25/05/2015
Thứ Hai sau Chúa Nhật
8 Quanh Năm
Bài
Ðọc I: (Năm I) Hc 17, 20-28
"Hãy
trở về với Thiên Chúa và hãy nhận biết công minh của Người".
Trích
sách Huấn Ca.
Thiên
Chúa đã ban đường công chính cho người sám hối, nâng đỡ những kẻ mất niềm tin,
và hướng dẫn họ đi vào đường chân lý.
Hãy
trở về với Thiên Chúa và hãy từ bỏ tội lỗi. Hãy kêu cầu trước tôn nhan Chúa,
hãy chấm dứt những điều xúc phạm, hãy trở về cùng Chúa, hãy lánh xa những điều
gian ác, và hãy chê ghét những điều xấu xa. Hãy nhận biết công minh và sự xét xử
của Thiên Chúa. Hãy đứng vững và cầu xin với Thiên Chúa Tối Cao.
Hãy
thông công vào đời sống các thánh, và cùng với kẻ sống hãy xưng tụng Thiên
Chúa. Ðừng ỷ lại vào sự sai lầm của bọn gian ác. Hãy thú nhận tội lỗi trước khi
chết, vì chết rồi, thì không còn thú tội được nữa. Ngươi hãy thú nhận tội lỗi
khi còn sống, hãy thú nhận tội lỗi khi còn sống và còn khoẻ mạnh.
Hãy
ca tụng Thiên Chúa và ngươi sẽ được vinh hiển trong tình xót thương của Người.
Lòng nhân lành của Chúa và sự tha thứ của Người đối với những kẻ trở lại với
Người thật lớn lao dường nào!
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 31, 1-2. 5. 6. 7
Ðáp: Chư vị hiền
nhân, hãy vui mừng hân hoan trong Chúa (c. 11a).
Xướng:
1) Phúc thay người được tha thứ lỗi lầm, và tội phạm của người được ơn che đậy.
Phúc thay người mà Chúa không trách cứ lỗi lầm, và trong lòng người đó chẳng có
mưu gian. - Ðáp.
2)
Tôi xưng ra cùng Chúa tội phạm của tôi, và lỗi lầm của tôi, tôi đã không che giấu.
Tôi nói: "Tôi thú thực cùng Chúa điều gian ác của tôi, và Chúa đã tha thứ
tội lỗi cho tôi". - Ðáp.
3)
Bởi thế nên mọi người tín hữu sẽ nguyện cầu cùng Chúa, trong thời buổi khốn khó
gian truân. Khi sóng cả ba đào ập tới, chúng sẽ không hại nổi những người Này.
- Ðáp.
4)
Chúa là chỗ dung thân, Chúa giữ tôi khỏi điều nguy khổ; Chúa đùm bọc tôi trong
niềm vui ơn cứu độ. - Ðáp.
Alleluia:
Ga 1, 14 và 12b
Alleluia,
alleluia! - Lạy Chúa, xin hãy phán vì tôi tớ Chúa đang nghe; Chúa có lời ban sự
sống đời đời. - Alleluia.
Phúc
Âm: Mc 10, 17-27
"Ngươi
hãy đi bán tất cả gia tài rồi đến theo Ta".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi
ấy, Chúa Giêsu vừa lên đường, thì một người chạy lại, quỳ gối xuống trước Người
và hỏi: "Lạy Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sống đời đời?"
Chúa Giêsu trả lời: "Sao ngươi gọi Ta là nhân lành? Chẳng có ai là nhân
lành, trừ một mình Thiên Chúa. Ngươi đã biết các giới răn: đừng ngoại tình, đừng
giết người, đừng trộm cắp, đừng làm chứng gian, đừng lường gạt, hãy thảo kính
cha mẹ". Người ấy thưa: "Lạy Thầy, những điều đó tôi đã giữ từ thuở
nhỏ". Bấy giờ Chúa Giêsu chăm chú nhìn người ấy và đem lòng thương mà bảo
rằng: "Ngươi chỉ còn thiếu một điều là ngươi hãy đi bán tất cả gia tài,
đem bố thí cho người nghèo khó và ngươi sẽ có một kho báu trên trời, rồi đến
theo Ta". Nhưng người ấy nghe những lời đó, thì sụ nét mặt và buồn rầu bỏ
đi, vì anh ta có nhiều của cải. Lúc đó Chúa Giêsu nhìn chung quanh, và bảo các
môn đệ rằng: "Những người giàu có vào nước Thiên Chúa khó biết bao".
Các môn đệ kinh ngạc vì những lời đó. Nhưng Chúa Giêsu lại nói tiếp và bảo các
ông rằng: "Hỡi các con, những kẻ cậy dựa vào tiền bạc, thật khó mà vào nước
Thiên Chúa biết bao. Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào nước
Thiên Chúa".
Các
ông càng kinh ngạc hỏi nhau rằng: "Như vậy thì ai có thể được cứu độ?"
Chúa Giêsu chăm chú nhìn các ông, và nói: "Ðối với loài người thì không thể
được, nhưng không phải đối với Thiên Chúa, vì Thiên Chúa làm được mọi sự".
Ðó
là lời Chúa.
Suy
Niệm: Khôn ngoan đích thực
Trong
truyền thống Kinh Thánh, Vua Salômôn vẫn được coi như mẫu người biết sống khôn
ngoan, bởi vì nhà vua hiểu rằng ai có được khôn ngoan là chiếm hữu được bí mật,
là chiếm hữu được ý nghĩa cuộc sống, và đó mới là kho tàng quý báu nhất. Người
khôn ngoan như thế là người biết đặt vấn đề về ý nghĩa của đời mình, bởi vì có
nhiều tiền bạc, danh vọng, quyền bính để làm gì, nếu sống mà không có lý tưởng
và mục đích tuyệt đối để đeo đuổi, và bởi vì chỉ có cái đức mới theo con người
sau cái chết và thực sự lợi ích cho con người.
Ðây
cũng là ý nghĩa của trình thuật kể lại cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và người
thanh niên giàu có, như được ghi lại trong bài Tin Mừng hôm nay.
Trong
truyền thống Do Thái, của cải giàu sang là bằng chứng sự hiện diện và chúc lành
của Thiên Chúa, còn nghèo khổ là dấu chỉ xa cách Thiên Chúa và bị Ngài chúc dữ.
Chúa Giêsu sửa sai quan niệm duy vật đó của người Do Thái, bằng cách đảo lộn bậc
thang giá trị của tâm thức trần gian. Thánh Matthêu và Luca trình bày điều đó
qua Hiến Chương Tám Mối Phúc Thật, còn thánh Marcô thì lồng khung nó trong con
đường của Chúa Giêsu tiến về thập giá và Núi Sọ, trên con đường ấy thái độ sống
đúng đắn nhất, đó là tín thác trọn vẹn nơi Thiên Chúa và Lời Ngài.
Qua
cuộc đối thoại với người thanh niên giàu có, Chúa Giêsu cho thấy việc tuân giữ
lề luật mà thôi không bảo đảm cho ơn cứu rỗi của con người. Muốn được cứu rỗi,
phải chia sẻ của cải cho người nghèo khó để được phần trên trời và bước theo
Chúa Giêsu. Nói khác đi, đối với Chúa Giêsu, việc tuân giữ luật lệ không đủ để
được ơn cứu rỗi; muốn được ơn cứu rỗi, cần phải sống tin yêu, phó thác hoàn
toàn vào Thiên Chúa, nghĩa là có được kho tàng trên trời, và yêu thương tha
nhân bằng cách cho đi những gì mình có, dù đó là của cải vật chất hay tinh thần.
Chúa
Giêsu không dạy chúng ta khinh thường của cải trần gian, nhưng Ngài chỉ khuyến
cáo chúng ta rằng của cải trần gian có thể là một chướng ngại trầm trọng cho ơn
cứu rỗi. Khi nó không được dùng để phục vụ tha nhân, thì của cải có thể trở
thành dụng cụ của ích kỷ, nguồn gốc của bất chính hoặc phô trương lừa gạt. Của
cải có thể trở thành sự dữ, khi nó khép kín con tim và tâm trí chúng ta trong
ngục tù của ích kỷ và hưởng thụ, khi nó ngăn cản chúng ta sống yêu thương và quảng
đại, khi nó không cho chúng ta sống hoàn toàn tự do khỏi mọi tù ngục trói buộc
con người.
Lời
mời gọi của Chúa Giêsu: hãy bán của cải, chia cho người nghèo, rồi đi theo
Ngài, là một lời mời gọi cách mạng, có sức biến đổi tấm lòng và cuộc đời cũng
như có sức biến đổi thế giới. Theo Chúa Giêsu là có can đảm từ bỏ tất cả: từ bỏ
tội lỗi, từ bỏ kiểu cách sống trái với Tin Mừng yêu thương, từ bỏ tâm thức hẹp
hòi ích kỷ, từ bỏ những người thân thương và từ bỏ chính mạng sống của mình nữa.
Nhưng tất cả những từ bỏ ấy chỉ có ý nghĩa khi chúng ta chọn Chúa Giêsu và tiến
bước theo Ngài. Và đó chính là sự khôn ngoan đích thực của chúng ta.
Veritas Asia
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Hai Tuần 8 TN1,
Năm Lẻ
Bài đọc: Sir
17:20-24; Mk 10:17-27.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Hãy làm việc lành
phúc đức để giúp đỡ mọi người.
Hầu
như niềm tin của tất cả các tôn giáo lớn đều dạy “ở hiền gặp lành và ở ác gặp
ác.” Giáo thuyết của Phật Giáo dạy: “Dù xây chín bậc phù đồ, không bằng làm
phúc giúp cho một người,” có nghĩa việc giúp cho một người quan trọng hơn là việc
xây tháp chín tầng để kính nhớ Phật. Trong Kitô Giáo, Đức Giêsu đã cho chúng ta
biết trước tiêu chuẩn Ngài sẽ dùng để phán xét trong Ngày Tận Thế: “việc gì anh
em làm cho một trong những kẻ bé mọn nhất là làm cho Ta.”
Các
bài đọc hôm nay tập trung trong sự quan trọng của việc làm phúc. Trong bài đọc
I, tác giả sách Huấn Ca dẫn chứng cho chúng ta lý do phải làm lành lánh dữ là
vì Thiên Chúa nhìn thấy tất cả. Ngài ghi nhớ tất cả những việc lành chúng ta
làm và thưởng công xứng đáng. Trong Phúc Âm, khi một người chạy đến hỏi Chúa
Giêsu về con đường nên trọn lành, Ngài bảo anh hãy về bán tài sản để giúp đỡ
người nghèo, rồi trở lại theo Ngài. Khi làm như thế là anh sắm cho mình một kho
tàng trên trời; nhưng anh buồn rầu bỏ đi vì quá tiếc của.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I:
Việc từ thiện ai làm thì tựa như dấu ấn đối với Người.
1.1/
Thiên Chúa nhìn thấy tất cả những gì con người làm: Người Việt-nam
chúng ta tin “trời cao có mắt.” Tác giả sách Huấn Ca tin không một điều gì con
người làm mà Thiên Chúa không biết: “Những điều bất chính chúng làm không giấu
Người được, mọi tội lỗi chúng phạm đều lộ ra trước mặt Đức Chúa. Việc từ thiện
ai làm thì tựa như dấu ấn đối với Người, ân đức của người ta, Người giữ mãi như
con ngươi trong mắt.” Nếu một người tin Thiên Chúa hay Ông Trời nhìn thấy mọi sự,
họ phải cố gắng làm điều lành, tránh điều dữ; nếu không họ sẽ phải trả giá cho
những điều bất chính họ làm, vì “ác giả, ác báo.”
1.2/
Thiên Chúa sẽ ân thưởng xứng đáng những ai làm phúc: Truyền thống các
tôn giáo lớn đều tin “ở hiền gặp lành.” Cho dù những tôn giáo không tin có cuộc
sống đời sau, họ vẫn tin ông Trời sẽ phù hộ cho những ai mạnh tay làm phúc cho
người nghèo khổ. Họ sẽ được chúc lành, làm ăn nên, con đàn cháu đống, và sống
lâu trăm tuổi. Tác giả sách Huấn Ca cũng dạy sự ban thưởng của Thiên Chúa cho
những người giúp kẻ hoạn nạn: “Cuối cùng, Người sẽ đứng lên và ban thưởng, và
phần thưởng ấy, Người sẽ đặt trên đầu chúng.” Không những thế, truyền thống
Do-thái còn tin ai làm việc lành, sẽ đền bù tội lỗi của mình: “ai sám hối thì
Người ban cho ơn trở về, và những kẻ sờn lòng nản chí, Người cũng sẽ ủi an.”
2/
Phúc Âm:
Hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời.
2.1/
Tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp? Bối cảnh quan trọng
của cuộc đàm thoại giữa Chúa Giêsu với chàng thanh niên và các môn đệ là “phải
làm gì để đạt được cuộc sống đời đời.” Anh thanh niên đã tin có cuộc sống đời đời
và anh muốn biết cách làm sao để đạt được cuộc sống này. Sau khi đã hỏi anh về
những giới răn quan trọng, nhưng không đòi nhiều cố gắng lắm để vượt qua, Chúa
Giêsu đi vào điểm then chốt. Người bảo anh ta: "Anh chỉ thiếu có một điều,
là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên
trời. Rồi hãy đến theo tôi." Chúa Giêsu đòi anh phải lựa chọn một trong
hai: cuộc sống đời đời hay cuộc sống đời này. Nghe lời đó, anh ta sa sầm nét mặt
và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải. Anh muốn bắt cá hai tay: được cả
đời này và đời sau.
2.2/
Người giàu có khó vào Nước Thiên Chúa. Sau khi người giàu có bỏ đi, Đức Giêsu rảo mắt nhìn
chung quanh, rồi nói với các môn đệ: "Những người có của thì khó vào Nước
Thiên Chúa biết bao!" Nghe Người nói thế, các môn đệ sững sờ. Nhưng Người
lại tiếp: "Các con ơi, vào được Nước Thiên Chúa thật khó biết bao! Con lạc
đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa."
Trước
tiên, chúng ta cần làm sáng tỏ vấn đề: Chúa Giêsu không kết tội người giàu.
Ngài không bảo người giàu có không thể vào Nước Thiên Chúa; nhưng Ngài bảo
"những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao!" Tại sao
giàu có làm cho con người khó vào Nước Thiên Chúa? Chúng ta có thể liệt kê 3 lý
do chính sau đây:
(1)
Giàu có làm con người quên đi mục đích cuộc đời, để rồi chỉ biết tập trung mọi thời
gian và cố gắng để thu quét của cải và hưởng thụ.
(2)
Giàu có làm con người chỉ biết đánh giá trị mọi sự trên đồng tiền, và bỏ quên tập
luyện những giá trị tinh thần hay vĩnh cửu. Ví dụ, họ chỉ dành thời giờ cho những
việc mang lại lợi nhuận vật chất, mà không chịu bỏ thời giờ học Kinh Thánh để
biết về Thiên Chúa và những lời dạy dỗ khôn ngoan của Ngài.
(3)
Giàu có làm con người kiêu căng, phách lối, và khinh thường người khác. Họ quên
đi rằng “Ở đời muôn sự của chung.” Mọi người đều có quyền hưởng của cải Thiên
Chúa ban như một phương tiện để sinh sống khi còn ở đời này. Họ không có quyền
tích trữ của cải trong khi tha nhân đói khát, chứ chưa nói việc đánh cắp công
ơn Thiên Chúa và khinh thường tha nhân.
2.3/
Tại sao các môn đệ sững sờ và sửng sốt? Hai lần trong trình thuật đề cập tới thái độ ngạc
nhiên của các môn đệ về những lời giảng dạy của Chúa Giêsu, và các ông hỏi
nhau: “Thế thì ai có thể được cứu?”
Lý
do các ông ngạc nhiên vì truyền thống Do-thái tin giàu có là dấu hiệu Thiên
Chúa chúc phúc cho những người biết kính sợ Thiên Chúa và ăn ở ngay lành, cùng
với các ơn lành khác như con đàn cháu đống và sống lâu trăm tuổi. Nếu sự thịnh
vượng là dấu hiệu của mối liên hệ tốt đẹp giữa con người với Thiên Chúa, tại
sao Chúa Giêsu lại đảo ngược niềm tin truyền thống? Chúa Giêsu chắc chắn không
nói tới việc giàu có do Thiên Chúa chúc lành, Ngài muốn nói tới việc con người
tự vơ vét làm giàu, mà không cần biết có công bằng hay không. Ngài cũng muốn đề
cập đến việc con người không biết quản lý các tài sản mà Thiên Chúa đã trao phó
cho họ.
Vì
thế, con người sẽ bị Thiên Chúa phán xét về cách thâu nhận tài sản, công bằng
hay bất công, và cách tiêu xài của cải, đúng hay không đúng. Vì con người chỉ
là quản lý chứ không phải chủ nhân của tài sản, Thiên Chúa là chủ nhân của tài
sản. Người càng giàu sẽ bị Thiên Chúa phán xét càng nhiều. Nếu họ không biết
cách tiêu xài, sự giàu có sẽ sinh thiệt hại cho họ nhiều hơn làm lợi ích.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Chúng ta hãy cố gắng làm việc lành nhiều để đền bù tội lỗi của mình, vì đó là
cơ hội Thiên Chúa ban và Ngài kể là làm cho chính Ngài.
-
Chúng ta cần xác tín vào sự quan phòng của Thiên Chúa, để rồi đừng mặc sức vơ
vét của cải cho mình và cho gia đình. Hãy bằng lòng với những gì Thiên Chúa
trao ban và học biết cách xử dụng để sinh lời cho Thiên Chúa.
-
Hãy biết dành thời giờ để chú trọng vào những giá trị cao hơn vật chất: sự hiểu
biết và lòng yêu mến Thiên Chúa, sự sống vĩnh cửu, và việc rao giảng Tin Mừng.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
25/05/15 THỨ HAI TUẦN 8 TN
Mc 10,17-27
Mc 10,17-27
Suy niệm: Sống,
phải có mục đích! Muốn mục đích thì phải muốn phương thế. Và vì thế, câu hỏi
tất yếu tiếp theo là: “Tôi phải làm gì để đạt được nó tốt nhất, nhanh nhất?”
Người thanh niên trong Tin Mừng đã rất đúng đắn khi đặt mục đích tối hậu của
mình là sự sống đời đời và đã hỏi Chúa để biết phải làm gì để đạt được mục đích
ấy. Nhưng khi Chúa cho biết phương thế: “Anh chỉ còn thiếu một điều là
đem bán hết tài sản mình để cho người nghèo… Rồi hãy đến theo tôi,” anh đã buồn bã bỏ đi. Anh muốn mục đích nhưng
đã không dám trả giá, không dám hy sinh từ bỏ để đạt mục đích.
Mời Bạn: Bạn quan tâm điều gì nhất trong cuộc sống và
cho cuoc sống hôm nay? “Sự sống đời đời” có là gia nghiệp của bạn không, hay
chỉ là mục tiêu thứ yếu? Thế nhưng chướng ngại lớn nhất của chúng ta lại là bản
năng “tham, sân, si” khiến chúng ta không dám thực hiện phương thế mà Chúa đề
ra.
Chia sẻ: Đức
Giê-su nói ai từ bỏ mọi sự vì Ngài và vì Tin Mừng “sẽ được gấp trăm ngay ở đời này” và sự sống vĩnh cửu đời sau. Bạn có cảm nghiệm
gì về lời đó không?
Sống Lời Chúa: Thường
xuyên thực hành những hy sinh hãm mình nho nhỏ mỗi ngày để luôn sẵn sàng đáp
lại tiếng Chúa trong những việc lớn lao hơn.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, xin củng cố và ban thêm đức tin cho chúng con, để
chúng con luôn tin tưởng vào sự quan phòng của Chúa và quảng đại sống Đức
Ái với mọi người, đặc biệt những người nghèo chung quanh con.
Tôi phải làm gì?
Lòng gắn bó với của cải đã
là một trở ngại khiến anh mất tự do. Không phải vì anh chiếm hữu nhiều của cải,
nhưng thực ra, vì của cải đã chiếm hữu anh.
Suy niệm:
“Thưa Thầy nhân lành, tôi
phải làm gì để được sự sống đời đời?”
Một anh thanh niên vội vã
chạy đến, quỳ trước mặt Đức Giêsu
và hỏi Ngài như thế khi Ngài
vừa lên đường.
Rõ ràng anh đang háo hức và
thao thức
tìm kiếm một lối sống phù
hợp ở đời này,
để nhờ đó được hưởng hạnh
phúc vững bền mãi mãi.
Anh đã đến với Thầy Giêsu
tốt lành để hỏi câu hỏi này,
và anh thực sự chờ nơi Thầy
câu trả lời.
Thầy nhắc anh về những giới
răn liên quan đến tha nhân.
Đây là những điều anh đã
biết, và hơn nữa,
anh thú nhận mình đã giữ
chúng từ khi còn nhỏ (c. 20).
Thầy Giêsu như bị cuốn hút
bởi con người đạo đức của anh.
Đưa mắt nhìn anh, Thầy đem
lòng yêu mến (c. 21).
Đúng là anh đã không làm hại
gì đến tha nhân.
Nhưng anh còn thiếu một điều
quan trọng, đó là:
Đi. Bán những gì mình có.
Cho người nghèo.
Rồi đến. Và theo Thầy Giêsu.
Thầy mời anh đi một vòng,
rồi trở lại.
Lúc trở lại với Thầy, anh sẽ
nhẹ hơn nhiều,
vì mọi của cải đã được phân
phát cho người nghèo khó.
Thầy Giêsu muốn anh trở nên
môn đệ của mình,
sau khi đã trở nên tay
trắng, không còn gì để nương tựa.
Anh thanh niên sẽ có kho
tàng trên trời,
khi anh được giải phóng khỏi
kho tàng của anh dưới đất.
Tiếc thay anh đã từ chối lời
mời của vị Thầy có lòng mến anh,
và đã chỉ cho anh điều phải
làm.
Lúc nãy anh chạy đến với
Thầy, bây giờ anh lại bỏ đi (c. 22).
Lúc nãy anh háo hức, vui
tươi, bây giờ anh sa sầm nét mặt.
Anh không ngờ Thầy lại đòi
hỏi tận căn đến thế.
Anh mong sự sống vĩnh cửu,
anh thích làm môn đệ Thầy Giêsu,
nhưng anh lại không muốn bỏ
chỗ dựa là của cải đời này.
Lòng gắn bó với của cải đã
là một trở ngại khiến anh mất tự do.
Không phải vì anh chiếm hữu
nhiều của cải,
nhưng thực ra, vì của cải đã
chiếm hữu anh.
Thầy Giêsu chắc còn buồn hơn
anh thanh niên,
vì Thầy bị mất một người mà
Thầy ưng gọi làm môn đệ.
Đến bao giờ anh thanh niên
mới nguôi ngoai nỗi buồn?
Lời mời của Thầy tốt lành
vẫn đeo đuổi tâm trí anh.
Anh vẫn suốt đời thiếu một
điều.
Khi về nhà, khi tiếp xúc với
của cải dư dật,
có khi nào anh lại thao thức
đặt câu hỏi:
Tôi phải làm gì để được thừa
hưởng sự sống đời đời?
Có khi nào anh nghĩ đến
chuyện chia sẻ cho người nghèo?
Có khi nào anh lại muốn đến
với Thầy Giêsu?
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
giàu sang, danh vọng, khoái
lạc
là những điều hấp dẫn chúng
con.
Chúng trói buộc chúng con
và không cho chúng con tự do
ngước lên cao
để sống cho những giá trị
tốt đẹp hơn.
Xin giải phóng chúng con
khỏi sự mê hoặc của kho tàng
dưới đất,
nhờ cảm nghiệm được phần nào
sự phong phú của kho tàng
trên trời.
Ước gì chúng con mau mắn và vui tươi
bán tất cả những gì chúng
con có,
để mua được viên ngọc quý là
Nước Trời.
Và ước gì chúng con không bao giờ quay lưng
trước những lời mời gọi của Chúa,
không bao giờ ngoảnh mặt
để tránh cái nhìn yêu thương
Chúa dành cho từng người
trong chúng con. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
25
THÁNG NĂM
Giấc
Mơ Xa Vời Bỗng Thành Hiện Thực
Kể
từ ngày Lễ Hiện Xuống, cuộc giao hòa của tất cả các dân tộc trong Thiên Chúa
không còn là một giấc mơ xa xăm nữa. Cuộc giao hòa ấy đã trở thành hiện thực –
và mở rộng không ngừng theo nhịp lan rộng của Giáo Hội mang trong mình Tin Mừng
cứu độ. Chúa Thánh Thần, Đấng là Thần Khí tình yêu và hiệp nhất, hiện thực hóa
mục tiêu của cuộc hiến thân cứu chuộc của Đức Kitô – bằng cách qui tụ con cái
Thiên Chúa đang tản mác về một mối.
Khi
Thánh Thần hiệp nhất mọi người trở thành Dân Thiên Chúa, có hai điều quan trọng
được ghi nhận rõ ràng. Bằng cách dẫn đưa người ta gắn kết với Đức Kitô, Thánh
Thần đem họ vào trong mối hiệp nhất của Giáo Hội là Thân Mình Đức Kitô. Như vậy,
Thánh Thần giao hòa con người với nhau trong tình huynh đệ – dù giữa họ có những
nét khác biệt về địa dư và về văn hóa. Nói cách khác, Thánh Thần làm cho Giáo Hội
trở thành một nguồn hiệp nhất và hòa giải. Hơn nữa, Chúa Thánh Thần hòa giải cả
những người bên ngoài Giáo Hội – bằng một cách nào đó. Ngài khơi lên trong mọi
người niềm khát vọng hiệp nhất sâu rộng hơn và Ngài thúc đẩy những cố gắng của
người ta để họ vượt qua những mối xung đột ngổn ngang vẫn còn phân rẽ thế giới.
-
suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm.
Lê Công Đức dịch
từ nguyên tác
LIFT
UP YOUR HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia
Đình
NGÀY
25 - 5
Thánh
Bêđa Khả kính, linh mục, tiến sĩ Hôi Thánh
Thánh
Grêgôriô VII, giáo hoàng,
Thánh
Maria Mađaleena Pazzi trinh nữ
Hc
17, 2429; Mc 10, 17-27.
LỜI
SUY NIỆM: “Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được
sống đời đời làm gia nghiệp”.
Đây
là khát vọng của mọi con người; bởi con người cảm thấy kiếp người chóng qua, và
những thành quả trong cuộc sống rồi cũng theo thời gian bị lãng quên, có khi
không con ai nhắc đến. Người thanh niên này, nhận thấy nơi Chúa Giêsu là Đấng
Nhân lành với đầy quyền năng. Anh ta đã mạnh dạng đến trước mặt Chúa Giêsu, xin
Người chỉ dạy cho biết điều để được sự sống đời đời làm gia nghiệp. Chúa Giêsu
thương anh ta và đã chỉ cho anh ta một việc cần có, đó là: “Hãy đi bán những gì
anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho báu trên trời. Rồi hãy đến theo
tôi” Đề nghị của Chúa Giêsu đã làm anh buồn, vì anh có quá nhiều của cải, và
anh đã không thực hiện được.
Lạy
Chúa Giêsu, bác ái trên môi, kêu gọi người ta làm việc thiện rất dễ; nhưng khi
đụng đến túi tiền và quyền lợi của riêng mình thì đầy tính toán, rồi không thực
hiện. Xin Chúa ban cho mọi thành viên trong gia đình chúng con, được ơn yêu mến
Chúa qua người nghèo, để giúp chúng con làm việc bác ái vì yêu kính Chúa.
Mạnh
Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày
25-05: Thánh BÊ-ĐA Đáng Kính
Linh
mục, Tiến Sĩ Hội Thánh (673 - 735)
Chính
thánh Beđa kể cho chúng ta biết mọi điều về cuộc đời thơ ấu của Ngài. Trong vài
câu thêm vào cuốn lịch sử Giáo hội, thánh nhân sinh năm 673 hay là 674. Tên
Bêđa theo từ ngữ Saxon có nghĩa là cầu nguyện. Cuộc sống của Ngài rất gương mẫu
nên người ta thêm cho Ngài biệt danh Vênêrabilê có nghĩa là khả kính. Lên bảy
tuổi Ngài bị mồ côi cha mẹ và được giao phó cho tu viện trưởng Bênêdictô Biscop
săn sóc giáo dục. Lúc 18 tuổi Ngài được thụ phong chức phó tế và năm 702 hay 703
tức là lúc 29 tuổi Ngài được thụ phong linh mục.
Cuộc
sống của Ngài trong tu viện rất cực nhọc. Chúng ta có thể tóm lược cuộc sống ấy
bằng chính lời Ngài: - "Tôi đã sống trọn đời nỗ lực học hỏi kinh thánh và
trong khi tuân thủ luật dòng cũng như bổn phận hàng ngày và hát thánh ca tại
nhà thờ, tôi sung sứơng được học hành, dạy dỗ và viết lách".
Đây
quả là tổng hợp chính xác trọn cuộc sống của thánh Bêđa, Ngài rất ít rời bỏ nhà
dòng. Chúng ta chỉ nghe biết có hai chuyện du hành của Ngài. Một lần Ngài đi thu
tập tài liệu về đời thánh Cuthbert, Ngài ở lại Lindisfanne và từ đó đến viếng
Farne Islanol để khảo sát những di tích trong căn phòng của vị thánh. Một lần
khác, Ngài đến York để thăm Đức tổng giám mục Egbert, và để quan sát các trường
học nổi tiếng ở đó.
Dạy
học, thánh Bêna tỏ ra là một bậc thầy lỗi lac. Ngài không quan tâm suy tư và ao
ước được nổi bật. Tài năng của Ngài là cố gắng không cùng để tự đào luyện mình
rồi truyền thông không phải chỉ có những gì mình đã học mà còn cả cảm thức về
giá trị của điều đã được hiểu biết, đặt tầm quan trọng của việc giảng dạy. Tuy
nhiên chúng ta không thể nói nhiều về điểm này. Nhưng các sách đủ loại Ngài viết
đều là kiểu mẫu trong việc trưng dẫn các tài liệu. Chính cách trình bày cẩn thận
và điều độ và gắng để được chính xác và đúng đắn làm cho các sách ấy có thế
giá. Các tác phẩm của thánh Bêda có thể xếp thành ba loại. Các bút tích về thần
học của Ngài chính yếu gồm những phần dẫn giải thánh kinh của một thầy dạy phần
lớn dựa trên các sách giáo phụ Tây phương. Dầu thiếu sự độc sáng trong cách
trình bày, nhưng những dẫn giải của thánh Bêda ngày nay còn là phương tiện tốt
đẹp nhất để hiểu về các giáo phụ.
Các
tác phẩm về khoa học của Ngài một phần là những giải thích cổ truyền về các hiện
tượng tự nhiên, một phần bàn về niên lịch và cách tính của Đông phương. Cách
tính niên lịch của Ngài kể từ thời Chúa Giêsu Giáng sinh đã được Kitô giáo Tây
phương chấp nhận rộng rãi hơn cả.
Các
tác phẩm về lịch sử của thánh nhân có lẽ ngày nay được nhớ tới nhiều hơn hết.
Cuốn "Lịch sử Giáo hội của dân Anh" là một trong những tác phẩm quan
trọng nhất về lịch sử về thời đầu Trung cổ. Ngài đã viết cách khách quan và phê
phán cách quân bình, dựa trên những tài liệu và nhân chứng đáng tin cậy, Ngài
cũng viết một tiểu sữ về các tu viện ở Wearmonth và thơ văn về cuộc đời thánh
Cuthbert.
Kể
từ năm 679, Ngài ở hai tu viện Wearmonth và Jarrow, chăm chú thi hành bổn phận
thuộc đời sống tu trì và vẫn không ngừng viết lách và dạy học. Lời kinh ở cuối
cuốn "Lịch sử Giáo hội" trình bày lý tưởng của Ngài: - "Lạy Chúa
Giêsu nhân từ, con khẩn cầu Chúa, khi đã cho con được vui hưởng những lời khôn
ngoan của Chúa thì xin Chúa cho con một ngày kia được đến gần bên thánh nhan
Chúa".
Đương
thời, không ai nghi ngờ sự thánh thiện của thánh nhân, nhưng Ngài đã không làm
một phép lạ, không được một thị kiến và không mở ra một đường lối tu đức mới mẻ
nào. Mùa hè năm 735 vào tuổi 63, sức khỏe suy giảm, Ngài còn bị đau khổ bị bệnh
suyễn. Dầu vậy, Ngài vẫn làm việc đến giây phút cuối cùng, đọc cho thầy thơ ký
hoàn tất cuốn sách Chú giải Phúc âm thánh Gioan và 48 giờ cuối cùng trên giường
bệnh. Đúng ngày lễ Thăng thiên 27 tháng 5 năm 735, thánh Beda từ trần.
*********************
Ngày 25-05: Thánh GRÊGORIÔ VII
Ngày 25-05: Thánh GRÊGORIÔ VII
Giáo
Hoàng (1028 - 1085)
Thánh
Gregoriô hay là Hildebrand theo tên rửa tội, sinh khoảng năm 1028. Gia đình
Ngài không thuộc dòng tộc quí phái và có thuộc gốc Do thái. Thấy con mình thông
minh lại hiếu học, thân phụ thánh nhân gởi Ngài tới thụ huấn với người chú là
Tu viện trưởng Đức Bà Maria ở Aventin, Hildebrand đã trở thành một tu sĩ dòng
Bênêdictô.
Tuy
nhiên khả năng đặc biệt của Ngài đã sớm kéo Ngài ra khỏi hàng rào tu viện để phục
vụ tại giáo triều. Khi đắc cử giáo hoàng, trên đường về nhận chức, Đức Leo IX
ghé qua Cluny và dẫn theo thày dòng trẻ tuổi Hildebrand để làm cố vấn cho mình.
Đức giáo hoàng đã trao cho Ngài điều khiển tu viện thánh Phaolô và đặt làm hồng
y. Đức giáo hoàng Leo IX là vị tiên khởi trong cuộc cải cách Grêgoriô, danh hiệu
dựa vào khuôn mặt sáng giá nhất cuộc cải cách này, nhưng chính đức Leo là người
khởi xướng.
Kể
từ việc đề cử của Đức Leo IX Hildebrand đã có ảnh hưởng lớn lao trong nhiều triều
đại liên tiếp. Khi được cử làm đặc sứ tại Pháp Đức Hồng y Hildebrand, đã chống
lại nhiều tập tục xấu. Trong hội đồng họp ở Tour, Ngài đã buộc Berenger từ bỏ
những lầm lạc của mình. Thế là chính Ngài đã giữ phần quyết định trong cuộc
tranh luận về bí tích Thánh Thể giữa Lanfranc và Berenger. Ngài ủng hộ giáo
thuyết về sự biến thể của Lanfranc nhưng cũng giảm bớt sức đối kháng để trình
bày cách mầu nhiệm hơn.
Dưới
ảnh hưởng của Đức hồng y Hildebrand, chức giáo hoàng ngày càng nghịch với hoàng
đế hơn. Một liên minh hình thành với nhiều nhà cai trị ở miền nam nước Ý chống
lại các Hoàng đế nhà Hohenstanen. Đức giáo hoàng nâng đỡ phong trào quần chúng
chống lại hoàng đế ở Milanô nhưng tâm điểm đường lối chính trị của tòa thánh được
diễn tả trong việc chọn lựa Đức Giáo hoàng, dành riêng cho hồng y đoàn. Nói
cách khác, ảnh hưởng của hoàng để bị rút lại, nếu không nói là bị hủy bỏ. Năm
1073 dưới ảnh hưởng đã trở nên lớn mạnh, Đức Hồng y Hildebrand đắc cử giáo
hoàng với hiệu Gregoriô VII.
Tình
hình Giáo hội lúc này thật đáng buồn với nhiều thảm trạng đang diễn ra. Đích
thân giáo hoàng thấy rõ những điều đó, sống khắc khổ như một thày dòng, Ngài đã
sáng ngời như mặt trời chiếu dãi vào ngôi nhà Giáo hội. Đầy uy quyền trong lời
nói và việc làm, Ngài đã nỗ lực tái lập kỷ lục truyền bá đức tin, diệt trừ các
lỗi lầm. Nhất là Ngài được chống lại hoàng đế Henri IV nước Đức. Ông hoàng này
ham mê khoái lạc và tham lam, đã dám bán quyền giám mục và các chức vụ trong
Giáo hội cho những người bất xứng.
Năm
1075, Đức Gregoriô VII đã tuyên bố phạt mọi người ở bất cứ địa vị nào dám dùng
tiền để mua bán chức thánh. Với tình phụ tử, Ngài cảnh cáo hoàng đế Henri IV và
các lạm quyền của ông. Tức giận ông bắt cóc Đức Giáo hoàng đang khi Ngài làm lễ
và giam ngục. Nhưng rồi dưới áp lực của dân Roma, ông phải thả Ngài ra. Đức
giáo hoàng đã tha thứ cho ông. Tuy nhiên nhà vua vẫn ngoan cố. Năm 1076, ông
triệu tập một số giám mục rồi đặt Gnibert de Ravenna làm giáo hoàng. Đức
Gregoriô VII liền ra vạ tuyệt thông Henri IV. Hối hận và sợ các quan bất phục,
Henri IV lo giữ ngôi bằng cách đến Canossa làm việc đền tội.
Ngày
28 tháng giêng năm 1077, Đức giáo hoàng giải vạ cho ông.
Một
thời gian sau Henri IV lại trở mặt, ông cầm quân sang Roma để bắt Đức Giáo
hoàng. Nhưng Đức Gregoriô đã kịp thời rút lui về Sôlerna và qua đời tại đây năm
1085. Trước khi qua đời Ngài đã nói: - Ta yêu mến điều công chính và chê ghét sự
gian tà nên mới phải chết ở chốn lưu đày này.
Người
ta đã nói tới cuộc cải cách thời Gregoriô. Phải nhận đinh rằng ý tưởng của Ngài
rất cao thượng, Ngài quan niệm hàng giáo sĩ được đặt ra ngoài mọi người khác bởi
phép truyền chức thánh làm thành một cộng đoàn siêu nhiên ấn định bởi quyền ban
bí tích và được cai quản bởi đấng kế vị thánh Phêrô. Họ phải sống xứng đáng với
phận vụ thiêng liêng, Ngài nhiệt hành ủng hộ luật độc thân của giáo sĩ và chống
lại mọi thứ buôn thần bán thánh.
Ngài
cũng nỗ lực diệt trừ mọi can thiệp vào việc chọn giám mục, nhất là sự can thiệp
của hoàng đế. Dầu không thành công trong việc này, nhưng chắc chắn đã làm thay
đổi thái độ của mọi người đối với Giáo hội.
Sau
khi đã từ trần, lý tưởng canh tân Giáo hội của Ngài mới rõ rệt hơn, sắc bén hơn
và tiến gần tới hiện thực hơn.
*********************
Ngày 25-05: Thánh MARIA MADALENA ĐỆ PAZZI
Ngày 25-05: Thánh MARIA MADALENA ĐỆ PAZZI
(1566
- 1607)
Thánh
Maria Madalena Pazzi sinh năm 1566 tại Florence. Khi rửa tội Ngài được đặt tên
là Catarina. Ngay từ nhỏ, Ngài đã ham thích cầu nguyện và làm việc lành. Muốn
cho Ngài vui thích, cứ việc đọc cho Ngài nghe truyện các thánh hay là dẫn Ngài
tới nhà thờ.
Lên
7 tuổi lòng thương người của Ngài đã tiến xa tới độ nhịn ăn để giúp đỡ người
nghèo. Có dịp về miền quê, niềm vui chính của Ngài là tập họp trẻ em lại để dạy
giáo lý cho chúng. Một lần kia, khi mới bắt dầu dạy đạo cho một em bé con một
nông dân, thì Ngài phải báo cho biết là phải trở về Florence. Ngài đã buồn rầu
đến độ không cầm được nước mắt, Cha Ngài chỉ có thể an ủi Ngài bằng cách dẫn em
bé ấy về để dạy cho xong.
Thánh
nữ có lòng sùng kính phép Thánh thể một cách đặc biệt. Lên 10 tuổi, tức là năm
1576, Ngài được rước lễ lầ đầu. Dịp này, Ngài đã khấn dâng mình trọn vẹn cho
Chúa. Năm 13 tuổi Ngài còn tự ý làm một mão gai để đội đầu mỗi khi đi ngủ để cảm
thông với cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu Kitô.
Đến
16 tuổi, Catarina đã ao ước được gia nhập dòng Carmêlô. Sau một thời gian luỡng
lự, cuối cùng cha mẹ Ngài đã chấp nhận, Catarina vào dòng ngày 14 tháng 8 năm
1582 và ngay 30 tháng giêng năm 1583, được mặc áo dòng với danh hiệu Maria
Madalena. Cuộc đời Ngài là một phép lạ liên tục. Một cơn bệnh xâu xé Ngài. Có nữ
tu hỏi thánh nữ xem bí mật nào đã giúp Ngài nhẫn nại chịu đựng như vậy, chỉ vào
cây thánh giá Ngài trả lời: - Hãy xem điều Chúa Giêsu đã làm để cứu chuộc tôi.
Những ai nhớ tới những đau khổ của Chúa Giêsu và dâng những đau khổ của mình
lên Thiên Chúa, họ chỉ còn thấy êm ái đối với những gì mình phải chịu mà thôi.
Đau
đớn vì bệnh hoạn, thánh nữ lại hay xuất thần. Những yếu tố ấy đều góp phần xây
dựng đời sống thánh thiện của Ngài. Dù suốt năm năm liền kể từ tháng 6 năm
1585, Ngài đã phải trải qua một cuộc thử thách dữ dằn, Thiên Chúa cho Ngài thấy
sự dữ đang diễn ra trong Giáo hội, những xúc phạm do hàng giáo sĩ và do các
giám mục gây nên. Các tu sĩ trong cộng đoàn vấp phạm vì những khuyến cáo Ngài
trình lên Đức gíao hoàng và các đức giám mục để thực hiện cuộc canh tân. Sự
nghi ngờ của họ trở thành sự khinh bỉ, khi thánh nữ chịu cơn thử thách khủng
khiếp này, là thấy mình bị Thiên Chúa bỏ rơi. Thêm vào đó, Ngài còn bị cám dỗ
trở nên kiêu căng thất vọng.
Dầu
vậy, ý chí của Ngài bám chặt vào Chúa không ngơi, Ngài chỉ còn biết rên rỉ: -
Tôi không hiểu mình có còn trí khôn nữa không. Tôi không thấy mình còn có gì
đáng kể ngoài một chút thiện chí là không bao giờ dám xúc phạm đến Thiên Chúa.
Nhưng
nhìn lên thánh giá Ngài thêm phấn khởi: - Đừng chết, nhưng chớ gì được chịu đau
khổ mãi.
Bị
cám dỗ quá, Ngài gieo mình vào bụi gai, bình thường Ngài hãm mình kinh khủng và
thường mặc áo nhặm.
Năm
năm bão tố trôi qua nhằm lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống trong khi hát kinh tạ
ơn, Maria Madalena đã bỗng xuất thần và thưa với bề trên trong niềm vui mừng: -
Bão tố qua rồi, xin hãy giúp con cảm tạ Chúa tạo thành khả ái.
Từ
đây Ngài chỉ còn ước muốn vô cùng là được làm việc để tôn vinh Chúa và mưu ích
cho các linh hồn. Ngài luôn tìm kết hiệp với thánh ý Chúa. Thánh Thần đọc cho
Ngài những ý tưởng thâm sâu và hai chị thơ ký đã ghi thành một pho sách được
các người nhân đức và thông thái ở Ý chuẩn nhận.
Với
nhiệt tình, Ngài đã nguyện hy sinh không muốn biết đến một sự dịu ngọt nào nữa.
Khi làm phó bề trên, Ngài bị tật bệnh dày vò lại còn mất ơn an ủi, cha linh hướng
tìm cách an ủi, nhưng Ngài nói: - Không, đó không phải là thứ an ủi con tìm kiếm.
Con chỉ ước mong được đau khổ đến lúc cuối đời. Khi sắp từ trần thánh nữ nói:
-
Tôi sắp từ giã mà không hiểu tại sao một thụ tạo lại quyết tâm phạm tội chống lại
Chúa tạo thành được.
Với
các nữ tu vây quanh, Ngài nói những lời sau cùng: - Tôi sắp từ giã các chị để
đi vào vĩnh cửu, tôi xin các chị như là một ân huệ cuối cùng là chỉ yêu mến một
mình Chúa, đăt trọn niềm hy vọng nơi Ngài và chịu đựng tất cả vì tình yêu Ngài.
Thánh
nữ từ trần ngày 25 tháng 5 năm 1607. Thân xác Ngài vẫn còn nguyên vẹn cho tới
ngày nay.
(daminhvn.net)
25
Tháng Năm
Cái Bật Lửa
Ðể
kỷ niệm một trận chiến, một quận công bên Anh Quốc đã làm một bữa tiệc khoản
đãi một nhóm cựu sĩ quan đã từng chiến đấu sát cánh bên ông.
Tong
bữa tiệc, ông dem kho một cái bật lửa rất đẹp mà Nữ hoàng Anh đã tặng cho ông.
Cái bật lửa đã được truyền từ tay người này đến tay người nọ để được trầm trồ
khen ngợi.
Sau
bữa ăn, mọi người được mời ra phòng khách để uống trà. Ông quận công mới đem
thuốc lá ra mời mọi người. Nhưng mặt ông bỗng biến sắc, vì ông lục lạo mãi
trong túi áo mà vẫn không tìm ra cái bật lửa. Ông hỏi quan khách có ai thấy nó ở
đâu không. Mọi người chia nhau đi tìm khắp nơi mà tuyệt nhiên vẫn không thấy
cái bật lửa. Lúc bấy giờ, một viên sĩ quan mới đề nghị cho tất cả mọi quan
khách nên lật túi áo của mình ra may ra mới có thể tìm thấy nó chăng. Lần lượt
tất cả mọi người đều kéo tất cả những gì có trong túi áo của mình ra. Duy chỉ
có một người không chịu chấp nhận công việc này. Mọi người đều đưa mắt nhìn về
ông và ai cũng đoán chắc đây là người đã đánh cắp cái bật lửa, bởi vì dáng vẻ của
ông tiều tụy, áo quần của ông lại rách rưới. Ông lấy danh dự của một cựu sĩ
quan để thề thốt và dứt khóat không mở túi áo ra cho mọi người xem.
Vài
tuần lễ sau, ông quận công lại mở một bữa tiệc khác và lần này, ông khám phá ra
cái bật lửa trong túi áo của ông. Cảm thấy xấu hổ vì đã nghi oan cho một viên
sĩ quan đã từng chiến đấu bên cạnh mình, ông quận công đã quyết định đến thăm
anh ta để xin lỗi.
Nhà
của viên cựu sĩ quan này nằm trong khu phố lầy lội nghèo nàn. Sau khi đã xin lỗi,
ông quận công đã hỏi viên sĩ quan: "Tại sao trong bữa tiệc hôm đó, anh đã
khước từ không mở túi ra cho mọi người xem?".
Anh
ta mới giải thích như sau: "Hẳn ngài đã thấy được căn nhà tôi đang ở tồi
tàn như thế nào. Từ lâu, tôi đã thất nghiệp mà vẫn phải nuôi nhiều miệng ăn
trong nhà. Ngài đâu có biết rằng hôm đó, tôi đã nhét vào túi tôi tất cả những đồ
ăn thừa trên bàn để mang về cho vợ con tôi".
Sau
khi hiểu được hoàn cảnh đáng thương của một người đã từng vào sinh ra tử với
mình, ông quận công quyết định đền bù bằng cách tìm cho viên cựu sĩ quan một
công việc xứng đáng.
Câu
chuyện đáng thương tâm trên đây có lẽ cũng diễn ra trong cuộc sống chúng ta dưới
nhiều cấp độ và hình thức khác nhau. Nhưng tựu trung, có lẽ mẫu số chung của
câu chuyện ấy thường giống nhau: đó là chúng dễ nhìn và đoán xét người theo bề
ngoài. Lại nữa, một xã hội có quá nhiều lừa gạt đảo điên cũng khiến cho chúng
ta có thái độ e dè, nghi kỵ đối với những người thân thuộc.
Là
tín hữu, chúng ta hãy nhìn ngắm cung cách cư xử của Chúa Giêsu. Ngài không nhìn
người bằng nhãn hiệu có sẵn. Ngài không đến với người bằng những định kiến. Bên
kia bộ quần áo sang trọng hay rách rưới, Chúa Giêsu chỉ nhìn thấy hình ảnh cao
quý của chính Thiên Chúa. Ngài dành yêu thương cho những người nghèo khổ, phường
thu thuế, bọn gái điếm, những kẻ tội lỗi, những ngwòi con bị xã hội đẩy ra bên
lề. Ngài muốn cho mọi người thấy rằng Ngài chỉ có một cái nhìn duy nhất về con
người: đó là cái nhìn của cảm thông, của tha thứ, của yêu thương.
(Lẽ
Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét