Trang

Thứ Bảy, 4 tháng 4, 2015

05-04-2015 : (phần II) CHÚA NHẬT PHỤC SINH năm B

05/04/2015
Chúa Nhật Lễ Phục Sinh
(phần II)


Phụng vụ Lời Chúa: Chúa NhậtPhục Sinh - năm B
CHÚA NHẬT PHỤC SINH
Thánh Lễ Chính Ngày
(Cv 10,34a.37-43; Cl 3,1-4 ; Ga 20,1-9)
Chủ đề:
ĐỨC KITÔ PHỤC SINH:
TRỌNG TÂM NIỀM TIN KITÔ GIÁO
Ông đã thấy và đã tin...
Đức Giêsu phải chỗi dậy từ cõi chết

(Ga 20,8-9)
I. CÁC BÀI ĐỌC
Phụng vụ Lời Chúa hôm này tập trung vào biến cố Đức Giêsu Phục Sinh và ý nghĩa của biến cố đó với đời sống Kitô hữu. Quả thật Đức Giêsu Kitô Phục sinh là trọng tâm của đức tin, đức cậy và đức mến của Kitô giáo. Nếu Đức Giêsu không phục sinh, niềm tin của chúng ta trở nên vô ích. Mừng lễ Đức Giêsu Kitô phục sinh là chúng ta đang tuyên xưng niềm tin, niềm trông cậy vào sự sống đời sau và từ đó có lối sống xứng hợp được thể hiện ra bằng đức mến trong đời sống thường ngày.
1. Bài đọc 1 (Cv 10,34a.37-43)
 Đức Giêsu Kitô Phục Sinh là tâm điểm của niềm tin Kitô giáo. Biến cố này đã củng cố niềm tin của các Tông Đồ và những người theo Chúa, giúp họ nhận ra Đức Giêsu là ai và khám phá ra sứ vụ của mình; đồng thời, giúp đọc lại và hiểu ra ý nghĩa đích thực của các lời nói và việc làm của Đức Giêsu trước đó. Vì thế, biến cố Đức Giêsu Kitô Phục Sinh cũng là trọng tâm trong các lời giảng dạy của các Tông Đồ.
Bài đọc 1 ghi lại lời rao giảng của Thánh Phêrô tại nhà ông Cônêliô ở Xêdarê. Cũng giống với các lời giảng trước đó, thánh nhân  tập trung vào con người và sứ vụ của Chúa Giêsu: kể từ khi Người bắt đầu sứ vụ công khai cho đến lúc phục sinh và thăng thiên. Đức Giêsu đã được Thiên Chúa Cha dùng Chúa Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu thánh hiến trong ngày Người Chịu Phép rửa, để Người ra đi thi hành sứ vụ Đấng Mêsia-Được Xức Dầu. Đó là công bố Tin Mừng Nước Thiên Chúa và thi ân giáng phúc cho mọi người. Đức Giêsu đã giải thoát người ta khỏi bị giam cầm của bệnh tật thể lý và khỏi ma quỷ về mặt tinh thần. Thế nhưng Người đã bị người ta kết án tử bằng cách đóng đinh vào cây thập giá và đã chết. Tuy nhiên, Thiên Chúa đã cho Người sống lại. Sau khi đã sống lại, Người đã hiện ra với thánh Phêrô và các Tông Đồ và những người theo Chúa, cùng ăn uống và trò chuyện với họ. Không những chỉ thấy mà các Tông Đồ còn được truyền đi rao giảng về Chúa Giêsu Phục Sinh và Người là thẩm phán sẽ xét xử muôn người.
Như thế, câu chuyện về Đức Giêsu là một sự kiện lịch sử trong thời gian gây thắc mắc cho bao người, liên quan đến thấy và làm chứng, nhưng lại trở nên một biến cố vượt thời gian đem đến ơn cứu độ cho những người tin. Ai tin vào Người sẽ được sống nhờ được thông phần vào sự phục sinh của Người, ai không tin thì sẽ bị chết. Các tông đồ đã tuyên xưng niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô của mình và đã sống niềm tin đó bằng cách trở thành những nhân chứng rao giảng về những điều họ đã thấy và đã tin để cho mọi người, không thiên vị ai, nhờ tin mà được ơn cứu độ.
2. Bài đọc 2 (Cl 3,1-4)
Khi chịu Phép Rửa Tội, người Kitô hữu được trỗi dậy khỏi quyền lực của sự dữ và thế gian để tham dự vào đời sống mới trong Chúa Kitô phục sinh ở thượng giới. Do đó, Thánh Phaolô kêu gọi các Kitô hữu hãy tìm kiếm những sự trên trời, nơi Chúa Kitô, Đấng đã trỗi dậy từ cõi chết, đang ngự bên hữu Thiên Chúa.
Đối với Thánh Phaolô, vì đang sống trong trần thế, người Kitô hữu cần phải chu toàn những bổn phận và trách nhiệm của mình để xây dựng thế giới này tốt đẹp hơn (x. Rm 12-13), nhưng thay vì chú tâm tìm kiếm những thứ tạm thời chóng qua ở đời này thì hãy tìm kiếm những điều có giá trị vĩnh cửu thuộc thượng giới, và điều quan trọng nhất là sự sống đời đời.
Nếu người Kitô hữu đã chết với Chúa Giêsu Kitô, thì nay dù đang ở trong thân xác phải chết nơi đời tạm chóng qua này, nhưng khi Đức Giêsu phục sinh xuất hiện, Người sẽ ban cho người tin được sự sống vĩnh cửu để cùng Người hưởng phúc vinh quang muôn đời.
3. Bài Tin Mừng (Ga 20,1-9)
Các bài trình thuật Tin Mừng trong Tam Nhật Thánh cho thấy các môn đệ đã chứng kiến việc Đức Giêsu chịu chết và được mai táng. Thi hài được chôn trong ngôi mộ là vật chứng cuối cùng của Đức Giêsu trần thế. Tất cả những gì tác giả Tin Mừng Gioan quy chiếu trong bài Tin Mừng hôm nay, đều bắt đầu từ ngôi mộ này và liên hệ đến thi hài của Đức Giêsu.
Cho đến trước ngày Phục Sinh, đối với các môn đệ và những người theo Chúa, chặng cuối cùng của Đức Giêsu là ngôi mộ. Chính vì thế, bà Maria Mácđala đã hỏi: “Người ta đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu” (Ga 20,2). Họ chưa hiểu những lời Đức Giêsu đã loan báo, cũng chẳng hiểu những gì đã được tiên báo trong Kinh Thánh. Nhưng sau đó, niềm tin của các môn đệ đã khởi đi từ sự kiện Đức Giêsu chết đến tuyên xưng niềm tin Người đã sống lại. Hành trình đức tin của người môn đệ tiến triển từ từ, và không phải tất cả các môn đệ đều đạt tới mục tiêu cùng một lúc.
Tin Mừng thuật lại: Lúc tảng sáng, Maria Mácđala đã đi ra mộ Đức Giêsu. Ở đây tác giả làm nổi bật chủ đề ánh sáng đã nói đến trong Lời Tựa ở Ga 1,9; nhất là khi Đức Giêsu tuyên bố Người là “ánh sáng cho trần gian”, ngược lại với khi Giuđa bỏ Người để đi vào bóng tối trong Ga 13,30. Trong bài Tin Mừng hôm nay, vì Đức Giêsu đã chết, nên ánh sáng đã tắt. Tuy nhiên, trời đã tảng sáng như là một dấu chỉ cho biết ánh sáng Đức Giêsu Phục Sinh đã chiếu sáng. Dầu vậy, đối với bà Maria Mácđala lúc này vẫn là  “lúc trời còn tối”; tối ở đây là “tối” của đức tin, vì vẫn chưa nhận ra Đức Giêsu đã sống lại.
Tin Mừng Gioan dùng 4 động từ để diễn tả hành động “thấy” từ cái nhìn hoàn toàn thể lý bên ngoài đến cái nhìn chiêm ngưỡng sâu sắc nhất ở bên trong, đó là: βλέπω,θεωρέωθεάομαιὁράω. Ở đây, khi đến mộ, bà Maria Mácđala “thấy/ βλέπω” (quan sát) ngôi mộ trống và đối với bà, xác Đức Giêsu đã bị người ta đem đi, nên bà về báo tin cho Phêrô và người môn đệ Đức Giêsu thương mến. Điều này khiến các ông hốt hoảng, và hai ông chạy ra mộ. Người môn đệ Đức Giêsu yêu thương đến mộ trước. Ông không chỉ nhìn từ bên ngoài, mà còn nghiêng mình nhìn vào bên trong và “thấy/ βλέπω” (quan sát) những băng vải. Phêrô đi vào trong mộ, ông cũng “thấy/ θεωρέω” (thấy để tin) các băng vải và khăn liệm gấp lại để riêng ra một góc. Nếu ngôi mộ là nơi của sự chết và băng vải tượng trưng cho xiềng xích trói buộc của tử thần, thì ngôi mộ trống và các băng vải cuộn để riêng là những dấu chỉ cho biết rằng Đức Giêsu đã rời bỏ cõi chết và đã chiến thắng tử thần: Người đã loại bỏ xiềng xích Tử thần và đi vào Phục sinh vĩnh cửu.
Mặc dù Tin Mừng nói ông Phêrô đã “thấy/ θεωρέω” (thấy để tin), nhưng không minh nhiên nói ông đã tin hay không. Còn người môn đệ kia đã có được một bước tiến triển trong hành trình đức tin: đã thấy (εἶδεν// ὁράω) và đã tin (ἐπίστευσεν// πιστεύω). Hai môn đệ đã đi ra mộ; nay chỉ người môn đệ Chúa thương mến rời mộ như là người đã tin. Như thế, tin vào Đức Giêsu Phục Sinh khởi đầu bằng một kinh nghiệm cá vị. Tuy nhiên, kinh nghiệm cá vị này của các môn đệ sẽ được bổ túc bằng những lần Đấng Phục Sinh hiện ra sau đó. Các ông đã kiểm chứng sự kiện Đức Giêsu phục sinh bằng các dấu chỉ và làm chứng bằng niềm tin.
Sự kiện Đức Giêsu phục sinh xảy ra vào “lúc tảng sáng” (Ga 20,1) nhưng các môn đệ còn đang ở trong tình trạng “trời còn tối”, tối của đức tin. Cảnh tượng này là những dấu chỉ tiên báo và chờ đợi nhưng cũng xen lẫn hoài nghi. Chỉ khi họ gặp Đấng Phục Sinh, mọi điều mới được sáng tỏ. Đêm đen và bóng tối, cái chết và nỗi đau, sự yếu đuối và hoài nghi đều được ánh sáng vinh quang của Đấng Phục Sinh chiếu soi. Đó là kinh nghiệm của cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi vào thời hậu Phục Sinh và cũng là kinh nghiệm của chúng ta hôm nay.
II. GỢI Ý MỤC VỤ
1. “Tất cả các ngôn sứ đều làm chứng về Người và nói rằng ai tin vào Người thì sẽ nhờ Danh Người mà được ơn tha tội.” Chúng ta có thể học thuộc nhiều Kinh, hiểu biết sâu sắc về Giáo Lý và Kinh Thánh, nhưng tất cả những thứ đó đều quy về tình yêu cứu độ được thực hiện nơi Đức Giêsu Kitô. Chúng ta có ý thức lễ Phục Sinh là đỉnh cao của năm phụng vụ, đó là dịp để chúng ta xét mình có tin nhận Đức Giêsu là Cứu Chúa của chúng ta, có hy vọng vào cuộc sống vĩnh cửu ở đời sau hay không?
2. “Anh em đã được trỗi dậy cùng với Đức Kitô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới.”  Vì đã chịu Phép Rửa Tội, chúng ta được trỗi dậy khỏi quyền lực của sự dữ và thế gian để tham dự vào đời sống mới trong Đức Kitô phục sinh. Biết rằng bao lâu còn đang sống trong trần thế, chúng ta có bổn phận xây dựng xã hội này ngày càng tốt đẹp, nhưng lời mời gọi của thánh Phaolô nhắc nhở rằng chúng ta đã thuộc về Đức Kitô Phục Sinh đang ở trên trời, nên chúng ta phải canh tân đời sống để xứng đáng hưởng hạnh phúc vĩnh cửu với Người trên thiên đàng. Chúng ta có ý thức được các điều đó để có lối sống xứng hợp hay không?
3. “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu.”Trong cuộc sống, nhiều khi chúng ta thiếu đức tin, không thấy sự hiện diện của Chúa, và tâm hồn của chúng ta giống như một “ngôi mộ trống”. Điều đó làm cho chúng ta chán nản, buông xuôi, thất vọng,… Chúng ta có biết rằng ngay cả những lúc như thế, chúng ta cần chạy về với các anh chị em đồng đạo của mình để thông tin, để chia sẻ, để cùng nhau tìm ra chân lý. Nhờ đó, chúng ta lại tiếp tục hành trình để tìm kiếm, để thấy những dấu chỉ mới như “băng vải còn ở đó” hay “khăn che đầu được xếp riêng ra” ngay ở trong “ngôi mộ trống”, từ đó tin rằng Đức Giêsu đã sống lại và sự sống vĩnh cửu của người sẽ lấp đầy niềm hy vọng của chúng ta hay không?
III. LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Anh chị em thân mến! Đức Kitô Phục Sinh đã chiến thắng tội lỗi và sự chết, để mang lại cho nhân loại sự sống vĩnh cửu. Trong tâm tình chúc tụng và tạ ơn, chúng ta cùng dâng lên Thiên Chúa những lời nguyện xin:
1. Hội Thánh có sứ mạng loan báo tin mừng Phục Sinh cho nhân loại. Xin Chúa cho mọi thành phần Hội Thánh luôn nhiệt tâm chu toàn sứ mạng cao quý ấy bằng lời rao giảng, bằng đời sống cầu nguyện và chính gương sáng đức tin của mình.
2. Chúa Giêsu sống lại mở đường cho nhân loại đi vào cõi sống. Xin Chúa cho mọi dân tộc trên thế giới biết tin nhận Đức Kitô là “khởi nguyên và cùng đích” của muôn loài, để luôn sống trong tin yêu hy vọng hướng về hạnh phúc đời đời.
3. Đức Kitô phục sinh là niềm hy vọng và an ủi cho những ai tuyệt vọng. Xin Chúa cho những người gặp thất bại hay đang đau khổ hồn xác được tham dự vào niềm vui phục sinh hôm nay, để thêm lòng can đảm đón nhận cuộc sống hiện tại.
4. Niềm tin Phục Sinh đã thúc đẩy các tông đồ dấn thân làm chứng cho Đức Kitô. Xin cho anh chị em tân tòng và mọi người trong cộng đoàn chúng ta được lãnh nhận dồi dào sức sống của Đấng Phục Sinh, luôn can đảm làm chứng cho Chúa qua cuộc sống hằng ngày.
Chủ tếLạy Chúa, Con Chúa đã chịu chết và sống lại để cứu độ chúng con. Xin nhậm lời chúng con cầu nguyện, và cho niềm vui phục sinh hôm nay nơi chúng con đem lại nhiều hoa trái trong cuộc sống. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.


Lectio Divina: Chúa Nhật Phục Sinh (B)
Chúa Nhật, 5 Tháng 4, 2015
Để nhìn thấy trong đêm tối và để tin tưởng vì tình yêu
Ga 20:1-9 


1.  Chúng ta hãy cầu nguyện cùng Chúa Thánh Thần

Lạy Chúa Giêsu Kitô, hôm nay ánh sáng của Chúa tỏa sáng trong chúng con, nguồn mạch của sự sống và hoan lạc.  Xin Chúa hãy sai Thần Khí của tình yêu và chân lý, để giống như Maria Mađalêna, Phêrô và Gioan, chúng con cũng có thể khám phá ra và giải thích trong ánh sáng Lời Chúa, những dấu chỉ sự hiện diện thiêng liêng của Chúa trong thế gian.  Nguyện xin cho chúng con có thể chào đón những dấu chỉ này trong đức tin để chúng con luôn có thể sống trong niềm hân hoan về sự hiện diện của Chúa ở giữa chúng con, ngay cả khi tất cả dường như bị vây phủ trong bóng tối của sầu khổ và sự dữ.  

2.  Phúc Âm
a)  Chìa khóa dẫn đến bài đọc:

Đối với Gioan, tác giả Tin Mừng, sự phục sinh của Chúa Giêsu là thời điểm quyết định trong tiến trình đưa đến sự vinh quang của Người, được liên kết bất khả phân ly với giai đoạn đầu của sự vinh quang này, đó là cuộc thương khó và cái chết của Người.
Dữ kiện của sự phục sinh không được mô tả trong các chi tiết ngoạn mục và khải huyền của các sách Tin Mừng Nhất Lãm.  Đối với Gioan, đời sống của Đấng Phục Sinh là một thực tại tự khẳng định một cách âm thầm, trong quyền năng kín đáo và không thể cưỡng chế được của Chúa Thánh Thần.
Sự thật về đức tin của các môn đệ đã được công bố:  “Khi trời còn tối” và bắt đầu qua viễn ảnh của các dấu chỉ vật chất gợi nhớ lại Lời của Thiên Chúa.  Đức Giêsu là nhân vật chính của câu chuyện, nhưng Người không đích thân xuất hiện.   
   
b)  Phúc Âm:

1  Ngày đầu tuần, Maria Mađalêna đi ra mồ từ sáng sớm khi trời còn tối.  Bà thấy tảng đá được lăn ra khỏi mồ
2 và liền chạy về tìm Simon Phêrô và người môn đệ khác được Chúa Giêsu yêu mến.  Bà nói với các ông rằng:  “Người ta đã lấy xác Thầy ra khỏi mồ, và chúng tôi không biết người ta đã để Thầy ở đâu.” 
3 Phêrô và môn đệ kia ra đi đến mồ.  4 Cả hai cùng chạy, nhưng môn đệ kia chạy nhanh hơn Phêrô, và đến mồ trước. 5 Ông cúi mình xuống thấy những khăn liệm để đó, nhưng ông không vào trong.
6 Vậy Simon Phêrô theo sau cũng tới nơi, ông vào trong mồ và thấy những dây băng nhỏ để đó 7 và khăn liệm che đầu Người trước đây; khăn này không để lẫn với dây băng, nhưng cuộn lại để riêng một chỗ.
8 Bấy giờ môn đệ kia mới vào dù ông đã tới mồ trước.  Ông thấy và ông tin, 9 vì chưng các ông còn chưa hiểu rằng, theo Kinh Thánh, thì Người phải sống lại từ cõi chết. 

c)  Phân đoạn bài Tin Mừng để trợ giúp cho bài đọc:

Ga 20:1:  Lời giới thiệu và những sự kiện trước khi mô tả tình hình;
Ga 20:2:  Phản ứng của bà Maria Mađalêna và lời loan báo đầu tiên về một sự thật mới được khám phá;
Ga 20:3-5:  Phản ứng lập tức của các môn đệ và hoạt động tương tác giữa các ông.
Ga 20:6-7:  Kiểm chứng sự kiện được công bố bởi bà Maria;
Ga 20:8-9:  Đức tin của người môn đệ thứ hai và mối quan hệ của đức tin với Kinh Thánh.

3.  Giây phút cầu nguyện trong thinh lặng và trong lắng đọng nội tâm

Để mở tâm trí chúng ta và dọn lòng cho Lời của Chúa:
-  Đọc lại chậm rãi toàn bộ bài Tin Mừng;
-  Tôi cũng đang ở trong khu vườn:  ngôi mộ trống đang ở trước mắt tôi;
-  Tôi để cho lời của bà Maria Mađalêna vang vọng trong tâm tư tôi;
-  Tôi cùng chạy với bà, Phêrô và người môn đệ kia;
-  Tôi để cho mình được đắm chìm trong niềm hân hoan kỳ diệu của đức tin vào Chúa Giêsu Kitô, dù rằng cũng như họ, tôi không nhìn thấy Người với con mắt xác thịt của tôi.

4.  Hồng ân của Lời Chúa cho chúng ta


*  Chương 20 trong Tin Mừng theo Gioan:  Đây là một chương bị phân mảnh trong đó rõ ràng là soạn giả đã xen vào nhiều lần để nhấn mạnh về một số chủ đề và để thống nhất các văn bản khác nhau đã nhận được từ các nguồn trước đó, ít nhất là ba nguồn.

*  Sau ngày Sabbát:  Đó là “ngày thứ nhất trong tuần” và trong giới Kitô hữu, kế thừa sự thiêng liêng ngày Sabbát của người Do Thái.  Đối với các Kitô hữu, đó là ngày thứ nhất của tuần lễ mới, bắt đầu của thời gian mới, ngày tưởng niệm sự sống lại được gọi là “ngày của Chúa” (dies Domini).
Ở đây và trong câu 19, tác giả Tin Mừng chấp nhận và thực hiện biểu lộ đã là một truyền thống cho các Kitô hữu (ví dụ: Mc 16:2, 9; Cv 20:7) và nó xưa hơn là câu nóimà sau này trở thành đặc tính của việc loan truyền Tin Mừng đầu tiên; “ngày thứ ba” (ví dụ: Lc 24:7,46; Cv 10:40; 1Cr 15:4).

*  Bà Maria Mađalêna:  Đây cũng là người phụ nữ đã hiện diện ở dưới chân thập giá cùng với các người phụ nữ khác (19:25).  Lúc này bà có vẻ như là một mình, nhưng những chữ trong câu 2 (“chúng tôi không biết”) cho thấy rằng câu chuyện ban đầu, được soạn bởi Thánh Sửnói về nhiều người phụ nữ, đúng như của các sách Tin Mừng khác (xem Mc 16:1-3; Mt 28:1; Lc 23:55-24:1). 
Tuy nhiên các sách Tin Mừng Nhất Lãm (xem Mc16:1; Lc 24:1), không nêu rõ lý dovề việc tại sao bà đi viếng mộ, chỉ cho thấy mà suy ra rằng nghi thức an táng đã được hoàn tất (19:40); có lẽ, điều duy nhất còn thiếu là việc than khóc (xem Mc5:38).  Dù sao chăng nữa, tác giả quyển Tin Mừng Thứ Tư đã giảm đến mức tối thiểu câu chuyện về việc khám phá ra ngôi mộ trống hầu để tập trung sự chú ý của người đọc về những gì xảy ra sau đó.

*  Sáng sớm, khi trời còn tối:  Máccô (16:2) cho biết có cái gì đó khác thường, nhưng từ cả hai chi tiết chúng ta hiểu được rằng đó là vào những giờ khắc rất sớm của buổi sáng, khi ánh bình minh còn rất yếu ớt và mờ nhạt.  Có lẽ Gioan muốn nhấn mạnh đến việc thiếu ánh sáng để đối chiếu một cách biểu tượng về bóng tối-sự thiếu vắng đức tin và ánh sáng-đón nhận Tin Mừng về sự sống lại.

*  Tảng đá được lăn ra khỏi mồ:  tài liệu bằng tiếng Hy Lạp thì nói chung chung: tảng đá đã được “lăn khỏi” hay “lấy ra” (khác với Mc 16:3-4).
Động từ “lăn khỏi” nhắc nhớ lại câu Tin Mừng Ga 1:29:  Gioan Tẩy Giả chỉ về Đức Giêsu là “Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian”.  Có lẽ Thánh Sử muốn nhắc lại dữ kiện là tảng đá này “được lấy đi”, lăn khỏi mồ như dấu hiệu thể lý nói rằng sự chết và tội lỗi đã được lấy đi khỏi nhờ sự phục sinh của Chúa Giêsu chăng?
                                                     
*   liền chạy về tìm Simon Phêrô và người môn đệ khác được Chúa Giêsu yêu mến:  Maria Mađalêna chạy đi tìm những người cùng chia sẻ tình yêu của mình với Chúa Giêsu và nỗi đau khổ về cái chết đau thương của Người, giờ đây nỗi đau khổ càng trở nên tồi tệ hơn với điều khám phá mới này.  Bà quay sang họ, có lẽ bởi vì các ông là những người duy nhất đã không trốn chạy với những người khác và vẫn giữ sự liên lạc với nhau (xem 19:15, 26-27).  Ít ra là bà muốn chia sẻ với các ông về nỗi đau buồn cuối cùng phẫn nộ về sự xúc phạm đến thi thể.
Chúng ta thấy Phêrô và “người môn đệ được Chúa Giêsu yêu mến” và Maria Mađalêna được đặc trưng bởi một tình yêu đặc biệt kết hợp với Chúa Giêsu:  Đó thực sự là tình yêu đối ứng khiến họ có thể cảm nhận được sự hiện diện của người thân yêu.

*  Người môn đệ khác, được Chúa Giêsu yêu mến:  là người chỉ xuất hiện trong sách Tin Mừng này và chỉ bắt đầu ở chương 13, khi ông thể hiện sự thân mật với Chúa Giêsu và sự thông cảm sâu xa với Phêrô (13:23-25).  Ông xuất hiện ở giây phút quyết định của cuộc thương khó và sự phục sinh của Chúa Giêsu, nhưng vẫn còn ẩn danh và nhiều giả thiết về danh tánh của ông đã được nêu ra.  Có lẽ ông là môn đệ ẩn danh của Gioan Tẩy Giả đã đi theo Chúa Giêsu cùng với ông Anrê (1:35-40).  Bởi vì quyển Tin Mừng thứ tư không bao giờ nói về ông Gioan tông đồ và hãy nhớ rằng quyển Tin Mừng này kể lại những chi tiết một cách rõ ràng được biết đến bởi một người chứng kiến tận mắt, “người môn đệ” đã được nhận diện như Gioan tông đồ.  Tin Mừng thứ tư luôn được cho rằng ông là tác giả dù rằng có thể không phải chính tay ông viết; thế nhưng xuất xứ của truyền thống đặc biệt là quyển Tin Mừng này và các tác phẩm khác được gán là do Gioan viết.  Điều này cũng giải thích lý do tại sao ông là người có phần nào được lý tưởng hóa.
“Người được Chúa Giêsu yêu mến”:  rõ ràng đây không phải là một điều thêm thắt từ vị tông đồ, người không dám khoe khoang là có một mối quan hệ mật thiết với Chúa, nhưng từ các môn đệ của ông là những người đã viết phần lớn quyển Tin Mừng và là người tạo ra lời này sau khi đã suy gẫm về tình yêu mến đặc biệt giữa Chúa Giêsu và người môn đệ này (xem 13:25; 21:4-7).  Nơi đây chúng ta đọc có những lời đơn giản hơn “người môn đệ kia” hay là “người môn đệ”, một cách hiển nhiên là các soạn giả đã không thêm điều bổ sung.    

*  Người ta đã lấy xác Thầy ra khỏi mồ:  những lời này, trong đó tái diễn ở các câu 13 và 15, cho thấy bà Maria Mađalêna đã lo sợ rằng những kẻ trộm xác đã đem xác đi, một điều khá phổ biến thời ấy, đến nỗi mà hoàng đế La Mã đã phải ban hành nghiêm luật để kiểm soát hiện tượng này.  Trong Tin Mừng Mátthêu (28:11-15), các thượng tế đã dùng việc khả thể này để làm mất uy tín sự thực về việc sống lại của Chúa Giêsu và, cuối cùng, để biện minh cho việc thiếu can thiệp về phần các lính canh mộ.

*  Chúa:  danh hiệu “Chúa” hàm ý một sự thừa nhận về thiên tính và nói lên Đấng toàn năng Thiên Chúa.  Đó là lý do tại sao thuật ngữ này được dùng bởi các Kitô hữu dành cho Chúa Giêsu phục sinh.  Thật vậy, tác giả Tin Mừng thứ tư đã chỉ dùng thuật ngữ này trong câu chuyện mầu nhiệm Vượt Qua (xem 20:13).

*  Chúng tôi không biết người ta đã để Thầy ở đâu:  những lời này gợi nhớ lại những gì đã xảy ra cho ông Môisen, người mà nơi chôn cất không ai biết (Đnl34:10).  Một tài liệu tham khảo hàm ẩn khác là những lời của chính Chúa Giêsu khi Người nói không thể biết rằng Người đang đi đâu (7:11,22; 8:14,28,42; 13:33; 14:1-5; 16:5).

*  Cả hai cùng chạy, nhưng môn đệ kia chạy nhanh hơn Phêrô… nhưng ông không vào trong:  Đoạn này cho thấy sự lo lắng mà các môn đệ đã phải trải qua.
Sự kiện mà “người môn đệ kia” dừng lại, có ý nghĩa cụ thể hơn chỉ là một cử chỉ lịch sự hay sự kính trọng đối với người lớn tuổi hơn, đó là sự thừa nhận ngầm rằng Phêrô, trong nhóm các tông đồ, giữ một vị trí ưu việt, mặc dù điều này không được nhấn mạnh đến.  Vì thế, đó là dấu hiệu của sự hiệp thông.  Cử chỉ này cũng có thể là phương thức văn chương để đi từ một sự việc trong thuật ngữ của niềm tin vào sự phục sinh sang sự kiện kế tiếp và là cao điểm của câu chuyện.

*  Những dây băng nhỏ để đó và khăn liệm che đầu… cuộn lại để riêng một chỗ : mặc dù người môn đệ kia đã không vào trong, ông đã trông thấy điều gì đó rồi. Phêrô, bước vào trong mồ, khám phá ra bằng chứng rằng đã không có việc trộm cắp thi thể:  không có kẻ trộm nào lại lãng phí thì giờ đi cởi những dây băng quấn thi thể, trải tấm khăn liệm ra một cách ngăn nắp (trên mặt đất có lẽ nên dịch là “trải ra” hay là “để cẩn thận trên nền”) và sau đó cuộn lại khăn liệm che đầu và để sang một chỗ.  Việc làm như thế cũng sẽ hết sức phức tạp vì các loại dầu mà thi thể đã được xức vào (đặc biệt là nhựa thơm) có tác động như chất keo, khiến cho các dây băng vải dính hoàn toàn và vững chắc vào thi thể, giống gần như là đã làm cho các xác ướp.  Ngoài ra, khăn liệm mặt đã được gấp lại; động từ trong tiếng Hy Lạp cũng có thể có nghĩa là “cuộn”, hoặc nó có thể cho biết rằng mảnh vải mỏng, phần lớn được dùng như một hình thức giữ gìn khuôn mặt mà nó đã được đặt lên, gần giống như là một cái mặt nạ tẩm liệm.  Các loại vải thì giống như đã được mô tả trong Ga 19:40.
Tất cả mọi thứ trong mộ thì thứ tự ngăn nắp, dù rằng thi thể của Chúa Giêsu đã không có ở đó, và Phêrô cũng đã có thể trông thấy rõ bên trong mộ vì trời đã sáng tỏ.  Khác với Lagiarô (11:44) khi xưa, Chúa Giêsu sống lại hoàn toàn từ bỏ các dây băng vải liệm quấn chung quanh Người.  Các nhà bình luận xa xưa lưu ý rằng, trong thực tế, Lagiarô đã phải dùng đến vải liệm lần nữa cho việc mai táng cuối cùng của ông, trong khi Chúa Giêsu đã không có dịp dùng đến chúng nữa vì Người đã không chết lần thứ hai (xem Rm 6:9).

*  Phêrô… đã trông thấy… người môn đệ kia… đã trông thấy và tin:  Vào lúc bắt đầu câu chuyện, bà Maria Mađalêna cũng “đã trông thấy”.  Mặc dù một số bản dịch xử dụng cùng một động từ, văn bản ban đầu dùng ba động từ khác nhau (theoreincho Phêrô; blepein cho người môn đệ kia và bà Maria Mađalêna; ở đây, động từidein được dùng cho người môn đệ kia), cho phép chúng ta hiểu rằng có một sự tăng tiến trong chiều sâu tinh thần của việc “trông thấy” này, là trong thực tế, đức tin của người môn đệ kia đã tăng trưởng lên đỉnh điểm.
Người môn đệ ẩn danh chắc chắn đã không nhìn thấy bất cứ điều gì khác hơn là Phêrô đã trông thấy.  Có lẽ ông giải thích những gì ông trông thấy một cách khác với những người khác vì mối quan hệ đặc biệt tình yêu ông đã có với Chúa Giêsu (kinh nghiệm của Tôma là việc điển hình, 29:24-29).  Dù sao chăng nữa, như đã cho thấy bằng vào thể của động từ Hy Lạp, đức tin của ông vẫn còn là đức tin ban đầu, đến nỗi mà ông không thể tìm cách chia sẻ kinh nghiệm này với bà Maria hay ông Phêrô hoặc với bất cứ người môn đệ nào khác (không có tài liệu tham khảo thêm về việc này).
Tuy nhiên, đối với tác giả Tin Mừng thứ tư động từ ghép “trông thấy và tin” thật là có ý nghĩa và dành riêng chỉ về niềm tin vào sự sống lại (xem 20:29).  Bởi vì không thể nào tin một cách thực sự trước khi Chúa đã chết và sống lại (xem 14:25-26; 16:12-15).  Bấy giờ, đức tin-song thị đặc trưng cho toàn bộ chương này và “người môn đệ được Chúa Giêsu yêu mến” được tình bày như một mẫu mực của đức tin, người thành công trong việc tìm hiểu sự thật về Thiên Chúa qua vật hữu hình (xem 21:7).      

*  Vì chưng các ông còn chưa hiểu theo Kinh Thánh:  điều này hiển nhiên đề cập đến tất cả các môn đệ khác.  Ngay cả đối với những người đã sống kề cận với Chúa Giêsu, lúc ấy rất khó để mà tin vào Người, và đối với các ông, cũng như đối với chúng ta, cửa ngõ duy nhất cho phép chúng ta bước qua ngưỡng cửa đức tin đích thực là kiến thức về Kinh Thánh (xem Lc 24:26-27; 1Cr 15:34; Cv 2:27-31) trong ánh sáng của các dữ kiện của sự sống lại.
           
5.  Một vài câu hỏi để hướng dẫn việc suy niệm và thực hành của chúng ta

a)  Trong cụ thể, “tin vào Chúa Giêsu Đấng Đã Sống Lại Từ Cõi Chết” có ý nghĩa gì đối với chúng ta?  Chúng ta gặp phải những khó khăn gì?  Sự sống lại chỉ duy nhất liên quan đến Chúa Giêsu hay nó thực sự là nền tảng của đức tin chúng ta? 
b)  Mối quan hệ mà chúng ta thấy giữa ông Phêrô, người môn đệ kia và bà Maria Mađalêna rõ ràng là một trong những sự hiệp thông tuyệt vời trong Chúa Giêsu. Trong những người nào, thực tế nào, và các tổ chức nào ngày nay mà chúng ta tìm thấy cùng một sự hiểu biết về tình yêu và “cộng đoàn chung” được thành lập trên danh Chúa Giêsu?  Chúng ta có thể đọc được ở đâu những dấu hiệu cụ thể của tình yêu tuyệt vời đối với Chúa và “tình yêu của Người” đã linh ứng tất cả các môn đệ?   
c)  Khi chúng ta nhìn vào cuộc sống của mình và thực tế chung quanh, gần và xa, chúng ta có nhìn thấy như Phêrô đã nhìn thấy (ông đã nhìn thấy sự thật, nhưng giữ chặt lấy chúng, đó là, cái chết và việc mai táng của Chúa Giêsu) hay là chúng ta nhìn thấy như người môn đệ kia đã nhìn thấy (ông nhìn thấy sự thật và khám phá ra trong đó những dấu hiệu của sự sống mới)? 

6.  Chúng ta hãy nguyện xin ân sủng và chúc tụng Thiên Chúa

Với bài thánh ca trích từ thư của thánh Phaolô gửi các tín hữu tại Êphêsô (trích từ 1:17-23)  

Tôi cầu xin Chúa Cha vinh hiển là Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ban cho anh em thần khí khôn ngoan để mặc khải cho anh em nhận biết Người.  Xin Người soi lòng mở trí cho anh em thấy rõ, đâu là niềm hy vọng anh em đã nhận được, nhờ ơn Người kêu gọi, đâu là gia nghiệp vinh quang phong phú anh em được chia sẻ cùng dân thánh, đâu là quyền lực vô cùng lớn lao Người đã thi thố cho chúng ta là những tín hữu. Đó chính là sức mạnh toàn năng đầy hiệu lực, mà Người đã biểu dương nơi Đức Kitô, khi làm cho Đức Kitô trỗi dậy từ cõi chết, và đặt ngự bên hữu Người trên trời. Như vậy, Người đã tôn Đức Kitô lên trên mọi quyền lực thần thiêng, trên mọi tước vị có thể có được, không những trong thế giới hiện tại, mà cả trong thế giới tương lai.  Thiên Chúa đã đặt tất cả dưới chân Đức Kitô và đặt Người làm đầu toàn thể Hội Thánh; mà Hội Thánh là thân thể Đức Kitô, là sự viên mãn của Người, Đấng làm cho tất cả được viên mãn.

7.  Lời nguyện kết

Bối cảnh phụng vụ thì rất quan trọng trong việc cầu nguyện Tin Mừng này và sự kiện về sự phục sinh của Chúa Giêsu, nó là trung tâm điểm của đức tin chúng ta và của đời sống Kitô hữu chúng ta.  Trình tự mà đặc điểm của việc phụng vụ Thánh Thể ngày hôm nay và của cả tuần lễ hướng dẫn chúng ta ngợi khen Đức Chúa Cha và Chúa Giêsu.

Các Kitô hữu, Nạn Nhân Vượt Qua
Hãy dâng lên sự hy sinh và ngợi khen.
Chiên cừu được cứu chuộc bởi Con Chiên;
Và Chúa Giêsu, Đấng vẹn toàn
Đem những kẻ tội lỗi về hòa giải với Cha của Người.
Sự chết với cuộc sống tranh đấu:
Cuộc chiến đấu được kết thúc cách kỳ lạ!
Cuộc sống của chính Người Chiến Thắng, bị giết chết,
Thế nhưng lại sống để trị vì.
Bà Maria ơi, hãy cho chúng tôi biết:
Hãy nói bà đã thấy những gì trên đường đi.
Ngôi mộ sự sống đã được kèm theo;
Tôi đã thấy vinh quang của Chúa Kitô như Ngài đã sống lại!
Các thiên thần ở đó đã xác nhận;
Tấm vải liệm cùng với khăn liệm xếp gọn gàng.
Đức Kitô, niềm hy vọng của tôi, đã sống lại:
Người đi đến Galilêa trước các ông.
Chúng tôi biết rằng Đức Kitô thực sự đã sống lại từ cõi chết.
Vua chiến thắng,
Lòng thương xót của Người tỏ rõ.

Chúng ta cũng có thể kết thúc lời nguyện của chúng ta với lời cầu khẩn sống động này bởi một nhà thơ đương đại, Marcô Guzzi:

Tình Yêu, Tình Yêu, Tình Yêu!
Tôi muốn cảm nhận, sống và bộc lộ với tất cả mọi người Tình Yêu này,
Đó là lời cam kết vui tươi trong thế giới
Và sự liên lạc hạnh phúc với những người khác.
Chỉ có Ngài mới tháo gỡ cho tôi, chỉ có Ngài mới giải thoát tôi.
Và tuyết rơi để tưới cho
Các thung lũng xanh tươi nhất trong thế giới.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét