02/06/2015
Thứ Ba sau Chúa Nhật 9 Quanh Năm
Bài Ðọc I: (Năm I) Tob
2, 10-23
"Tuy
bị mù lòa, ông cũng không phiền trách Thiên Chúa".
Trích
sách Tobia.
Xảy
ra trong một ngày nọ, Tobia đi chôn xác mệt nhọc, trở về nhà, ông liền nằm ngủ
bên vách tường, thì phân nóng chim én từ tổ rơi xuống mắt ông, khiến ông bị mù.
Chúa
cho phép ông chịu thử thách như thế, để nêu gương nhẫn nại cho hậu thế như
thánh Gióp xưa.
Vì
từ lúc còn bé, ông có lòng kính sợ Thiên Chúa, và tuân giữ giới răn của Người,
tuy bị mù lòa, ông cũng không phiền trách Thiên Chúa.
Trái
lại, ông vẫn một lòng kính sợ Thiên Chúa, và tạ ơn Người hằng ngày trong đời
ông.
Vả
các vua xưa nhạo báng thánh Gióp thế nào, thì nay bà con họ hàng cũng chê cười
đời sống của ông mà rằng: "Hy vọng của ông ở đâu? Ông làm phúc và chôn xác
được ích gì?"
Nhưng
Tobia quở trách họ rằng: "Các ngươi đừng nói vậy, vì chúng ta là con cái
các thánh, chúng ta trông đợi cuộc sống mà Thiên Chúa sẽ ban cho những ai không
bao giờ thay đổi lòng tin vào Người".
Còn
bà vợ của ông là Anna, hằng ngày đi dệt vải, hễ kiếm được gì bởi tay mình làm
để nuôi thân, bà đem về, bởi đó, có lần bà nhận được một con dê đem về nhà; ông
ông chồng nghe tiếng dê be be, liền nói: "Coi chừng, kẻo lỡ phải của ăn
trộm đó. Hãy dắt đem trả cho chủ nó, vì chúng ta không được phép dùng đến của
ăn trộm".
Bà
vợ ông nổi giận trả lời rằng: "Rõ là niềm hy vọng của ông ra vô ích, và
kết quả việc bố thí của ông nay đã rõ ràng!"
Và
bà tiếp tục nói những lời như thế mà mạt sát ông.
Ðó
là Lời Chúa.
Ðáp Ca: TV. 111, 1-2,
7bc-8,9
Ðáp: Lòng người
công chính vững vàng trông cậy vào Chúa.
Xướng
1) Ph1uc đức thay người tôn sợ Chúa, người hết lòng hâm mộ luật pháp của Ngài.
Con cháu người sẽ hùng cường trong Ðất Nước: thiên hạ sẽ chúc phúc cho dòng dõi
hiền nhân. - Ðáp.
2)
Người không kinh hãi vì nghe tin buồn thảm, lòng người vững vàng, cậy trông vào
Chúa. Lòng người kiên nghị, người không kinh hãi, cho tới khi nhìn thấy kẻ thù
phải hổ ngươi. - Ðáp.
3)
Người ban phát và bố thí cho những kẻ nghèo, lòng quảng đại của người muôn đời
còn mãi, sừng người được ngẩng lên trong vinh quang. - Ðáp.
Alleluia: 1 Pr 1, 25
Alleluia,
alleluia! - Lời Chúa tồn tại muôn đời, đó là lời Tin Mừng đã rao giảng cho anh
em. - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 12, 13-17
"Các
ông hãy trả cho Cêsarê cái gì thuộc về Cêsarê, và trả cho Thiên Chúa cái gì
thuộc về Thiên Chúa".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi
ấy, người ta sai mấy người thuộc nhóm biệt phái và đảng Hêrôđê đến Chúa Giêsu
để lập mưu bắt lỗi Người trong lời nói. Họ đến thưa Người rằng: "Thưa
Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật không vị nể ai, vì Thầy chẳng xem
diện mạo, một giảng dạy đường lối Thiên Chúa cách rất ngay thẳng. Vậy chúng tôi
có nên nộp thuế cho Cêsarê không? Chúng tôi phải nộp hay là không?" Nhưng
Người biết họ giả hình, nên bảo rằng: "Sao các ông lại thử Ta? Hãy đưa Ta
xem một đồng tiền". Họ đưa cho Người một đồng tiền và Người hỏi:
"Hình và ký hiệu này là của ai?" Họ thưa: "Của Cêsarê".
Người liền bảo họ: "Vậy thì của Cêsarê, hãy trả cho Cêsarê; của Thiên
Chúa, hãy trả cho Thiên Chúa". Và họ rất đỗi kinh ngạc về Người.
Ðó
là lời Chúa.
Suy Niệm: Một qui luật
sống
Tin
Mừng hôm nay ghi lại một cuộc tranh luận khác giữa Chúa Giêsu và các vị lãnh
đạo Do thái. Ở đây, chúng ta lại thấy hai nhóm liên kết lại, kể từ khi họ bắt
hụt Chúa Giêsu khi Ngài rao giảng ở Capharnaum (3,6). Phái Hêrôđê ủng hộ Hêrôđê
Antipa, thủ hiến xứ Galilê thì dựa vào thế lực của Rôma, còn nhóm Biệt phái
cũng khá hòa hoãn với giới thống trị.
Thái
độ sống giả hình là thái độ của những kẻ đóng kịch, cố gắng làm sao cho người
khác thấy sự tốt nơi mình, mà thực ra mình không có. Những người Biệt phái và
những người thuộc phái Hêrôđê là những kẻ giả hình, bởi vì họ làm ra vẻ muốn
tìm biết sự thật, mà kỳ thực chỉ là để tìm dịp bắt bẻ Chúa. Họ đến với Chúa,
khen Ngài là người chân thật, cứ theo sự thật mà giảng dạy đường lối của Thiên
Chúa. Nhưng rất tiếc lời nói khéo léo của họ lại che đậy một thủ đoạn, một âm
mưu trả thù. Ðó là đường lối của con người, nhất là của hạng người vụ lợi, ích
kỷ, tham quyền.
Thật
thế, sau khi giả vờ khen Chúa, họ liền chất vấn Ngài: "Có được phép nộp
thuế cho César không?". Vấn đề xem ra đơn giản, nhưng thực ra là một cạm
bẫy. Theo họ, Chúa Giêsu là nhà cách mạng thuộc dòng tộc Ðavít, chắc hẳn Ngài
sẽ bảo họ không nộp thuế cho César, và thế là sa bẫy họ, lúc đó, họ sẽ có lý do
để bắt bớ, giải nộp và giết Ngài. Nhưng đối với Chúa Giêsu, cái bẫy của họ
không có gì là nan giải, vì khôn ngoan của loài người chỉ là dại khờ trước mặt
Thiên Chúa. Mặc dù biết rõ ý đồ của họ, Chúa Giêsu vẫn tỏ ra hết sức chân thật;
Ngài còn nhân cơ hội này để đưa ra một bài học: Ngài bảo họ cho xem đồng tiền
và sau khi được biết hình và dấu trên đồng tiền là của César, Ngài nói tiếp:
"Của César, trả về César; của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa". Nói khác
đi, một khi đã được hưởng nhờ ơn lộc của ai, thì phải đền ơn đúng nghĩa, họ đã
nhờ bổng lộc của César, thì có bổn phận đền đáp cho César; nhưng Chúa cũng nhắc
thêm bổn phận của con người đối với Thiên Chúa: con người đã nhận lãnh nhiều ơn
huệ của Thiên Chúa, nên cũng phải đền đáp ơn Ngài. Chúa Giêsu nhìn nhận vai trò
đúng đắn của của quyền bính trần thế: "Của César, trả về César",
nhưng Ngài thêm: "Của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa". Chúa nhắc nhở
rằng quyền bính trần thế không phải là quyền bính duy nhất trên con người, mà
còn có quyền bính của Thiên Chúa nữa. Có những điều con người phải trả cho
Thiên Chúa, vì con người đã được tạo dựng theo và giống hình ảnh Ngài; con
người mắc nợ Thiên Chúa sự sống, nên con người buộc phải dâng hiến mạng sống
cho Ngài và để Ngài chiếm chỗ ưu tiên trong cuộc sống của mình.
Xin
Chúa soi sáng để chúng ta biết phân biệt điều gì thuộc César, điều gì thuộc
Thiên Chúa, để chu toàn bổn phận đối với trần thế và đối với Thiên Chúa.
Veritas Asia
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Thứ Ba Tuần 9 TN1, Năm lẻ
Bài đọc: Tob 2:9-14; Mk
12:13-17.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Của ai trả về cho
người ấy.
Để
bảo vệ trật tự chung và sống an hòa với mọi người, mỗi người chúng ta đều phải
biết khả năng và giới hạn của mình; chẳng hạn, trong hệ thống điều khiển quốc
gia, đã có 3 ngành: luật pháp, hành pháp, và tư pháp. Mỗi ngành phải biết quyền
năng và giới hạn của mình để đừng dẫm chân lên nhau và gây xáo trộn trật tự.
Trong mối liên hệ giữa con người với Thiên Chúa cũng thế, con người phải biết
khả năng và giới hạn của mình, để đừng thử thách và can thiệp vào những chuyện
của Thiên Chúa.
Các
Bài Đọc hôm nay cho chúng ta vài ví dụ để nhận ra sự bất hòa, khi một người
vượt quá khả năng và giới hạn của mình. Trong Bài Đọc I, ông Tobit vượt quá
giới hạn của mình khi phán đoán vợ mua dê con của phường trộm cắp. Bà Anna, vợ
ông, cũng vượt quá giới hạn của mình khi thắc mắc về sự quan phòng của Thiên
Chúa, và sự "quá đạo đức" của chồng mình. Trong Phúc Âm, những người
thuộc phái Pharisees và phái Herode đã vượt quá khả năng của mình khi đặt câu
hỏi và gài bẫy Chúa: "Có nên nộp thuế cho Caesar hay không?"
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Tại sao làm việc
thiện mà vẫn gặp điều xấu?
1.1/
Ông Tobit bị mù khi ông mới hoàn tất 2 việc thiện: sai con đi mời
người nghèo về dùng bữa, và vừa mới chôn xác kẻ chết.
(1)
Truyền thống Do-thái và ngay cả Á-Đông đều tin: "Trời cao có mắt!" Ai
làm lành sẽ được Thiên Chúa thưởng; ai làm ác sẽ bị Thiên Chúa phạt. Trong thực
tế, việc đó không luôn luôn xảy ra vì nhiều khi kẻ dữ vẫn thịnh vượng; trong
khi người lành phải chịu đau khổ, như trường hợp của ông Tobit hôm nay; hay như
trong trường hợp của ông Job.
(2)
Những người không có niềm tin vững chắc sẽ nghi ngờ không biết có Thiên Chúa
hay không? Và nếu có, Thiên Chúa có quan tâm đến việc làm của họ không? Chính
Bà Anna đặt vấn đề với ông Tobit: "Các việc bố thí của ông ở đâu? Các việc
nghĩa của ông đâu cả rồi? Đó, ai cũng biết là ông được bù đắp như thế nào
rồi!" Hậu quả nếu không tìm được câu trả lời thích đáng: Con người dễ bị
nản chí để không tin và làm theo những gì Thiên Chúa đòi hỏi. Ngược lại, họ sẽ
làm những gì mà họ cho rằng đúng. Chúng ta phải chờ đến kết cuộc của Sách
Tobit, mới có thể hiểu lý do tại sao người lành phải chịu đau khổ.
1.2/
Hiểu lầm giữa hai vợ chồng: Bà Anna phải làm việc để có tiền chi tiêu trong gia đình. Bà
nhận làm những công việc dành cho phụ nữ. Chủ của Bà là người rộng lượng nên
"ngày mồng bảy tháng Dytro, nàng xén tấm vải đã dệt xong, rồi giao cho
chủ. Tiền công bao nhiêu, họ trả hết cho nàng, lại còn thưởng cho một con dê
con để ăn một bữa."
-
Ông Tobit đặt câu hỏi về sự hiện diện của con dê: "Con dê nhỏ đó ở đâu ra
vậy? Có phải của trộm cắp không? Đem trả lại cho chủ nó đi! Vì chúng ta không
có quyền ăn của trộm cắp."
-
Bà Anna bảo chồng: "Đó là quà người ta thưởng cho tôi, thêm vào số tiền
công!"
-
Ông Tobit không tin nàng và cứ bảo nàng phải trả lại cho chủ. Tại sao ông không
tin nàng?
+
Dê con là con vật đắt tiền bên Do-thái; nên ông nghĩ Bà có thể là mua lại của
trộm cắp.
+
Khi người khác cho quà, người nhận cẩn thận luôn tìm hiểu lý do tại sao; nhiều
khi "há miệng ăn rồi mắc nợ." Ông Tobit không muốn vợ mình nhận quà
của người lạ.
-
Bà Anna tức giận vì chồng ngoan cố không tin, nên nguyền rủa chồng: "Các
việc bố thí của ông ở đâu? Các việc nghĩa của ông đâu cả rồi? Đó, ai cũng biết
là ông được bù đắp như thế nào rồi!"
Cả
hai vợ chồng đều mắc lỗi trong biến cố này: Tobit mắc lỗi vì đã không tin và
phán đoán không tốt vợ mình. Bà Anna cảm thấy sự đạo đức của ông đi quá xa nên
đã nặng lời với ông và nghi ngờ sự quan phòng của Thiên Chúa.
2/ Phúc Âm: Của Caesar, trả về
Caesar; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa.
2.1/
Câu hỏi gài bẫy Chúa: Lỗi
lầm lớn nhất của con người là nghi ngờ và thử thách Chúa. Họ dùng những suy
nghĩ và cách hành xử của mình để so sánh và áp đặt trên Thiên Chúa. Nếu họ thấy
là tốt đẹp là điều hay, Thiên Chúa cũng phải cho như vậy; nếu họ nghĩ là chuyện
không thể làm được, Thiên Chúa cũng phải bó tay. Họ quên đi một điều mà tiên
tri Isaiah đã nhắc nhở: Tư tưởng và đường lối của các ngươi không phải là tư
tưởng và đường lối của Ta. Như trời cao hơn đất chừng nào, tư tưởng và đường
lối của Ta cũng cao hơn các ngươi như vậy.
Trình
thuật hôm nay cũng thế, họ cử mấy người Pharisees và mấy người thuộc phe Herode
đến thử Người để Người phải lỡ lời mà mắc bẫy. Họ hỏi người: "Thưa Thầy,
chúng tôi biết Thầy là người chân thật. Thầy chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ
bề ngoài mà đánh giá người ta, nhưng theo sự thật mà dạy đường lối của Thiên
Chúa. Vậy có được phép nộp thuế cho Caesar hay không? Chúng tôi phải nộp hay
không phải nộp?" Hai loại người họ gởi tới là hai cái bẫy để Ngài phải rơi
vào:
(1)
Người Pharisees là cái bẫy tôn giáo: Họ quan niệm không phải nộp thuế cho
Caesar, vì con người chỉ mắc nợ Thiên Chúa. Nếu Chúa Giêsu trả lời phải nộp
thuế, họ sẽ kết tội Ngài vào hùa với ngoại bang để bóc lột dân chúng.
(2)
Người thuộc phe Herode là cái bẫy chính trị: Nếu Chúa Giêsu trả lời không nộp
thuế, họ sẽ kết tội Ngài phản động chống lại Caesar
Họ
nghĩ là họ nắm chắc phần thắng, vì Chúa chỉ có thể trả lời hoặc có hoặc không.
Chúa trả lời có hay không, họ đều có lý do để buộc tội Ngài.
2.2/
Câu trả lời khôn ngoan của Chúa Giêsu: Nhưng Đức Giêsu biết họ giả hình, nên Người nói:
"Tại sao các người lại thử tôi? Đem một đồng bạc cho tôi xem!" Họ
liền đưa cho Người. Người hỏi: "Hình và danh hiệu này là của ai đây?"
Họ đáp: "Của Caesar." Đức Giêsu bảo họ: "Của Caesar, trả về
Caesar; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa."
(1)
Phản ứng của những kẻ gài bẫy: "Họ hết sức ngạc nhiên về Người."
Trước tiên, họ không ngờ Ngài có thể thoát bẫy họ giăng một cách dễ dàng như
thế.
(2)
Ý nghĩa câu trả lời của Chúa Giêsu: Chúa nhắc khéo cho những người Pharisees
đừng giả hình, vì họ cũng từng lấy mọi thứ thuế của dân đóng vào Đền Thờ. Các
tín hữu có hai bổn phận: Họ có bổn phận phải trả lại cho Thiên Chúa những gì
Ngài đã ban cho họ. Họ cũng có bổn phận nộp thuế cho chính phủ để bảo vệ an
ninh, tu bổ đường xá, và cung cấp các dịch vụ công cộng. Chúa cũng nhắc nhở cho
những người thuộc phe Herode biết giới hạn của mình. Họ chỉ có quyền trên những
gì thuộc quyền con người; những gì thuộc quyền Thiên Chúa, họ không được đụng
tới.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Chúng ta cần biết khả năng và giới hạn của mình trong cách cư xử giữa con người
với con người để bảo đảm trật tự chung và sống hòa thuận với mọi người.
-
Chúng ta càng cần biết khả năng và giới hạn của mình trong cách cư xử với Thiên
Chúa, để có thể giữ vững đức tin và gặt hái được các kết quả tốt đẹp do việc
làm theo thánh ý Chúa.
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.
02/06/15 THỨ BA TUẦN 9 TN
Th. Mác-se-li-nô và Phê-rô, tử đạo
Mc 12,13-17
Th. Mác-se-li-nô và Phê-rô, tử đạo
Mc 12,13-17
Suy niệm: Thời Chúa Giê-su, nước Do-thái bị đế quốc
Rô-ma đô hộ; người Do-thái phải nộp thuế cho chính quyền Rô-ma bằng đồng tiền
lưu hành có hình và hiệu của Xê-da, tên chung để gọi hoàng đế Rô-ma. Người
Do-thái phản đối, cách công khai hoặc ngấm ngầm việc đóng thuế cho ngoại bang.
Lợi dụng tình thế đó, nhóm Pha-ri-sêu và phe Hê-rô-đê, vốn kình địch với nhau,
đã cấu kết để giăng ra cái bẫy nhằm hại Chúa Giê-su. Họ hỏi Ngài: Có phải nộp thuế cho Xê-da
không? –
Nếu nói không, Ngài sẽ bị cho là phản loạn, chống lại hoàng đế; còn nói có, thì
hẳn Ngài không tránh khỏi sự la ó của dân chúng - đường nào Ngài cũng bị sập
cái bẫy hai tròng này! Chúa Giê-su không bận tâm đến câu hỏi có-hay-không này: “Của
Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa.” Ngài đặt họ trước đòi hỏi phải phân định: cái
gì thuộc về Thiên Chúa, cái gì thuộc về Xê-da, và từ đó nhìn nhận chủ quyền tối
thượng của Thiên Chúa trên muôn vật muôn người.
Mời Bạn: Nơi
mỗi người, Thiên Chúa cũng đã in hình của Ngài, bởi vì mọi người được dựng nên
theo hình ảnh Thiên Chúa (St 1,26). Mọi sự chúng ta có và ngay cả sự hiện hữu
của chúng ta đều là do Thiên Chúa. Thánh Phao-lô chất vấn chúng ta: “Bạn
có gì mà bạn đã không nhận lãnh?” (1Cr 4,7).
Sống Lời Chúa: Những
gì Thiên Chúa ban không phải để đòi lại, nhưng ai trao phó cho Thiên Chúa thì
họ sẽ nhận lại gấp trăm ở đời này cùng với sự sống vĩnh cửu mai sau. Vậy bạn
đừng bao giờ từ chối bất cứ điều gì khi được thôi thúc dâng hiến cho Thiên Chúa.
Cầu nguyện: Đọc kinh Phú Dâng.
Của Thiên Chúa trả về
Thiên Chúa
Tên của Giêsu đã được ghi khắc trong tim ta, nên
chúng ta không được quên mình đã thuộc trọn về Giêsu. Còn bao điều trong đời ta
thuộc về Thiên Chúa mà ta vẫn giữ cho mình!
Suy niệm:
Nhóm Pharisêu và nhóm Hêrôđê không phải
là hai nhóm hợp nhau.
Nhưng họ lại rất hợp nhất trong việc
muốn trừ khử Đức Giêsu (Mc 3, 6).
Ngài đã từng nhắc các môn đệ đề phòng
“men” của hai nhóm này (Mc 8, 15).
Trong bài Tin Mừng hôm nay, họ lại liên
minh với nhau để giăng bẫy.
Trước khi đưa Đức Giêsu vào bẫy, họ đã
lấy lòng bằng những lời ca ngợi.
Rồi cái bẫy được giăng ra, sắc như một
con dao hai lưỡi.
“Có được phép nộp thuế cho Xêda hay
không?” (c. 14).
Đã từng có những câu hỏi như thế.
“Có được phép chữa bệnh trong ngày sa
bát không?” (Mt 12, 10).
“Có được phép rẫy vợ vì bất cứ lý do
nào không?” (Mt 19, 3).
Được phép có nghĩa là không đi ngược
với Luật Môsê.
Từ năm thứ sáu sau công nguyên,
khi Giuđê và Samari trở thành một tỉnh
của đế quốc Rôma,
mỗi người dân Do thái phải nộp một thứ
thuế thân cho những kẻ xâm lược.
Đã có những phong trào đứng lên chống
lại thứ thuế này.
“Có được phép nộp thuế cho Xêda không?”
Nếu Đức Giêsu nói rõ là được phép nộp
thì đụng đến lòng ái quốc của dân,
và cũng đụng đến nhóm Pharisêu là những
người không chấp nhận
sự thống trị nhơ nhớp của ngoại bang
trên phần đất của Thiên Chúa.
Nếu Ngài nói rõ là không được phép nộp
thì Ngài sẽ gặp khó khăn với Rôma,
và sẽ đụng đến nhóm Hêrốt là nhóm lãnh
đạo dựa dẫm vào thế của đế quốc.
Dĩ nhiên Đức Giêsu đã khôn ngoan không
trực tiếp trả lời câu hỏi này.
Ngài không rơi vào bẫy, ngược lại, có
thể nói, Ngài giăng một cái bẫy khác.
“Đem cho tôi một đồng bạc để tôi xem”
(c. 15).
Đức Giêsu không mang trong mình thứ
tiền này, dùng để nộp thuế cho Rôma.
Nhưng kẻ thù của Ngài thì mang, và đưa
cho Ngài một đồng bạc.
Đồng bạc này mang hình của Xêda và mang
dòng chữ:
“Tibêriô Xêda, con của Augúttô thần
linh, Augúttô.”
Khi biết đó là đồng tiền bằng bạc của
Xêda, Đức Giêsu đã nói:
“Những thứ của Xêda, hãy trả lại cho
Xêda,
những thứ của Thiên Chúa, hãy trả lại
cho Thiên Chúa” (c. 17).
Câu trả lời này đã làm họ sững sờ,
không thể nào bắt bẻ được.
Đức Giêsu có vẻ không chống lại chuyện
nộp thuế thân cho Xêda.
Nhưng Ngài quan tâm đến một chuyện quan
trọng hơn nhiều.
Chuyện đối xử công bằng với Thiên Chúa.
Trả lại cho Thiên Chúa mọi sự thuộc về
Thiên Chúa: đó là bổn phận.
Đồng tiền mang hình Xêda, nên chúng ta
phải trả cho Xêda.
Còn chúng ta là người mang hình ảnh
Thiên Chúa,
nên chúng ta phải dâng trả chính bản
thân mình cho Thiên Chúa.
Tên của Giêsu đã được ghi khắc trong
tim ta,
nên chúng ta không được quên mình đã
thuộc trọn về Giêsu.
Còn bao điều trong đời ta thuộc về
Thiên Chúa mà ta vẫn giữ cho mình!
Cầu nguyện:
Lạy Chúa,
xin nhận lấy trọn cả tự do, trí nhớ,
trí hiểu,
và trọn cả ý muốn của con,
cùng hết thảy những gì con có,
và những gì thuộc về con.
Mọi sự ấy, Chúa đã ban cho con,
lạy Chúa, nay con xin dâng lại cho
Chúa.
Tất cả là của Chúa,
xin Chúa sử dụng hoàn toàn theo ý Chúa.
Chỉ xin ban cho con lòng mến Chúa và ân sủng.
Được như thế, con hoàn toàn mãn nguyện.
Amen.
(Kinh dâng hiến của thánh I-Nhã)
Lm
Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng Sáu
2
THÁNG SÁU
Triều Thiên Của Tạo
Vật
Con
người là một thể thống nhất, là duy nhất trong chính mình. Nhưng trong thể
thống nhất này có hàm chứa tính lưỡng diện. Thánh Kinh trình bày cả thể thống
nhất (ngôi vị) lẫn tính lưỡng diện (hồn và xác) của con người. Chẳng hạn, Sách
Huấn Ca viết: “Đức Chúa lấy đất mà tạo ra con người, rồi lại đưa con người trở
về đất” (Hc 17, 1 – 2). Nhưng Sách Huấn Ca cũng viết: “Người ban cho chúng trí
khôn, luỡi, mắt, tai, và trái tim để chúng suy nghĩ. Người làm cho chúng được
đầy kiến thức thông minh, tỏ cho chúng biết điều tốt điều xấu.” (câu 5 – 6)
Từ
quan điểm này, Thánh Vịnh 8 thật hết sức có ý nghĩa. Con người được tôn dương
là một tuyệt tác khi tác giả thánh vịnh nói với Thiên Chúa bằng những lời này:
“… con người là chi, mà Chúa cần nhớ đến; phàm nhân là gì, mà Chúa phải bận
tâm? Chúa cho con người chẳng thua kém thần linh là mấy, ban vinh quang danh dự
làm mũ triều thiên, cho làm chủ công trình tay Chúa sáng tạo, đặt muôn loài
muôn sự dưới chân” (câu 5 – 7).
-
suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –
Lm.
Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT
UP YOUR HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Thứ Ba tuần 9 quanh
năm
Tb
2, 9-14; Mc 12, 13-17
LỜI
SUY NIỆM: Đức Giêsu bảo họ: “Của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa, trả về
Thiên Chúa” (Mc 12,17a)
Với
đức tin Công giáo của chúng ta, xét cho cùng thì chẳng có cái gì là của Xê-da
cả, bởi tất cả đều từ Thiên Chúa ban phát cho nhân loại cũng như mọi tạo vật
khác. Đặc biệt đối với con người chúng ta, thân xác và linh hồn của chúng ta là
hình ảnh của Thiên Chúa, nó hoàn toàn không thuộc về bất cứ ai, kể cả chính bản
thân của mình; chúng ta cũng không có quyền nhượng nó cho bất cứ ai hay một tổ
chức nào. Nó thuộc toàn quyền sở hữu của Thiên Chúa, nên chúng ta phải có trách
nhiệm gìn giữ, săn sóc, bảo vệ, và nuôi sống tốt; để trả về lại cho Thiên Chúa.
Mạnh
Phương
Gương Thánh nhân
Ngày 02-06
Thánh MARCELLINÔ và
PHÊRÔ
Tử Đạo (+304)
Không
có tài liệu lịch sử nào nói về nguồn gốc của hai thánh tử đạo Marcellino và
Phêrô cả. Các Ngài được phúc tử đạo dưới thời Diocletianô.
Thánh
Marcellino được ơn tử đạo còn thánh Phêrô được ơn trừ quỉ.
Nhờ
được ơn trừ quỉ, thánh Phêrô được rất nhiều người mộ mến. Ngược lại cũng có
nhiều người ghen tức và thù oán tìm cách giết hại. Tỉnh trưởng Sêrênô ra lệnh
tống giam Ngài. Bạn ông là Antêmi có đứa con gái bị quỉ ám. Nghe biết Phêrô có
quyền trừ quỉ, ông giối thiệu bạn mình tới ngục thất để gặp thánh nhân. Gặp
ông, thánh nhân khuyên nhủ ông hãy tin vào Chúa Giêsu và thờ phượng Thiên Chúa.
Ông bực tức cho rằng: Chúa không cứu nổi Phêrô thì làm sao thánh nhân cứu nổi
con ông được. Rồi ngay đêm ấy khi quân canh ngục còn đang thi hành nhiệm vụ thì
thánh nhân đã có mặt ở nhà Antêmi. Cả gia đình Antêmi bỡ ngỡ và xin theo đạo.
Paulina, con gái Antêmi được lành bệnh. Từ đó gia đình Antêmi thành nơi tụ tập
thường hay lui tới dạy đạo và rửa tội cho các tân tòng.
Tức
giận, Sêrênô ra lệnh hành hạ hai thánh nhân một cách dã man rồi giam ngục tối,
nền rắc đầy miểng chai, và bỏ đói các Ngài cho chết. Tuy nhiên Chúa đã giải
thoát cho các Ngài trong một tuần lễ để lo cho các dự tòng được chịu phép rửa
tội. Nghĩ rằng gia đình Antemi lập mưu cho cuộc vượt thoát này, Sêrênô ra lệnh
giết cả gia đình ông.
Cuối
cùng hai thánh nhân Marcellinô và Phêrô bị đem hành quyết. Khi thi hành án
quyết, đao phủ Đorotê đã thấy linh hồn hai Ngài bay về trời. Quá xúc động ông
đã xin tòng giáo và qua đời cách lành thánh. Còn xác hai thánh nhân được chôn
cất ở nghĩa trang Ad Duos Lauros đường Labicana.
Khi
Giáo hội được sống trong an bình, người ta xây cất trên mộ hai Ngài một thánh
đường rất nguy nga. Tên Hai thánh nhân đã được nhắc đến trong lễ quy Roma.
(daminhvn.net)
02 Tháng Sáu
Nguồn Gốc Của Sa Mạc
Người
Ả Rập giải thích nguồn gốc của sa mạc bằng câu chuyện ngụ ngôn như sau:
"Thiên
Chúa đang sáng tạo vũ trụ. Sau khi đã hoàn tất tinh tú, trái đất, biển khơi,
sông ngòi, Thiên Chúa bắt tay vào việc tạo dựng con người. Ngài nặn được những
thân hình thật đẹp, nhưng đó chỉ là những pho tượng, vì chưa có linh hồn".
Lúc
bấy giờ, một tổng lãnh thiên thần mới đề nghị với Thiên Chúa là cần phải tạo
dựng linh hồn cho con người. Thế là Thiên Chúa miệt mài giam mình trong phòng
thí nghiệm để tác tạo linh hồn cho con người. Các linh hồn vừa mới ra lò còn
rất mảnh khảnh và yếu ớt.
Ngài
mang các linh hồn tươi tắn ấy xuống trần gian và phân phát cho loài người.
Nhưng rủi thay, hôm đó trời đổ mưa, cho nên một số linh hồn chưa đủ cứng cáp đã
biến dạng.
Một
ngày nọ, một trong những người đã lãnh nhận được linh hồn méo mó, đã buột miệng
nói ra một lời dối trá. Tuy chỉ là một lời dối trá không đáng kể, nhưng đó là
một lời dối trá đầu tiên xuất hiện trong lịch sử loài người.
Thiên
Chúa vô cùng hối hận vì đã không ngăn ngừa được sự dối trá ấy. ngài bèn tập
trung loài người lại và tuyên bố: "Từ nay, đừng có một người nào phạm thêm
một điều dối trá nữa. Nếu không, cứ mỗi lần có một lời dối trá, ta sẽ cho rơi
xuống mặt đất một hạt cát".
Nhiều
người nghe lời đe dọa của Thiên Chúa, cười thầm trong lòng. Một hạt cát có đáng
kể là bao sánh với màu xanh trùng trùng điệp điệp của cây cỏ. Thành ra, loài
người đã không đếm xỉa đến lời cảnh cáo của Thiên Chúa. Người thứ hai thêm một
lời nói láo mà vẫn đinh nih đó chỉ là một lời không đáng kể, cũng như thêm một
hạt cát trên trái đất cũng không thay đổi được bộ mặt của nó. Cứ thế, người thứ
ba, rồi người thứ tư... Người ta nói dối đến độ Thiên Chúa không còn đủ sức để
cho cát rơi xuống trên mặt đất nữa... Ngài đành phải dùng đến bàn tay của các
thiên thần để cho mưa cát xuống... Không mấy chốc, những đồng cỏ xanh tươi,
những vườn cây um tùm biến thành sa mạc khô cằn. Thỉnh thoảng một vài ốc đảo
xanh tươi mọc lên, đó là dấu hiệu sự hiện diện của một vài người còn biết tôn
trọng sự thật. Nhưng dần dà, ôn dịch dối trá lan tràn khắp nơi, trái đất chỉ
còn là một bãi sa mạc.
Tất
cả những ai sống trong một xã hội xây dựng trên dối trá, lừa đảo, đố kỵ lẫn
nhau đều biểu hiện được thế nào là sa mạc của tình người. Sa mạc nào cũng là
biểu hiện của sự chết: chết của tình người, chết của lòng tin tưởng lẫn nhau,
chết của hy sinh phục vụ, chết của lòng quảng đại. Tựu trung, dối trá cũng là
tên gọi của ích kỷ. Người dối trá là người chỉ biết sống cho mình. Nếu ơn gọi
của con người, nếu sự thật của con người là sống yêu thương, sống cho người,
thì kẻ dối trá là người chối bỏ chính mình.
Chúa
Giêsu đã lên án gắt gao thái độ dối trá. Ngài nói: "Có thì nói có, không
thì nói không, thêm điều đặt chuyện là bởi ma quỷ mà ra". Kẻ dối trá, do
đó, tự đặt mình dưới quyền thống trị và điều khiển của ma quỷ.
Mỗi
một thái độ dối trá là một hạt cát rơi xuống trên sa mạc của tình người. Nhưng
mỗi một hành động của quảng đại, của yêu thương, của phục vụ là một ốc đảo xanh
tươi của Chân lý, đó là Chân lý của tình yêu.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét