Giêsu.
Lòng tin ấy lôi cuốn cả gia
đình ông tin theo.
Sau khi dấu lạ xảy ra, không
thấy nói gì về thái độ ngạc nhiên của gia quyến.
Kết quả tuyệt vời của dấu lạ
là chính lòng tin của mọi người trong nhà.
Họ sẽ được ông kể cho nghe
từng chi tiết câu chuyện gặp gỡ.
Trong tiệc cưới ở Cana, lòng
tin của Đức Maria đã dẫn đến dấu lạ đầu tiên.
Dấu lạ này đã khiến các môn
đệ Đức Giêsu tin vào Ngài (Ga 2, 11).
Trong dấu lạ thứ hai này ở
Cana, lòng tin của viên sĩ quan, của một người cha,
đã dẫn đến lòng tin của
những người thân thuộc.
Lòng tin thật sự bao giờ
cũng có khả năng thu hút, lôi kéo, lan rộng.
Ngay trước đoạn Tin Mừng
này,
chuyện người phụ nữ Samari
cũng cho ta thấy điều đó.
Từ lời chứng của chị, dân
thành Xykha đã tin vào Đức Giêsu (Ga 4,39).
Đời chúng ta cũng có những
lúc tưởng như tuyệt vọng,
khi ta thấy tuột khỏi tay
mình những gì rất quý mà mình muốn ôm giữ.
Hãy nhìn lên thánh giá để
khỏi mất lòng tin.
Hãy chấp nhận đi vào những
nẻo đường lạ lẫm mà Chúa đang mời gọi.
Như viên sĩ quan, ta sẽ gặp
tin vui ngay trên đường về nhà.
Cầu nguyện:
Lạy Cha từ ái,
đây là niềm tin của con.
Con tin Cha là Tình yêu,
và mọi sự Cha làm đều vì yêu
chúng con.
Cả những khi Cha mạnh tay
cắt tỉa,
cả những khi Cha thinh lặng
hay vắng mặt,
cả những khi Cha như chịu
thua sức mạnh của ác nhân,
con vẫn tin Cha là Cha toàn
năng nhân ái.
Con tin Cha không chịu thua
con về lòng quảng đại,
chẳng để con thiệt thòi khi
dám sống cho Cha.
Con tin rằng nơi lòng những người cứng cỏi nhất
cũng có một đốm lửa của sự
thiện,
được vùi sâu dưới những lớp
tro.
Chỉ một ngọn gió của tình
yêu chân thành
cũng đủ làm đốm lửa ấy bừng
lên rạng rỡ.
Con tin rằng chẳng có giọt nước mắt nào vô ích,
thế giới vẫn tồn tại nhờ hy
sinh thầm lặng của bao người.
Con tin rằng chiến thắng cuối cùng thuộc về Ánh sáng.
Sự Sống và Tình yêu sẽ chiếm
ngự địa cầu.
Con tin rằng dòng lịch sử của loài người và vũ trụ
đang chuyển mình tiến về với
Cha,
qua trung gian tuyệt vời của
Chúa Giêsu
và sức tác động mãnh liệt
của Thánh Thần.
Con tin rằng dần dần mỗi người sẽ gặp nhau,
vượt qua mọi tranh chấp, bất
đồng,
mọi dị biệt, thành kiến,
để cùng nắm tay nhau đi qua
sa mạc cuộc đời
mà về nhà Cha là nơi hạnh
phúc viên mãn.
Lạy Cha, đó là niềm tin của con.
Xin Cha cho con dám sống niềm tin ấy. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
16
THÁNG BA
Luân
Lý Tính Phải Được Đo Lường Bằng Thước Đo Của Thiên Chúa
Xuyên
qua việc tuân giữ Thập Giới, con người sẽ trở nên tốt. Con người sẽ mặc lấy phẩm
tính của Thiên Chúa. Còn nếu không tuân giữ Thập Giới, con người sẽ sa vào hành
động xấu. Như vậy, Thập Giới trao cho chúng ta chuẩn mực để đo lường hành vi và
đo lường chính cuộc sống của chúng ta. Trong tư cách là con người – có thể chọn
lựa giữa cái đúng và điều sai – phẩm giá của chúng ta được nối kết một cách trực
tiếp với sự vâng phục của chúng ta đối với luật luân lý của Thiên Chúa.
Vâng
phục luật luân lý – đó không chỉ là một vấn đề cá nhân mà còn là một vấn đề xã
hội. Nó cho chúng ta biết Thiên Chúa muốn chúng ta sống với tha nhân như thế
nào. Nó hình thành cho chúng ta một tiêu chuẩn sống. Nó cho ta biết phải làm
sao để bảo vệ và tôn trọng phẩm giá của người khác cũng như của mình. Qua đó,
nó giải phóng người ta khỏi sự trói buộc của sự dữ. Đây không phải là chuyện
hoa hòe, ‘tùy hỉ’chút nào; mà đây là vấn đề hết sức chủ yếu. Đấng trao ban Thập
Giới là Thiên Chúa Gia-vê, là Đấng đã dẫn đưa con cái It-ra-en ra khỏi đất Ai-cập,
ra khỏi tình cảnh nô lệ.
-
suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm.
Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT
UP YOUR HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia
Đình
NGÀY
16-3
Is
65,17-21; Ga 4,43-54.
LỜI
SUY NIỆM: “Ông cứ về đi, con ông sống”. Ông tin vào lời Đức Giêsu nói với
mình, và ra về. Ông còn đang đi xuống, thì gia nhân đã đón gặp và nói là con
ông sống rồi,
Đây
là phép lạ thứ hai Chúa Giêsu thực hiện ở Ca-na-an. Trước đó phép lạ thứ nhất
“Nước hóa thành Rượu ngon” do lời cầu xin của Đức Mẹ Ma-ri-a, với sự hướng dẫn
của Đức Mẹ, cùng với sự vâng phục Lời Chúa của những gia nhân. Và đây là phép lạ
thứ hai; khi một lương dân, chạy đến cầu xin Chúa: “Thưa Ngài, xin Ngài xuống
cho, kẻo cháu nó chết mất” cũng qua lời nói của Người: “Con ông sống” Ông tin
vào lời Đức Giêsu nói với mình và ra về. Điều này giúp cho chúng ta thấy được
phép lạ được thành sự khi đón nhận Lời Chúa và tin vào Lời của Người với sự
vâng phục và thực thi Lời của Người.
Lạy
Chúa Giêsu, Lời Chúa luôn có với chúng con, để Chúa thực hiện tình thương và cứu
độ chúng con. Xin ban cho mọi thành viên trong gia đình chúng con luôn đọc Lời
Chúa và suy niệm để nhận ra ơn thánh của Chúa đang ban cho chúng con mà tạ ơn
Người.
Mạnh
Phương
16
Tháng Ba
Cuộc Săn Thỏ
Ðức
hồng Y Carlo Martini, nguyên viện trưởng trường Kinh Thánh tại Roma và hiện là
tổng giám mục Milano bên Italia, đã ghi lại trong quyển chú giải về Phúc Âm
Thánh Gioan, câu chuyện sau đây:
Vào
thế kỷ thứ ba, trong Giáo hội có vấn đề các tu sĩ ào ạt rời bỏ cuộc sống tu
trì... Ðể giải thích cho hiện tượng này, một thầy dòng nọ đã đưa ra hình ảnh của
một đàn chó đi săn thỏ. Một chú chó trong đàn đã bất chợt nhận ra một con thỏ.
Thế là chú nhanh nhẩu rời đàn chó và vừa chạy theo con thỏ vừa sủa inh ỏi.
Không mấy chốc, mấy chú chó khác cũng rời hàng ngũ để chạy theo. Và cứ thế cả
đàn chó bỗng chạy ùa theo. Tất cả mọi con chó đều chạy, nhưng kì thực chỉ có một
con chó là đã phát hiện ra con thỏ.
Sau một lúc săn đuổi, chú chó nào cũng mệt lả, cho nên từ từ bỏ cuộc, bởi vì đa số đã không được nhìn thấy con thỏ. Chỉ duy chú chó đầu tiên đã phạt hiện ra con thỏ là tiếp tục đeo đuổi cuộc săn bắt.
Sau một lúc săn đuổi, chú chó nào cũng mệt lả, cho nên từ từ bỏ cuộc, bởi vì đa số đã không được nhìn thấy con thỏ. Chỉ duy chú chó đầu tiên đã phạt hiện ra con thỏ là tiếp tục đeo đuổi cuộc săn bắt.
Vị
tu sĩ đãđưa ra kết luận như sau: "Ðã có rất nhiều tu sĩ đi theo Chúa,
nhưng kỳ thực chỉ có một hoặc hai vị là đã thực sự thấy Chúa và hiểu được họ
đang đeo đuổi điều gì. Số khác chạy theo vì đám đông hoặc vì họ nghĩ rằng họ
đang làm được một điều tốt. Nhưng kỳ thực họ chưa bao giờ thấy Chúa. Cho nên
khi gặp khó khăn thử thách, họ bắt đầu chán nản bỏ cuộc".
Cuộc
sống của người Kitô chúng ta có lẽ cũng sẽ ví được với một cuộc săn thỏ... Ở khởi
đầu, ai trong chúng ta cũng hăm hở ra đi, ai trong chúng ta cũng đều làm rất
nhiều cam kết, nhưng một lúc nào đó, khi không còn thấy gì đến trước mắt nữa,
chúng ta bỏ cuộc buông xuôi... Ða số trong chúng ta hành động theo sự thúc đẩy
của đám đông mà không cần tìm hiểu lý do của việc làm chúng ta. Người ta lập
gia đình mà không hiểu đâu là cam kết của đời sống hôn nhân. Người ta gia nhập
đoàn thể này, đoàn thể nọ, chúng ta cũng hăng hái tham gia mà không cân nhắc kỹ
lưỡng các lý do tại sao chúng ta tham dự. Và biết đâu, người ta đi nhà thờ,
chúng ta cũng đi nhà thờ mà không bao giờ tự hỏi tại sao chúng ta đi nhà thờ.
Người ta đi xưng tội rước lễ, chúng ta cũng đi xưng tội rước lễ mà có lẽ chưa
bao giờ đặt ra câu hỏi nghiêm chỉnh tại sao chúng ta làm như thế... Dĩ nhiên, Ðức
Tin của chúng ta cần phải được nâng đỡ từ gia đình, xã hội, bởi người khác.
Nhưng chúng ta không thể quên được rằng trước hết Ðức Tin là một cuộc gặp gỡ cá
vị giữa mỗi người và Thiên Chúa, Ðức tin là một cuộc hành trình trong đó mỗi
con người phải tự thấy con đường mình đang đi... Chúng ta không thể sống đạo,
giữ đạo vì người khác. Người Kitô có một đồng phục chung là Ðức Ái, nhưng cuộc
sống của mỗi người không phải vì thế mà được đúc sẵn theo một khuôn mẫu, theo
những công thức có sẵn, theo những lôi cuốn của đám đông.
Trong
cuộc hành trình Ðức Tin, chúng ta cùng đồng hành với người khác, nhưng mỗi người
cần phải thấy rõ địa điểm mình đang đi tới. Có thấy rõ như thế, mỗi khi gặp mệt
mỏi, chông gai thử thách, chúng ta mới có thể kiên vững tiếp tục tiến bước.
(Lẽ sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét