01/05/2015
Thứ Sáu sau Chúa Nhật
IV Phục Sinh
Thánh Giuse thợ.
Bài
Ðọc I: Cv 13, 26-33
"Thiên
Chúa đã làm trọn lời hứa khi cho Ðức Giêsu sống lại".
Trích
sách Tông đồ Công vụ.
Trong
những ngày ấy, khi Phaolô đến Antiôkia thuộc xứ Pisiđia, ông lên tiếng trong hội
đường rằng: "Thưa chư huynh, con cháu Abraham, và những người kính sợ
Thiên Chúa ở giữa chư huynh, lời cứu độ đó đã được rao giảng cho chư huynh. Những
người cư ngụ ở Giêrusalem và các thủ lãnh của họ đã không nhìn nhận Ðức Giêsu
và các lời tiên tri mà họ đọc mỗi ngày Sabbat; thế mà họ đã làm ứng nghiệm lời
tiên tri khi lên án Người. Và dầu không thấy nơi Người lý do nào đáng phải chết,
họ cũng xin Philatô cho giết Người. Và khi đã hoàn tất mọi điều đã chép về Người,
họ đã tháo Người xuống khỏi cây thập giá và mai táng Người trong mồ. Nhưng
Thiên Chúa đã cho Người sống lại từ cõi chết vào ngày thứ ba. Và trong nhiều
ngày, Người đã hiện ra với những kẻ đã cùng với Người từ Galilêa lên
Giêrusalem. Bây giờ những kẻ đó là những chứng nhân của Người trước mặt dân
chúng.
"Phần
chúng tôi, chúng tôi loan báo cho chư huynh hay rằng: lời hứa ban cho tổ phụ
chúng ta, Thiên Chúa đã làm hoàn tất cho chúng ta là con cháu các ngài, khi làm
cho Ðức Giêsu sống lại, như đã chép trong thánh vịnh thứ hai rằng: 'Con là Con
Cha, hôm nay Cha đã sinh ra Con' ".
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 2, 6-7. 8-9. 10-11
Ðáp: Con là thái tử
của Cha, hôm nay Cha đã sinh thành ra Con (c. 7).
Hoặc
đọc: Alleluia.
Xướng:
1) Chính Ta đã đặt vương nhi Ta trên Sion, núi thánh của Ta. Ta sẽ tuyên rao
thánh chỉ của Chúa: Chúa đã phán bảo cùng Ta: "Con là thái tử của Cha, hôm
nay Cha đã sinh thành ra Con". - Ðáp.
2)
Hãy xin Cha và Cha sẽ cho Con được chư dân làm phần sản nghiệp, và cùng kiệt
cõi đất làm gia tài. Con sẽ cai trị chúng bằng cây gậy sắt, như bình thợ gốm,
Con đem nghiền nát chúng ra. - Ðáp.
3)
Giờ đây, hỡi các vua, hãy nên hiểu biết, quân vương mặt đất nên giác ngộ. Hãy
kính sợ làm tôi Chúa và hân hoan mừng Người, hãy khiếp run tỏ bày sự vâng phục
Chúa. - Ðáp.
Alleluia:
Alleluia,
alleluia! - Chúa Kitô đã sống lại ra khỏi mồ, Người đã chịu treo trên thập giá
vì chúng ta. - Alleluia.
Phúc
Âm: Ga 14, 1-6
"Thầy
là đường, là sự thật và là sự sống".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi
ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Lòng các con đừng xao xuyến.
Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở, nếu
không, Thầy đã nói với các con rồi; Thầy đi để dọn chỗ cho các con. Và khi Thầy
đã ra đi và dọn chỗ các con rồi, Thầy sẽ trở lại đem các con đi với Thầy, để Thầy
ở đâu thì các con cũng ở đó. Thầy đi đâu, các con đã biết đường rồi". Ông
Tôma thưa Người rằng: "Lạy Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao
chúng con biết đường đi?" Chúa Giêsu đáp: "Thầy là đường, là sự thật,
và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy".
Ðó
là lời Chúa.
Suy
Niệm: Thầy Sẽ Trở Lại Với Các Con
Anh
chị em thân mến!
Cuộc
"trở lại" nào cũng được khởi đầu bằng sự ra đi. Có ra đi mới có trở lại.
Thế nhưng, cũng có những cuộc ra đi không bao giờ trở lại. Ra đi không trở lại
vì nơi xuất phát của việc ra đi chẳng còn gì có thể lưu luyến người đi. Ði để cởi
bỏ một qua khứ đau buồn, đi để trốn trách nhiệm, đi để tránh những ràng buộc
theo đuổi. Chân vừa cất bước đi thì lòng đã rộn ràng niềm vui.
Những
cuộc ra đi ngày chẳng bao giờ có hứa hẹn. Hoặc nếu có thì cũng chỉ là những lời
giả dối đầu môi để dễ dàng trốn thoát. Hứa hẹn làm gì khi mắt chưa khuất mà
lòng đã xa. Gặp lại nhau làm gì khi đã đào sẵn hố sâu ngăn cách. Người ta chỉ hứa
hẹn khi chân phải bước mà lòng chẳng muốn rời.
Hứa
hẹn là gởi gắm sự hiện diện cho người ở lại. Lời hứa trở lại diễn tả một sự gắn
bó tha thiết, dù mãi tận nơi đâu thì tâm hồn vẫn kề bên với người ở lại. Lời hứa
trở lại có sức xoa dịu nỗi đau bằng viễn ảnh hạnh phúc, ngày tái ngộ lời hứa sẽ
vượt thắng những buồn đau hiện tại. Dù rằng thời gian đợi chờ bao giờ cũng dài
dẳng lê thê.
Khi
Chúa Giêsu sắp từ giã các môn đệ để ra đi trở về cùng Cha, bấy giờ các môn đệ u
buồn xao xuyến. Thật vậy, làm sao mà chẳng có u buồn khi đã có ba năm tình nghĩa
Thầy trò vui buồn sướng khổ bên nhau. Làm sao mà chẳng xao xuyến âu lo khi trụ
cột gia đình vắng bóng, khi chốn tựa nương không còn.
Chúa
Giêsu đã biết trước điều này và các môn đệ cũng đã thấm thía nỗi buồn khi Thầy
họ tuyên bố ra đi. Bởi thế, Ngài đã giải thích cho họ biết về sự ra đi của
Ngài, và nhất là Ngài hứa sẽ trở lại.
Ngài
ra đi không vì bản thân Ngài, nhưng là vì các tông đồ. Ngài ra đi vì để dọn chỗ
cho các môn đệ, và khi đã dọn xong chỗ thì Ngài sẽ trở lại để đem các ông đi
cùng Ngài.
Còn
gì vui sướng cho bằng khi một người ra đi nhận chịu mọi vất vả gian lao, để tất
cả chỉ vì người ở lại. Như thế, người ở lại sẽ không còn mặc cảm là mình bị bỏ
rơi, bị chối từ. Họ hãnh diện sung sướng vì được người ra đi đặc biệt quan tâm
để ý tới. Bởi thế, thái độ xứng hợp của người ở lại chẳng phải là u buồn than
khóc, hoặc ngồi không chờ đợi, nhưng phải góp sức với người ra đi bằng việc chuẩn
bị sẵn sàng để đến lúc hội ngộ, không còn phải đợi chờ làm giảm đi niềm vui của
sự gặp gỡ nữa.
Vì
thế, nếu biết chuẩn bị thì sẽ làm cho người ở hạnh phúc vui mừng biết bao. Và
còn gì bẽ bàng cho bằng khi trở lại mà chỉ gặp toàn những dửng dưng, thờ ơ. Còn
gì làm buồn lòng Thiên Chúa cho bằng khi Ngài đến gõ cửa tâm hồn mà người ta đã
đóng kín.
Vậy,
khi lãnh nhận niềm tin, người tín hữu Kitô cũng được Chúa Giêsu hứa hẹn. Ngài hứa
hẹn là Ngài sẽ trở lại, trở lại với riêng từng người, và chung tất cả mọi người
trên trần thế này. Khi trở lại, Ngài sẽ đem họ lên nơi Ngài đã dọn chỗ. Họ sẽ
hưởng trọn niềm vui mà hiện tại họ chỉ mới cảm nghiệm được lờ mờ như nhìn hình ảnh
phản chiếu trong gương. Giờ trở lại Ngài không báo trước, nhưng Ngài muốn họ
luôn sẵn sàng như tân nương vui mừng chờ đón tân lang.
Lạy
Chúa, xin cho con biết chọn lời hứa trở lại của Chúa, để làm ngọn đuốc hướng dẫn
ngày sống hiện tại của Chúa, nó sẽ là ngọn lửa hy vọng giúp chúng con thoát khỏi
mạng lưới u buồn của cuộc đời giăng mắc xung quanh chúng con, có ánh sáng ngọn
lửa hy vọng soi chiếu, chúng con sẽ không còn cô đơn vì biết rằng Chúa vẫn hằng
quan tâm đến chúng con. Amen.
Veritas Asia
Thánh
Giuse thợ
BÀI
ĐỌC I: St 1, 26 - 2, 3
"Hãy sinh sôi nảy nở cho nhiều đầy mặt đất, và thống trị nó".
Trích
sách Sáng Thế.
Thiên
Chúa phán: "Chúng ta hãy dựng nên con người theo hình ảnh giống như Ta, để
chúng làm chủ cá biển, chim trời, dã thú khắp mặt đất, và tất cả loài bò sát di
chuyển trên mặt đất". Vậy Thiên Chúa đã tạo thành con người giống hình ảnh
Chúa. Người tạo thành con người giống hình ảnh Thiên Chúa. Người tạo thành họ
có nam có nữ. Thiên Chúa chúc phúc cho họ và phán rằng: "Hãy sinh sôi nảy
nở cho nhiều đầy mặt đất, và thống thị nó, hãy bá chủ cá biển, chim trời và
toàn thể sinh vật di chuyển trên mặt đất".
Thiên
Chúa phán: "Đây Ta ban cho các ngươi làm thức ăn mọi thứ cây cỏ mang hạt
giống trên mặt đất, và toàn thể thảo mộc sinh trái có hạt tuỳ theo giống. Ta
ban mọi thứ cây cỏ xanh tươi làm thức ăn cho mọi dã thú trên mặt đất, chim trời
và toàn thể sinh vật di chuyển trên mặt đất". Và đã xảy ra như vậy. Thiên
Chúa thấy mọi sự Người đã làm rất tốt đẹp. Qua một buổi chiều và một buổi sáng:
đó là ngày thứ sáu. Thế là trời đất và mọi vật trang điểm của chúng đã hoàn
thành.
Ngày
thứ bảy, Thiên Chúa đã hoàn tất công việc Người đã làm. Và sau khi hoàn tất
công việc Người đã làm, thì ngày thứ bảy Người nghỉ ngơi. Người chúc phúc và
thánh hoá ngày thứ bảy, vì trong ngày đó Người nghỉ việc tạo thành. Đó là lời
Chúa.
2.
Hoặc: Cl 3, 14-15. 17. 23-24
"Tất cả những gì anh em thực hiện, anh em hãy thành tâm thực hiện
như cho Thiên Chúa, chớ không phải cho người đời".
Trích
thư của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côlôxê.
Anh
em thân mến, trên hết mọi sự, anh em hãy có đức yêu thương, đó là dây ràng buộc
điều toàn thiện. Nguyện cho bình an của Chúa Kitô làm chủ trong lòng anh em, sự
bình an mà anh em đã được kêu gọi tới để làm nên một thân thể. Anh em hãy cảm tạ
Thiên Chúa.
Và
tất cả những gì anh em làm, trong lời nói cũng như trong hành động, tất cả mọi
chuyện, anh em hãy làm vì danh Chúa Giêsu Kitô, nhờ Người mà tạ ơn Thiên Chúa
Cha.
Tất
cả những gì anh em thực hiện, anh em hãy thành tâm thực hiện như cho Thiên
Chúa, chứ không phải cho người đời; vì anh em biết rằng anh em sẽ lãnh nhận phần
thưởng gia nghiệp do Thiên Chúa trao ban, nên anh em hãy phục vụ Chúa Kitô. Đó
là lời Chúa.
ĐÁP
CA: Tv 89, 2. 3-4. 12-13. 14 và 16
Đáp:
Lạy Chúa, xin củng cố sự nghiệp tay chúng con làm ra (c. 17c).
Hoặc
đọc: Alleluia.
Xướng:
1) Ôi Thiên Chúa, trước khi núi non sinh đẻ, trước khi địa cầu và vũ trụ nở ra,
tự thuở này qua thuở kia, vẫn có Ngài. - Đáp.
2)
Thực ngàn năm ở trước thiên nhan, tựa hồ như ngày hôm qua đã khuất, như một đêm
thức giấc cầm canh. Chúa khiến con người trở về bụi đất, Ngài phán: "Hãy
trở về gốc, hỡi con người". - Đáp.
3)
Xin dạy chúng con biết đếm ngày giờ, để chúng con luyện được lòng trí khôn
ngoan. Lạy Chúa, xin trở lại, chứ còn để tới bao giờ? Xin tỏ lòng xót thương
tôi tớ của Ngài! - Đáp.
4)
Xin cho chúng con sớm được no phỉ ân tình của Chúa, để chúng con được mừng rỡ
hân hoan trọn đời sống chúng con. Xin cho các bầy tôi nhìn thấy sự nghiệp của
Chúa, và cho con cháu họ được thấy vinh quang Ngài. - Đáp.
ALLELUIA:
Tv 67, 20
Alleluia,
alleluia! - Chúc tụng Chúa trong mọi ngày, Thiên Chúa là Đấng Cứu Độ chúng ta,
Người vác lấy gánh nặng của chúng ta. - Alleluia.
PHÚC
ÂM: Mt 13, 54-58
"Ông ta không phải là con bác phó mộc sao?"
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi
ấy, Chúa Giêsu trở về quê nhà, giảng dạy dân chúng trong hội đường, họ bỡ ngỡ
và nói rằng: "Bởi đâu ông này khôn ngoan và tài giỏi như thế? Ông không phải
là con bác thợ mộc ư? Mẹ ông không phải là bà Maria? và Giacôbê, Giuse, Simon
và Giuđa không phải là anh em của ông sao? Và tất cả chị em của ông không phải ở
nơi chúng ta đó sao? Vậy bởi đâu ông được mọi điều ấy như thế?" Và họ lấy
làm gai chướng về Người. Nhưng Chúa Giêsu nói với họ: "Không có tiên tri
nào được vinh dự nơi quê hương và nơi nhà mình". Và Người không làm nhiều
phép lạ tại đó, vì họ cứng lòng tin. Đó là lời Chúa.
(thanhlinh.net)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Sáu Tuần IV PS
Bài đọc: Acts 13:26-33; Jn
14:1-6.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Mọi điều Thiên Chúa
hứa được hoàn thành bởi Đức Kitô.
Con
người ham sống và sợ chết. Nếu phải đổi tất cả những gì con người có để khỏi phải
chết và được sống muôn đời, họ sẽ sẵn sàng đổi; nhưng cái chết là một thực tại
mà mọi người phải đương đầu với. Con người tự hỏi: Tại sao khát vọng sống ở
trong con người mà cái chết luôn đeo đuổi họ? May mắn cho con người, Chúa Giêsu
đến để cung cấp câu trả lời cho con người bằng cách cho mặc khải cho con người
ý định của Thiên Chúa: Ngài dựng nên con người cho cuộc sống bất tử và có sẵn Kế
Hoạch Cứu Độ để thực hiện điều này.
Các
Bài Đọc hôm nay tập trung trong Chúa Giêsu; Ngài đến để hoàn thành Kế Hoạch của
Thiên Chúa, và mang lại cuộc sống trường sinh cho con người. Trong Sách CVTĐ,
Phaolô đưa khán giả ngược giòng lịch sử để nhìn thấy những gì Thiên Chúa hứa với
dân Do-thái được hoàn thành nơi Đức Kitô, qua Cuộc Thương Khó – cái chết – và sự
Phục Sinh vinh hiển của Ngài. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu mặc khải cho các Tông-đồ
biết về những gì sắp xảy ra cho các ông: Ngài về trời để dọn chỗ và sẽ trở lại
đón các ông về ở với Ngài. Toàn bộ Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa có thể được
tóm gọn trong câu tuyên bố của Chúa Giêsu: "Ta là Đường, là Sự Thật, và là
Sự Sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy."
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I:
Điều Thiên Chúa đã hứa với cha ông chúng ta được thực hiện nơi Đức Kitô.
1.1/
Mọi chuyện xảy ra trong Cuộc Thương Khó của Đức Kitô đã được loan báo trong
Kinh Thánh.
Phaolô
tiếp tục nói với khán giả trong hội đường tại Antioch, Pisidia: "Thưa anh
em, là con cái thuộc dòng giống Abraham, và thưa anh em đang hiện diện nơi đây,
là những người kính sợ Thiên Chúa, lời cứu độ này được gửi tới chúng ta."
Rồi ông nói về sự luận tội, cái chết, và sự mai táng của Đức Kitô:
(1)
Sự luận tội: "Dân cư thành Jerusalem và các thủ lãnh của họ đã không nhận
biết Đức Giêsu; khi kết án Người, họ đã làm cho ứng nghiệm những lời ngôn sứ đọc
mỗi ngày Sabbath."
Bốn
Bài ca về Người Tôi Trung của Thiên Chúa phải chịu đau khổ để hoàn thành sứ vụ
Thiên Chúa trao trong Sách Ngôn Sứ Isaiah, và nhiều Sách ngôn sứ khác dẫn chứng
điều này.
(2)
Cái chết của Ngài: "Tuy không thấy Người có tội gì đáng chết, họ vẫn đòi
Philatô xử tử." Chính Philatô đã mang Chúa Giêsu ra cho dân thấy và nói:
"Ta không tìm thấy nơi người này có tội gì để kết án;" nhưng họ càng
la to hơn: "Đóng đinh nó đi! Đóng đinh nó vào Thập Giá!"
(3)
Sự mai táng: "Sau khi thực hiện tất cả mọi điều Kinh Thánh chép về Người,
họ đã hạ Người từ trên cây gỗ xuống và mai táng trong mồ."
1.2/
Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy từ cõi chết: Mặc dù con người đã
từ chối và đóng đinh Chúa Giêsu trên Thập Giá, họ không vô hiệu hóa Kế Hoạch Cứu
Độ của Thiên Chúa, vì Ngài đã cho Đức Kitô sống lại từ cõi chết. Vì thế, Kế Hoạch
Cứu Độ được hoàn thành, và từ nay, không những Israel và mọi người đều có thể
nhận được ơn cứu độ. Phaolô trưng dẫn những chứng nhân của Tin Mừng Phục Sinh:
(1)
Đức Kitô đã hiện ra nhiều lần với các môn đệ: "Trong nhiều ngày, Đức Giêsu
đã hiện ra với những kẻ từng theo Người từ Galilee lên Jerusalem. Giờ đây chính
họ làm chứng cho Người trước mặt dân."
(2)
Phaolô và Barnabas làm chứng cho Tin Mừng Phục Sinh: "Còn chúng tôi, chúng
tôi xin loan báo cho anh em Tin Mừng này: Điều Thiên Chúa hứa với cha ông chúng
ta, thì Người đã thực hiện cho chúng ta là con cháu các ngài, khi làm cho Đức
Giêsu sống lại, đúng như lời đã chép trong Thánh vịnh 2: Con là Con của Cha,
ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con."
2/
Phúc Âm:
Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Chúa Giêsu.
2.1/
Tình yêu Chúa Giêsu dành cho các môn đệ: Đây là những lời tâm huyết của Chúa Giêsu cho các
môn đệ trước Cuộc Thương Khó, như những lời trối trăn của người chết trên giường
bệnh trước lúc hấp hối: "Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và
tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với
anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì
Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó. Và Thầy
đi đâu, thì anh em biết đường rồi."
2.2/
Đường dẫn đến Chúa Cha:
(1)
Câu hỏi của ông Thomas: "Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm
sao chúng con biết được đường?" Câu hỏi của Thomas hợp lý, một người phải
biết đích mình muốn đi, trước khi tìm ra đường để đi tới. Khi hỏi những lời
này, Thomas vẫn chưa tin Chúa Giêsu đến từ trời, nên khi Chúa Giêsu nói Ngài sẽ
trở về cùng Cha, ông không nghĩ là Chúa Giêsu sẽ lên trời. Cho đến khi chính mắt
ông nhìn thấy Chúa khi Ngài hiện ra (Jn 20:26-28), lúc đó ông mới xác tín niềm
tin của ông vào Chúa Giêsu, khi kêu lên: "Lạy Thầy của con! Lạy Thiên Chúa
của con" (Jn 20:28).
(2)
Câu trả lời của Chúa Giêsu: "Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự
sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy." Làm sao một con người
có thể tuyên bố những lời này? Các Tông-đồ có lẽ không hiểu ý nghĩa của câu
tuyên bố này khi Chúa Giêsu nói; nhưng chỉ dưới ánh sáng Phục-sinh, các ông mới
có thể nhận ra ý nghĩa của nó.
Trước
tiên, Chúa Giêsu mặc khải cho con người một "Sự Thật" quan trọng.
Ngài cho con người biết ý định của Thiên Chúa: Thiên Chúa muốn cho con người
không phải chết, nhưng được "Sống" muôn đời. Đây là đích điểm của đời
người, và cũng là đích điểm của Kế Hoạch Cứu Độ. Điều này không lạ, vì Thiên
Chúa dựng nên con người, và Ngài phú bẩm trong linh hồn con người khát vọng được
sống đời đời. Làm sao con người đạt được đích điểm này? Con người không thể tự
mình đạt tới vì con người tội lỗi và không có sức mạnh; nhưng Thiên Chúa đã chuẩn
bị một Kế Hoạch Cứu Độ.
Đây
là "Đường" hay "Cách" mà Thiên Chúa cứu độ con người: Ngài
cho Người Con Một xuống thế gian để gánh tội cho con người. Người Con này hoàn
thành Kế Hoạch bằng cách chịu đau khổ, chịu chết, và sống lại để mang lại sự sống
đời đời cho con người.
Để
con người có thể đạt đích của cuộc đời, họ phải tin vào Đức Kitô và Kế Hoạch Cứu
Độ của Thiên Chúa; đồng thời, họ cũng phải ngang qua con đường mà Chúa Giêsu đã
đi để chuộc tội cho con người, như thánh Phaolô nói: "Nếu chúng ta đã cùng
chết với Đức Kitô, chúng ta sẽ cùng sống lại như Người." Quả thực, chỉ một
mình Đức Kitô có đầy đủ thẩm quyền để nói: "Chính Thầy là con đường, là sự
thật và là sự sống."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
Cuộc
đời chúng ta chỉ có ý nghĩa qua niềm tin vào Đức Kitô. Ngài đến để mặc khải cho
chúng ta ý định của Thiên Chúa, và Ngài sẵn sàng chịu đau khổ và chịu chết để
chúng ta được sống muôn đời. Tất cả mọi biến cố trong Kinh Thánh và trong cuộc
đời chúng ta chỉ tìm thấy ý nghĩa đích thực qua ánh sáng Phục Sinh của Đức
Kitô.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
01/05/15 THỨ SÁU ĐẦU
THÁNG TUẦN 4 PS
Th. Giu-se Thợ
Mt 13,54-58
Th. Giu-se Thợ
Mt 13,54-58
Suy niệm: Khi
Steve Jobs qua đời, nhiều người trên thế giới đã đặt nến và trái táo cắn dở
trước các chi nhánh của tập đoàn Apple, bày tỏ lòng thương tiếc, tri ân một
thiên tài đã làm thay đổi cuộc sống con người với các sản phẩm độc đáo như
ipod, iphone và ipad. Bên cạnh các tên tuổi lớn với những phát minh vĩ đại như
ông, vẫn có đại đa số những con người vô danh không có một phát minh nào, nhưng
lại đóng góp thật to lớn cho sự thiện hảo và hạnh phúc của con người. Thánh
Giu-se là một trong những người lao động thầm lặng ấy. Hội Thánh đặt ngài làm
bổn mạng cho những người lao động âm thầm không chỉ để nói lên giá trị về các
đóng góp cho hạnh phúc của gia đình và xã hội mà còn để nêu cao mẫu gương sáng
chói nhất của thánh nhân là biến lao động thành một của lễ dâng để thờ phương
Thiên Chúa.
Mời Bạn: Tựa
như thánh Giu-se, công việc bạn làm không quan trọng, điều quan trọng trước mặt
Chúa là cách bạn làm. Ý hướng của bạn khi lao động và những đức tính cần thiết
kèm theo khi lao động quyết định giá trị việc bạn làm trước cái nhìn của Thiên
Chúa.
Sống Lời Chúa: Lao
động là món quà yêu thương tôi gởi đến những người thân yêu mà tôi có nhiệm vụ
chăm sóc.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa không giao phó việc giáo dục Đấng Cứu Thế cho một
người cha nuôi là tiến sĩ luật hay một kinh sư, nhưng cho một bác thợ mộc. Chúa
muốn cho thấy giá trị cao cả trong lao động của con người, dù là những công
việc thô sơ, đơn giản, thông thường. Xin cho chúng con có một cái nhìn mới về
lao động, và sử dụng lao động như phương cách đẹp lòng Chúa.
Đức Giêsu về quê (1.5.2015 – Thứ sáu - Thánh
Giuse Thợ)
Dân làng Nazareth đã không
nhận ra hồng phúc mà họ đang hưởng. Chúng ta cũng cần được giải thoát khỏi những
cái biết hẹp hòi, để thấy mình hạnh phúc khi sống với người khác gần bên.
Suy niệm:
Sau khi đã chịu phép Rửa,
vào hoang địa để cầu nguyện, ăn chay,
có một ngày nào đó, Đức
Giêsu chia tay Đức Mẹ để lên đường.
Lên đường là bỏ lại ngôi
làng Nazareth dấu yêu với bao kỷ niệm.
Chính tại đây Ngài đã sống
hơn ba mươi năm trong bầu khí gia đình.
Chính tại nơi này, Ngài đã
lớn lên quân bình về thân xác, trí tuệ, tâm linh.
Nazareth như một ngôi trường
lớn, chuẩn bị cho Ngài chững chạc đi sứ vụ.
Tại đây, Đức Giêsu đã
là con bác thợ Giuse (c. 55),
và đã trở thành thợ theo
truyền thống cha truyền con nối.
Ngài đã được dạy nghề và
hành nghề để kiếm sống cho bản thân và gia đình.
Đức Giêsu là một người thợ
tại Nazareth, phục vụ cho nhu cầu dân làng.
Ngài biết đến cái vất vả của
công việc chân tay nặng nhọc.
Đức Giêsu không thuộc giới
trí thức, thượng lưu, quyền quý.
Lao động làm Ngài gần với
người nghèo và thấy sự đơn sơ của tâm hồn họ.
Cũng tại Nazareth, đời sống
cầu nguyện của Đức Giêsu được nuôi dưỡng.
Ngài học được lối cầu nguyện
một mình ở nơi vắng vẻ.
Đức Giêsu có khả năng thấy
sự hiện diện yêu thương của Cha nơi mọi sự,
nơi một bông hoa, nơi chim
trời, nơi ánh nắng và cơn mưa.
Tình thân của Con đối với
Cha ngày càng trở nên sâu đậm.
Ngài tìm ý Cha mỗi lúc và để
Cha chi phối trọn vẹn đời mình.
Hôm nay Đức Giêsu trở về
làng cũ sau một thời gian đi sứ vụ.
Ngài vào lại hội đường quen
thuộc, gặp lại những khuôn mặt đồng hương.
Không rõ trước đây có lần
nào bác thợ Giêsu được mời giảng ở đây chưa.
Nhưng lần này, khi trở về
với tiếng tăm từ những phép lạ làm ở nơi khác,
Đức Giêsu đã khiến dân làng
sửng sốt vì sự khôn ngoan trong lời giảng dạy.
Hai lần họ đặt câu hỏi: Bởi
đâu ông ta được như thế? (cc. 54. 56).
Một câu hỏi rất hay, nếu
được tìm hiểu một cách nghiêm túc.
Câu hỏi này có thể đưa họ đi
rất xa, để gặp được căn tính của Đức Giêsu.
Tiếc thay, dân làng Nazareth
lại không quên được nghề nghiệp của cha Ngài.
Họ nhớ rất rõ họ hàng gần xa
của Ngài là mẹ và các anh chị.
Họ có thể kể tên từng anh
chị em của Ngài, vì đều là bà con lối xóm (c. 55).
Đức Giêsu là người mà họ
biết quá rõ từ thuở ấu thơ.
Làm sao con người bình
thường, ít học đó lại có thể là một vị ngôn sứ?
Làm sao từ ngôi làng
Nazareth vô danh này lại xuất hiện ngôn sứ được?
Và họ vấp ngã vì Đức Giêsu,
nghĩa là họ đã không tin vào Ngài.
Cái biết gần gũi của họ về
Ngài lại trở nên thành kiến
khiến họ không thể tiến sâu
hơn vào mầu nhiệm con người Đức Giêsu.
Người đồng hương của Ngài đã
không trả lời được câu hỏi: Bởi đâu…?
Mỗi con người là một mầu
nhiệm mà ta phải khám phá mãi.
Có những mầu nhiệm lớn ẩn
trong lớp áo tầm thường.
Dân làng Nazareth đã không
nhận ra hồng phúc mà họ đang hưởng.
Chúng ta cũng cần được giải
thoát khỏi những cái biết hẹp hòi,
để thấy mình hạnh phúc khi
sống với người khác gần bên.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
dân làng Nazareth đã không
tin Chúa
vì Chúa chỉ là một ông thợ
thủ công.
Các môn đệ đã không tin Chúa
khi thấy Chúa chịu treo trên
thập tự.
Nhiều kẻ đã không tin Chúa
là Thiên Chúa
chỉ vì Chúa sống như một con
người,
Cũng có lúc chúng con không tin Chúa
hiện diện dưới hình bánh
mong manh,
nơi một linh mục yếu đuối,
trong một Hội thánh còn
nhiều bất toàn.
Dường như Chúa thích ẩn mình
nơi những gì thế gian chê
bỏ,
để chúng con tập nhận ra
Ngài
bằng con mắt đức tin.
Xin thêm đức tin cho chúng con
để khiêm tốn thấy Ngài
tỏ mình thật bình thường
giữa lòng cuộc sống.
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
1
THÁNG NĂM
Sự
Đảm Bảo Của Thiên Chúa
Để
hiểu dụ ngôn về Người Mục Tử Tốt Lành, chúng ta cần xác tín khả năng quán thông
trước mọi sự của Thiên Chúa và giá trị vô hạn của chúng ta trước mặt Ngài:
“Chúng sẽ không bao giờ hư mất. Không ai cướp được chúng khỏi tay tôi … Không
ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha” (Ga 10, 28 – 29). Lời khẳng định thật mạnh
mẽ. Có thể nói, toàn bộ tấn kịch cứu độ được phản ảnh trong những lời này.
Đức
Kitô nói rõ: “Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì cao trọng hơn tất cả …
Tôi và Chúa Cha là một” (Ga 10, 29 – 30). Xuyên qua Thập Giá và Phục Sinh, mối
hiệp nhất thần linh của Chúa Cha và Chúa Con được bày tỏ trọn vẹn. Mối hiệp nhất
này được diễn tả trong công cuộc sáng tạo con người, trong sự quan phòng cứu độ
của Thiên Chúa, và trong hành động cứu chuộc của Ngài.
Trong
hành động cứu chuộc, một cách nào đó, Thiên Chúa dấn mình trọn vẹn để đảm bảo rằng
những gì mà Ngài đã tạo nên theo hình ảnh Ngài và giống như Ngài sẽ không bị tước
mất khỏi Ngài. Thiên Chúa đảm bảo rằng hành động cứu độ của tình yêu vĩnh cửu ấy
sẽ được hoàn tất nơi con người.
Giáo
Hội là chứng nhân của tình yêu ấy. Giáo Hội là chứng nhân của công cuộc cứu độ
con người được thực hiện nơi Đức Kitô. Giáo Hội là chứng nhân của Mầu Nhiệm Phục
Sinh – qua cuộc phục sinh này, sứ mạng của Đấng Mục Tử Tốt Lành đã được thực hiện
với tầm mức sâu xa nhất. Trong Sách Công Vụ Tông Đồ, chúng ta nhận được cùng một
lời chứng ấy khi Phao-lô và Barnaba nhắc lại những lời trong Sách Ngôn Sứ
Isaia: “Ta sẽ đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ đến tận
cùng cõi đất” (Cv 13, 47).
-
suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm.
Lê Công Đức dịch
từ nguyên tác
LIFT
UP YOUR HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia
Đình
NGÀY
01 - 5
Thánh
Giuse Thợ
Cv
13,26-33; Ga 14, 1-6.
LỜI
SUY NIỆM: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào
Thầy”.
Lời
của Chúa Giêsu an ủi các môn đệ của Chúa xưa kia; cũng là chính lời Người đang
mời gọi tất cả tín hữu của chúng ta đang phải chứng kiến những nghich cảnh đang
xãy ra cho những con người lương thiện và nghèo đói hôm nay. Mọi sự phải đặt niềm
tin vào Thiên Chúa và vào Người vì Người đã thắng thế gian và đang cứu chuộc tất
cả mọi người như Thánh Ý của Chúa Cha.
Lạy
Chúa Giêsu. Xin cho mọi thành viên trong gia đình chúng con luôn tin vào Ba
Ngôi Thiên Chúa mà sống ngay thẳng và kết hiệp trong cầu nguyện với sự phó thác
vào quyền năng của Chúa.
Mạnh
Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày
01-05: Thánh
GIUSE THỢ
Thánh
Giuse. Cả hai bản của thánh Mathêu và thánh Luca, đều nói rằng: Ngài thuộc
giòng họ David. Nhưng vào thời khởi đầu công nguyên, miêu duệ cùng giòng giống
vương giả này chẳng còn danh giá và giàu có gì. Vài điều chúng ta biết được về
thánh Giuse qua việc dâng Chúa Giêsu vào đền thờ (Lc 2,24), cho biết rằng Ngài
là một người nghèo khó, không có đặc quyền nào. Gia đình Ngài vốn thuộc về
Belem đất Giudêa, nhưng đã dời về Nazareth đất Galilea nơi Ngài sinh sống bằng
nghề thợ mộc (Mt 13,55).
Con
người bình thường được nhắc tới với một chút khinh thường như "bác thợ mộc"
ấy lại là gương mẫu cho mọi Kitô hữu và cách riêng cho những Kitô hữu sống nghề
lao động tay chân. Ngài thật là người công chính như một dụng cụ nhẫn nại của
Thiên Chúa, thực hiện mọi điều Chúa đòi hỏi với một đức tin không nghi nan.
Ngài sốt sắng tuân giữ luật Do thái, trung thành bảo vệ gia đình, Ngài có trách
nhiệm, chấp nhận mọi khó khăn mau mắn vâng theo lệnh truyền, vững chí dưới cơn
thử thách, luôn lặng lẽ đáng kính phục. Nhân tính hấp dẫn của Chúa Kitô với
tính cương trực, lòng can dảm và đức bác ái sâu xa, chắc chắn đã được phát triển
theo gương mẫu và sự nuôi dưỡng Người nhận được từ Thánh cả Giuse.
Dầu
vậy, sự cao cả của thánh nhân ở một mức độ sâu xa hơn từ ngữ vẫn áp dụng cho
Người là "Cha nuôi Chúa Giêsu". Từ ngữ này gợi lên một liên hệ bóng
gió nào đó với Chúa Kitô. Đúng hơn có lẽ phải nói rằng thánh Giuse là Cha của
Chúa Giêsu như các sách Tin Mừng đã là ngần ngại nói như vậy, Chúa Giêsu thực
là hoa quả của cuộc hôn nhân mà thánh Giuse giữ vai trò thiết yếu. Nếu tình phụ
tử của Ngài là trinh khiết thì không phải vì thế mà mối tình ấy thấp hèn hơn
tình phụ tử về thể xác. Liên hệ của người cha trinh khiết với Chúa Giêsu cũng
tương tự như mối liên hệ của Người Mẹ Trinh khiết đối với Người. Cả Đức Mẹ và
thánh Giuse đều góp phần hoàn hảo của mình vào mầu nhiệm nhập thể. Phần đóng
góp này còn mở rộng tới thân thể mầu nhiệm của Ngôi Lời hoá thành nhục thể là
Giáo hội. Thánh Giuse vẫn tiếp tục vai trò của mình trong việc nuôi dưỡng bảo vệ
và hướng dẫn Giáo hội.
Bởi
đó năm 1870, Đức Giáo Hoàng Piô IX tuyên xưng thánh Giuse là Đấng bảo trợ của cả
Hội Thánh khắp hoàn cầu. Và đặt lễ kính vào ngày 19 tháng 3 mỗi năm.
Từ
vai trò đặc biệt của thánh Giuse đối với toàn thể Hội Thánh, thánh nhân chắc chắn
cũng liên hệ đến từng người trong thân thể mầu nhiệm này. Thánh nhân đã thi
hành sứ mạng của mình trong cuộc sống lao động như người thợ. Do đó, Ngài có một
mối liên hệ đặc biệt với lớp người đông đảo sống bằng sức lao động chân tay của
mình. Năm 1955, Đức Piô XII đã lập nên lễ thánh Giuse và đặt ngày kính nhớ vào
mồng 1 tháng 5, ngày mà nhiều nước chọn cử hành lễ lao động. Niên biểu không
hoàn toàn phổ quát nên lễ thánh Giuse Thợ cũng được để tự do.
Tuy
nhiên, chính Đức Giáo Hoàng đã nói tới ý nghĩa của lễ này : - "Chắc hẳn
chúng ta phải hân hoan vì Người thợ vô danh ở Nazareth chẳng những là hiện thân
cho giá trị lao động tay chân trước mặt Chúa và Giáo hội mà còn là vị Giám hộ mẫn
tiệp của mọi người và của các gia đình các bạn lao động nữa".
Để
nói về quyền năng của Đấng bảo trợ, Ngài tiếp : - "Không có Vị Giám hộ nào
có đủ khả năng Linh nghiệm truyền thông Phúc âm cho đời sống thợ thuyền hơn bằng
thánh Giuse thợ"
Mừng
lễ thánh Giuse thợ, chúng ta hãy nhớ lời vị Cha chung, Đức Piô XII nhắn nhủ,
trong bài diễn văn đọc vào ngày lễ thánh Giuse thợ đầu tiên này : - "Nếu
các con muốn được gần Chúa Kitô, Cha nhắc nhớ các con hôm nay : Ite ad Joseph -
Hãy đến với Giuse" (St 41,55)
(daminhvn.net)
01
Tháng Năm
Giuse Trong Xóm Nhỏ
Ðiêu Tàn
"Giuse
trong xóm nhỏ điêu tàn..."
Có
lẽ không một người công giáo Việt Nam nào mà không thuộc nằm lòng bài thánh ca
trên đây của cố linh mục Ðạo Minh, dòng thánh Giuse... Tác giả đã sáng tác ca
khúc trong giai đoạn đau thương của đất nước giữa hai thập niên 40 - 50 và cũng
như thánh Giuse, đã ra đi âm thầm trong một cái chết vô cùng bí ẩn sau ngày
thay đổi chế độ.
Lời
ca đơn sơ xuất phát từ cuộc sống lam lũ qua mọi thời đại của người Việt Nam.
Nhưng tâm tình đó lại càng hợp với hoàn cảnh sống của người Việt Nam hơn bao giờ
hết. Với khẩu hiệu lao động là vinh quang... dường như sau năm 1975, người Việt
Nam nào cũng đã hơn một lầm mồ hôi nhễ nhại với cây cuốc, cái cày hoặc còng
lưng trên chiếc xích lô đạp...
Trong
cảnh sống đó, có lẽ ai trong chúng ta cũng cảm thấy gần gũi với thánh Giuse, vị
thánh được mệnh danh là người công chính, nhưng đồng thời cũng là con người
thinh lặng nhất trong Phúc Âm. Có rất nhiều thứ thinh lặng. Thinh lặng của những
người câm điếc, bị trói buộc trong bất lực tự nhiên của mình. Thinh lặng trong
cô đơn buồn chán. Thinh lặng trong căm thù oán ghét. Thinh lặng trong khép kín
ích kỷ. Thinh lặng trong kiêu hãnh trước đe dọa, thử thách...
Thánh
Giuse đã thinh lặng trong tinh thần chấp nhận và chiêm niệm. Trong cuộc sống âm
thầm tại Nagiaréth, thánh Giuse đã thinh lặng để chiêm ngưỡng mầu nhiệm nhập thể
kỳ diệu trong con người của Chúa Giêsu. Cuộc đời của thánh Giuse đã bắt đầu bằng
một giấc mơ để rồi tiếp tục trong một giấc mơ triền miên. Nhưng đây không phải
là một giấc mơ của mộng ảo phù du, mà là một giấc mơ trong chiêm niệm về hiện
thực...
Trong sự thinh lặng chiêm niệm ấy, từng biến cố nhỏ của cuộc sống đã mang nặng sự hiện diện và tác động của Thiên Chúa.
Trong sự thinh lặng chiêm niệm ấy, từng biến cố nhỏ của cuộc sống đã mang nặng sự hiện diện và tác động của Thiên Chúa.
Hôm
nay là ngày lao động Quốc tế. Ngày lao động Quốc tế này gợi lại cả một quá
trình tranh đấu của giới thợ thuyền của Âu Châu vào đầu thế kỷ vừa qua. Từ những
bất công xã hội, cuộc đấu tranh của giới thợ thuyền đã làm trồi dậy phẩm giá của
con người và giá trị của sự cần lao...
Ðối
với người Kitô, ngày Quốc tế lao động này gắn liền với con người của Thánh cả
Giuse, quan thầy và gương mẫu của giới cần lao. Do đó ngày hôm nay đối với
chúng ta phải là một ngày của suy tư và cầu nguyện. Suy tư về ý nghĩa và giá trị
những công việc hằng ngày của chúng ta. Cầu nguyện cho mọi người biết nhận ra sự
hiện diện và tác động và lời kêu mời của Chúa trong cuộc sống...
(Lẽ
Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét