22/06/2015
Thứ Hai sau Chúa Nhật
12 Quanh Năm
Bài
Ðọc I: (Năm I) St 12, 1-9
"Abram
ra đi như Chúa đã truyền dạy".
Trích
sách Sáng Thế.
Khi
ấy, Chúa phán cùng Abram rằng: "Ngươi hãy từ bỏ quê hương, họ hàng và nhà
cửa cha ngươi mà đi đến xứ Ta chỉ cho. Ta sẽ cho ngươi thành một dân lớn; Ta sẽ
chúc lành cho ngươi, và Ta sẽ cho danh ngươi nên lớn lao, ngươi sẽ là một mối
chúc lành. Ta sẽ chúc lành cho những ai chúc lành cho ngươi, và sẽ chúc dữ cho
ai chúc dữ cho ngươi. Nơi ngươi mọi dân nước sẽ được chúc phúc".
Abram
ra đi như Chúa đã truyền dạy, và có ông Lót đi theo. Khi bỏ đất Haran, Abram được
bảy mươi lăm tuổi. Ông đem Sarai, vợ ông, và Lót là cháu, cùng với tất cả tài sản
và gia nhân mà họ có ở Haran. Họ ra đi đến đất Canaan. Khi họ tới nơi, Abram rảo
qua các xứ cho đến Sikem, thung lũng thời danh. Bấy giờ người Canaan đang ở xứ
này.
Chúa
đã hiện ra với Abram và phán rằng: "Ta sẽ ban đất này cho dòng dõi
ngươi". Ông đã dựng ở đó một bàn thờ kính Thiên Chúa, Ðấng đã hiện ra với
ông. Rồi từ nơi ấy, ông đi đến núi ở phía đông Bêthel mà cắm trại: phía tây của
trại là Bêthel và phía đông là Hai. Ông cũng dựng ở đó một bàn thờ kính Chúa,
và khấn cầu danh Chúa. Abram cứ tiến dần mãi về (Nageb ở) phía nam.
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 32, 12-13. 18-19. 20 và 22
Ðáp: Phúc thay dân
tộc mà Chúa chọn làm cơ nghiệp riêng mình (c. 12b).
Xướng:
1) Phúc thay quốc gia mà Chúa là Chúa tể, dân tộc mà Chúa chọn làm cơ nghiệp
riêng mình. Tự trời cao Chúa nhìn xuống, Người xem thấy hết thảy con cái người
ta. - Ðáp.
2)
Kìa Chúa để mắt coi những kẻ kính sợ Người, nhìn xem những ai cậy trông ân sủng
của Người, để cứu gỡ họ khỏi tay thần chết, và nuôi dưỡng họ trong cảnh cơ hàn.
- Ðáp.
3)
Linh hồn chúng con mong đợi Chúa, chính Ngài là Ðấng phù trợ và che chở chúng
con. Lạy Chúa, xin đổ lòng từ bi xuống trên chúng con, theo như chúng con tin cậy
ở nơi Ngài. - Ðáp.
Alleluia:
Ga 14, 5
Alleluia,
alleluia! - Chúa phán: "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống, không ai
đến được với Cha mà không qua Thầy". - Alleluia.
Phúc
Âm: Mt 7, 1-5
"Hãy
lấy cái đà khỏi mắt ngươi trước đã".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi
ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con đừng đoán xét để khỏi bị
đoán xét. Các con đoán xét thể nào thì các con cũng bị đoán xét như vậy. Các
con dùng đấu nào mà đong, thì cũng sẽ đong lại cho các con bằng đấu ấy. Sao
ngươi thấy cái rác trong mắt anh em, mà không thấy cái đà trong mắt ngươi? Hoặc
sao ngươi bảo anh em: "Ðể tôi lấy cái rác ra khỏi mắt anh", và này:
cái đà đang ở trong mắt ngươi. Ðồ giả hình, hãy lấy cái đà khỏi mắt ngươi trước
đã, rồi ngươi sẽ thấy rõ để lấy cái rác ra khỏi mắt anh em ngươi".
Ðó
là lời Chúa.
Suy
Niệm: Ðừng xét đoán
Augustin
Goden trong khi còn là sinh viên trường nghệ thuật ở Paris đã nổi tiếng về tài
điêu khắc. Có một người đàn bà giàu, nhưng chẳng biết gì về nghệ thuật đến nhờ
Goden thiết kế một bức tượng để đặt ở giữa vườn nhà bà. Người đàn bà đến xem bức
tượng nhằm lúc ông đang tiếp khách. Sau khi người đàn bà ra về, nhóm bạn hữu ra
xưởng vẽ thấy Goden đang nhảy múa cuồng loạn trước bức tượng. Ðược hỏi tại sao,
Goden trả lời: "Bởi vì người đàn bà không đồng ý về bức tượng, nên tôi vui
mừng, vì biết rằng tác phẩm của tôi có giá trị".
Mỗi
lần chấm thi một bộ môn nào đó, người ta thường mời những người chuyên môn về bộ
môn ấy cho biết nhận xét. Phải biết rõ vấn đề, con người mới hy vọng có được nhận
xét xác đáng, nếu không chỉ là những lời bâng quơ, thiên lệch. Chúa Giêsu đã
không muốn những kẻ theo Ngài vấp phải sai lầm này. Tự bản thân, con người chưa
hiểu được mình, vì con người có phần tinh thần ẩn khuất đằng sau thể xác. Những
gì được phô diễn bên ngoài mới chỉ là hình thức. Không thiếu những trường hợp
cái hình thức bên ngoài được dựng nên để che dấu cái sự thật bên trong, hoặc những
tín hiệu gửi đi chỉ được đón nhận một cách sai lạc, do thành kiến và ác ý.
Bởi
thế, con người không thể tự cho mình quyền xét đoán, phê phán người khác, mà chỉ
có một mình Thiên Chúa, Ðấng thấu suốt mọi sự. Ngài hiểu con người hơn chính họ
và mời gọi con người hãy nhìn vào bản thân mình: hãy nhìn vào mắt mình để lấy
cái xà đã đóng chặt vào đó, cái xà được kết tinh bằng bao lỗi lầm, thành kiến,
ác ý. Lấy được cái xà, mắt sẽ trong sáng, con người sẽ nhìn rõ sự vật.
Cái
nhìn của đôi mắt không có cái xà sẽ không còn là cái nhìn của phê phán, chỉ
trích, nhưng là cái nhìn của Chúa Giêsu, một cái nhìn đầy yêu thương, tha thứ,
mang lại cho kẻ được nhìn niềm tin yêu, hy vọng. Lêvi, người thu thuế, sẵn sàng
bỏ mọi sự để theo Thầy; Zakêu, người thu thuế trưởng, đã thành tâm hoán cải;
Mađalêna dứt khoát từ bỏ con đường tội lỗi. Tất cả đã chuyển hướng cuộc đời bởi
cái nhìn từ ái bao dung của Chúa Giêsu.
Ước
chi lời cầu nguyện của thánh Augustinô: "Xin cho con biết Chúa, xin cho
con biết con" cũng là lời cầu nguyện của mỗi người chúng ta. Biết Chúa để
thấy lòng quảng đại yêu thương vô bờ của Chúa; biết mình để ý thức về sự yếu đuối,
bất toàn của mình, nhờ đó chúng ta sẽ dễ dàng rộng lượng với người khác như
Chúa đã đối xử các đại lượng với chúng ta.
Veritas Asia
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Hai Tuần 12 TN,
Năm lẻ
Bài đọc: Gen 12:1-9; Mt
7:1-5.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Không xét đoán tha
nhân và tin tưởng hoàn toàn vào Thiên Chúa.
Con
người thích xét đoán vì nó là dịp để đề cao mình và giảm danh giá tha nhân.
Không những xét đoán tha nhân, nhiều người còn nghi ngờ quyền năng Thiên Chúa
và xét đoán luôn cả sự quan phòng của Ngài, khi họ chất vấn hay than phiền những
đau khổ Thiên Chúa bắt họ phải chịu. Con người xét đoán không năng xét mình; vì
thế, họ thấy họ tốt lành và dễ xét đóan tha nhân; nhưng nếu họ chịu khó xét
mình, họ sẽ thấy họ mang đầy những khuyết điểm, và không dám xét đoán tha nhân.
Con người dễ xét đoán, vì họ nghĩ chẳng có ai rỗi hơi kiểm điểm những lời xét
đoán của họ; nhưng nếu họ biết Thiên Chúa là Đấng thấu suốt mọi sự, họ sẽ cẩn
thận hơn khi phải xét đoán tha nhân.
Các
Bài Đọc hôm nay dạy chúng ta hai bài học rất quan trọng trong cuộc đời. Trong
Bài Đọc I, tổ-phụ Abram nêu gương sáng cho chúng ta phải tuyệt đối tin tưởng
vào những gì Thiên Chúa dạy. Khi được Thiên Chúa truyền: "Hãy rời bỏ xứ sở,
họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi tới đất Ta sẽ chỉ cho ngươi;'' tổ phụ Abram tin
tưởng lên đường ngay, vì ông hoàn toàn tin tưởng nơi Thiên Chúa. Trong Phúc Âm,
Chúa Giêsu dạy con người tuyệt đối không được đoán xét để khỏi bị đoán xét; vì
con người không toàn thiện để đoán xét người khác.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I:
Abram tin tưởng hoàn toàn vào Thiên Chúa.
1.1/
Abram can đảm vâng lời lên đường để xây đắp tương lai:
(1)
Lời hứa của Thiên Chúa với Tổ-phụ Abraham: Đức Chúa phán với ông Abram:
"Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi tới đất Ta sẽ chỉ cho
ngươi. Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn, sẽ chúc phúc cho ngươi. Ta sẽ cho
tên tuổi ngươi được lẫy lừng, và ngươi sẽ là một mối phúc lành. Ta sẽ chúc phúc
cho những ai chúc phúc cho ngươi; Ai nhục mạ ngươi, Ta sẽ nguyền rủa. Nhờ
ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc." Đây là lời hứa khơi
mào Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa, và sẽ được hoàn thành bởi Đức Kitô. Lời hứa
này đòi thời gian 2,000 năm để hoàn thành.
(2)
Thái độ tin tưởng và hành động vâng lời của Abram: Không chút do dự về tương
lai vô định, Abram ra đi, như Đức Chúa đã phán với ông. Ông Abram được bảy mươi
lăm (75) tuổi khi ông rời Haran. Ông Abram đem theo vợ là bà Sarai, cháu là ông
Lót, và mọi tài sản họ đã gầy dựng được, cùng với gia nhân họ đã có tại Haran.
Họ ra đi về phía đất Canaan và đã tới đất đó. Có rất nhiều lý do ngăn cản Abram
đừng làm theo ý Chúa: tuổi già, sức khỏe, họ hàng, tương lai vô định ... nhưng
một điều duy nhất giúp Abram vượt qua mọi trở ngại là niềm tin của ông vào
Thiên Chúa. Ông tin: những gì Thiên Chúa hứa, Ngài sẽ làm.
1.2/
Thiên Chúa ban Đất Hứa cho giòng dõi của Abram: Đức Chúa hiện ra với ông Abram
và phán: "Ta sẽ ban đất này cho giòng dõi ngươi." Đất mà Thiên Chúa hứa
ban là Đất Hứa nơi mà các người Canaan đang cư ngụ. Đất Hứa này chỉ thực sự là
của giòng dõi ông, khi họ xuất hành ra khỏi Ai-cập, và Thủ-lãnh Joshua lãnh đạo
họ đánh bại người Canaan, và phân phối Đất Hứa cho 12 chi tộc của Israel; lúc
đó, Abram không còn sống trên trần gian!
Dẫu
vậy, Abram cũng vẫn đo lường giải đất mà con cháu ông sẽ làm chủ sau này: ''Tại
Shechem, ông dựng một bàn thờ để kính Đức Chúa, Đấng đã hiện ra với ông. Từ chỗ
ấy, ông sang miền núi, ở phía đông Bethel. Ông cắm lều giữa Bethel ở phía tây
và Ai ở phía đông. Tại đây ông dựng một bàn thờ để kính Đức Chúa và ông kêu cầu
danh Đức Chúa. Rồi ông đi từ chặng nọ qua chặng kia đến miền Negeb.''
2/
Phúc Âm:
Anh em đừng xét đoán, để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán.
2.1/
Tuyệt đối không xét đoán: Chúa Giêsu truyền: "Anh em đừng xét đoán, để khỏi bị Thiên
Chúa xét đoán, vì anh em xét đoán thế nào, thì anh em cũng sẽ bị Thiên Chúa xét
đoán như vậy.'' Có ít nhất 3 lý do ngăn cấm con người xét đoán tha nhân:
(1)
Con người không biết hết hoàn cảnh và các dữ kiện liên quan: Con người dễ phê
phán tha nhân vì họ nhìn từ bên ngoài; nhưng để phê phán đúng, họ phải đặt mình
vào bên trong để hiểu hòan cảnh của đương sự. Ví dụ, một người nghèo đói phải
ăn cắp để có của ăn nuôi sống là điều hợp lý phải làm; chứ không phải trường hợp
ăn cắp nào cũng xấu. Tục ngữ Việt-nam có câu: "Có ở trong chăn mời biết
chăn có rận." Hay trong truyện Kiều của Nguyễn Du có câu: "Đoạn trường
ai có qua cầu mới hay." Nàng Kiều phải bán mình để chuộc cha để trả ơn
sinh thành nuôi dưỡng là điều một người con hiếu thảo phải làm, chứ không phải
trường hợp mãi dâm nào cũng bị kết án.
(2)
Con người bị chi phối bởi rất nhiều thành kiến: ngôn ngữ, chủng tộc, màu da,
giai cấp, liên hệ, quyền lợi ... Một khi đã có những thành kiến, rất khó để con
người phán đoán cách chí công vô tư. Người Hy-lạp có thói quen phân xử nạn nhân
trong phòng tối để tránh thành kiến; nhưng cả hai bên vẫn có thể nghe tiếng nói
của nhau và đoán được nguồn gốc của nhau.
(3)
Con người không sạch hoàn toàn để phán xét: Trong câu truyện "Người phụ nữ
ngoại tình" của Tin Mừng Gioan, Chúa Giêsu thách thức những người đòi kết
án và ném đá người phụ nữ: "Ai trong các ông sạch tội, hãy quăng viên đá
trước." Và họ dần dần rút lui đến khi chỉ còn mình Chúa Giêsu, Đấng có quyền
phán xét mọi người vì Ngài không bao giờ phạm tội. Nhưng Ngài nói với chị:
"Tôi cũng vậy, tôi không phán xét chị. Thôi! chị về đi và từ nay đừng phạm
tội nữa" (Jn 8:12).
Có
những trường hợp con người buộc phải xét xử như: bề trên, quan tòa, cha mẹ ...
Trong những trường hợp buộc phải xét xử, hãy xét xử cách rộng lượng, phải có đầy
đủ các dữ kiện, và theo sự hướng dẫn của Thánh Thần, vì theo Lời Chúa cảnh cáo:
"Anh em đong đấu nào, thì Thiên Chúa cũng sẽ đong đấu ấy cho anh em."
2.2/
Hãy kiểm điểm mình trước: Một trong những cách giúp con người đừng đóan xét tha nhân là
năng kiểm điểm bản thân mình. Khi con người thành thật với chính mình, họ tìm
ra trong người họ cũng đầy dẫy những tính hư, nết xấu, nhiều khi còn to lớn hơn
của tha nhân gấp bội. Nhận ra bản thân như thế, họ sẽ dễ dàng thông cảm và
không đoán xét tha nhân. Ngược lại, khi con người không năng xét mình, họ dễ
dàng đoán xét tha nhân, vì họ nghĩ họ sạch tội. Chúa Giêsu đưa ra một ví dụ để
cảnh cáo hạng người này: ''Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em,
mà cái xà trong con mắt của mình thì lại không để ý tới? Sao anh lại nói với
người anh em: ''Hãy để tôi lấy cái rác ra khỏi mắt bạn," trong khi có cả một
cái xà trong con mắt anh? Hỡi kẻ đạo đức giả! Lấy cái xà ra khỏi mắt anh trước
đã, rồi anh sẽ thấy rõ, để lấy cái rác ra khỏi mắt người anh em.''
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Chúng ta phải hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa, và đừng bao giờ xét đoán sự
quan phòng của Ngài.
-
Chúng ta cần tập thói quen tuyệt đối không xét đoán tha nhân, vì đó không phải
là việc của chúng ta. Trường hợp vì bổn phận phải xét xử, hãy theo sự hướng dẫn
của Thánh Thần, có tất cả các bằng chứng liên quan, hiểu hoàn cảnh của đương sự,
và phán xét cách rộng lượng.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
22/06/15 THỨ HAI TUẦN
12 TN
Th. Gio-an Phi-sơ, giám mục và Tô-ma Mo, tử đạo
Mt 7,1-5
Th. Gio-an Phi-sơ, giám mục và Tô-ma Mo, tử đạo
Mt 7,1-5
Suy niệm: Nếu
có ai đó hỏi bạn rằng bạn có muốn Thiên Chúa xét đoán bạn theo kiểu bạn xét
đoán người khác không, hẳn là bạn sẽ trả lời không sau những khoảnh khắc ngập
ngừng. Với tất cả tội lỗi của con người mà cứ áp dụng luật vay trả “mắt đền mắt”,
thì chẳng những -như có người nói- thế giới sẽ toàn những người mù, mà hẳn là
không còn bóng dáng một ai trên cõi đời này. Thiên Chúa nhân từ vô cùng, Ngài
khai mở cho chúng ta một phương thế thoát khỏi cách vòng luẩn quẩn đó: “Anh em đong đấu nào, thì Thiên Chúa cũng sẽ
đong đấu ấy cho anh em.” Điều
đó có nghĩa là nếu chúng ta từ bỏ lối xét đoán “ăn miếng trả miếng” hẹp hòi của
chúng ta, và đối xử với nhau theo lòng nhân từ thương xót của Thiên Chúa thì
Ngài cũng sẽ đối xử với chúng ta cách nhân từ và khoan dung gấp bội phần như
vậy.
Mời Bạn: Thích
nói xấu và nghe nói xấu về người khác là thói quen cố hữu của nhiều người. Thực
ra, biết phán đoán điều dở điều hay là điều nhất thiết phải có, nhưng có điều,
phán đoán đó phải được thực hiện bởi một trái tim nhân hậu như Thánh Tâm Chúa
Giê-su; và đó chính là điều Chúa muốn.
Sống Lời Chúa: Khám
phá ưu điểm của người khác thay vì bới móc khuyết điểm của họ nhất là đối với
những người mà bạn tự nhiên thấy khó ưa. “Xét đoán” ý tốt cho người khác thay
vì đoán ý xấu cho họ.
Cầu nguyện: “Ôi lạy Chúa, nếu như Ngài chấp tội, nào có ai đứng vững được
chăng?”(Tv 130,3) Xin giúp con biết quảng đại tha
thứ cho anh em con, như Chúa luôn nhân từ tha thứ cho con.
Lấy xà ra khỏi mắt
Điều khó vẫn là thấy được cái xà trong mắt mình.
Lẽ ra tôi phải thấy ngay vì nó quá lộ liễu, ai cũng thấy. Nhưng nó khó thấy, vì
tôi không muốn thấy cái xấu của mình.
Suy niệm:
Mỗi ngày chúng ta đưa ra
biết bao nhận xét về người khác.
Thầy cô phải nhận xét về học
trò, cấp trên phải nhận xét về thuộc hạ.
Việc lượng giá về từng cá
nhân thường rất cần thiết và hữu ích.
Trong đời sống tu trì, vẫn
có chuyện anh em sửa lỗi cho nhau.
Nói chung, sống thì phải đưa
ra những phán đoán về người khác.
Nhưng làm sao để phán đoán
ấy không trở nên một xét đoán lệch lạc?
Đức Giêsu dạy ta biết cách
xét đoán qua bài Tin Mừng hôm nay.
“Anh em đừng xét đoán”: thật
ra Đức Giêsu không cấm mọi thứ xét đoán.
Ngài còn dạy các môn đệ biết
cách phân biệt ngôn sứ giả và thật (Mt 7,15),
phân biệt người xứng đáng và
người không xứng đáng (Mt 10, 11),
biết cách đề phòng thói xấu
của nhóm Xađốc và Pharisêu (Mt 16, 6).
Đức Giêsu chỉ đòi các tín
hữu sống trong cộng đoàn huynh đệ
phải tránh lối xét đoán
thiếu bao dung, khắc nghiệt,
mà quên chính mình cũng có
những lỗi lầm lớn hơn nhiều.
“Anh em xét đoán thế nào,
thì cũng bị Thiên Chúa xét đoán như vậy” (c. 2).
Ngài muốn ta nhẹ tay và nhân
từ khi cần phải xét đoán người anh em.
Vì cái đấu ta dùng để đong
cho họ, Thiên Chúa sẽ dùng để đong cho ta.
Đấu đong đi càng lớn, đấu
đong lại càng đầy.
Chỉ cần thay đổi cái đấu ta
vẫn quen dùng, là cuộc đời của ta thay đổi.
Đức Giêsu dùng một hình ảnh
liên quan đến nghề mộc của Ngài,
để nói về chuyện người đạo
đức giả.
Đó là hình ảnh bụi mùn cưa
trong mắt người khác và cái xà trong mắt mình.
Một cái thì thật bé, một cái
thì to đến độ khó lòng ở trong mắt được.
Hình ảnh phóng đại này hẳn
làm ai cũng phải buồn cười.
Tôi thấy lỗi bé nơi anh em,
nhưng lại không để ý tới lỗi lớn nơi tôi.
Tôi hăng hái xin được lấy
hạt bụi ra khỏi mắt anh em,
nhưng lại rất khoan dung với
cái xà trong mắt mình.
Đức Giêsu hóm hỉnh khuyên
chúng ta nên lấy xà ra khỏi mắt trước đã,
rồi mới thấy tỏ tường để lấy
hạt bụi mùn cưa khỏi mắt anh em.
Điều khó vẫn là thấy được
cái xà trong mắt mình.
Lẽ ra tôi phải thấy ngay vì
nó quá lộ liễu, ai cũng thấy.
Nhưng nó khó thấy, vì tôi
không muốn thấy cái xấu của mình.
Càng có quyền, có chức, có
uy tín, có tuổi tác và kinh nghiệm,
càng khó chấp nhận nếp nhăn
nơi khuôn mặt mình.
Giá mà tôi thấy được cái xà
nơi mắt tôi,
chắc tôi đã không dám đòi
lấy hạt bụi nơi mắt người khác,
hay nếu có được ai nhờ lấy
đi nữa,
thì cũng chỉ lấy một cách
khiêm hạ, nhẹ nhàng.
Trong bài hát “Chúa Hòa
Bình” của Phạm Duy có câu:
“Nếu có ai lầm lỡ, rồi sinh
ra khắt khe…”
Chỉ mong chúng ta, nhờ thấy
mình lầm lỡ và đã được Chúa thứ tha,
nên sinh ra dễ cảm thông với
lỗi lầm người khác.
Cầu nguyện:
Như người mù ngồi bên vệ đường
xin Chúa dủ lòng thương cho
con được thấy.
Xin cho con được thấy bản thân
với những yếu đuối và khuyết
điểm,
những giả hình và che đậy.
Cho con được thấy Chúa hiện diện bên con
cả những khi con không cảm
nghiệm được.
Xin cho con thực sự muốn thấy,
thực sự muốn để cho ánh sáng
Chúa
chiếu dãi vào bóng tối của
con.
Như người mù ngồi bên vệ đường
xin Chúa dủ lòng thương cho con được thấy.
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
22
THÁNG SÁU
Thiên
Chúa Mời Gọi Đích Danh Mỗi Người Chúng Ta
Đồng
thời, chúng ta cũng gặp thấy nơi truyền thống một hành trình kiên thủ trong đức
tin. Ở đây, Giáo Hội là bạn đồng hành luôn sát cánh với con người. Giáo Hội
luôn sẵn sàng khi con người yêu cầu những cách thế mới của sự quan phòng của
Thiên Chúa. Các Công Đồng Vatican I và II, mỗi Công Đồng theo cách riêng mình,
là những tiếng nói quí giá của Chúa Thánh Thần mà chúng ta không được phép dửng
dưng. Giáo Hội mời gọi chúng ta suy tư lại về những chân lý sống động mà các
Công Đồng ấy đã nêu ra, cũng như suy tư lại về những tài liệu quan trọng của
truyền thống.
Mọi
câu hỏi nghiêm túc phải nhận được một câu trả lời thấu đáo. Đó là lý do tại sao
chúng ta đang liên hệ tới những khía cạnh khác nhau của sự quan phòng thần linh
trong nhiệm cục sáng tạo và cứu độ. Vì thế , chúng ta hãy dành thời gian để suy
tư về chân lý vĩnh cửu mãi mãi tồn tại ấy. Đây là sự khôn ngoan siêu việt mà
Thiên Chúa yêu thương con người và mời gọi con người tham dự vào trong kế hoạch
cứu độ của Ngài. Con người được mời gọi nhận ra sự săn sóc ân cần của Thiên
Chúa và hợp tác với ơn cứu độ của Ngài.
-
suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm.
Lê Công Đức dịch
từ nguyên tác
LIFT
UP YOUR HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY
22-6
Thánh
Paulinô, giám mục Nôla.
Thánh
Gioan Fisher, giám mục tử đạo và Thánh Tôma More, tử đạo
St
12, 1-9; Mt 7, 1-5
LỜI
SUY NIỆM: “Anh em đừng xét đoán; để khỏi bị Thiên Chúa
xét đoán, vì anh em xét đoán thế nào, thì anh em cũng sẽ bị Thiên Chúa
xét đoán như vậy.”
Chúa
Giêsu rất yêu thương con cái của Người, nên Người kêu gọi chúng ta đừng xét
đoán bất cứ ai, những người mà chúng ta đã gặp, cũng như nghe nói đến, vì trong
chúng ta luôn bất toàn, không thể hiểu rõ mọi sự và mọi nguyên do, do đó sẽ đưa
chúng ta đến chỗ xét đoán sai, và gây thương tổn cho người ta. Quyền đoán xét
chỉ thuộc về một mình Thiên Chúa, chính Ngài biết rõ và thấu suốt mọi chuyện.
và Ngài có toàn quyền trên mọi tạo vật mà Ngài đã tạo nên.
Lạy
Chúa Giêsu. Chúa khuyên dạy chúng con đừng xét đoán để khỏi bị Thiên Chúa xét
đoán. Xin ban cho mọi thành viên trong gia đình chúng con luôn sống với giới luật
mến Chúa yêu người để chúng con xứng đáng là con cái của Chúa.
Mạnh
Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày
22-06: Thánh GIOAN FISHER
Giám
Mục (1469 - 1535)
Thánh
Gioan Fisher sinh tại Beverly, Yorkshire là con của một thương gia giàu có. Cha
Ngài đã qua đời năm 1477. Khoảng năm 1482, Ngài được Mẹ gởi tới đại học
Cambriage và đã trở thành một học giả nổi danh. Năm 1941, Ngài thụ phong linh mục.
Sau mười năm học thần học. Năm 1501, và sau này Ngài được coi như một trong các
nhà thần học hàng đầu của Âu Châu.
Đại
học sớm nhận ra khả năng quản trị của Ngài, lần lượt Ngài đã giữ chức vụ giám
thị, phó chưởng ấn, rồi chưởng ấn. Năm 1514, Ngài được chọn làm chưởng ấn suốt
đời.
Ngài
được đặt làm giám mục Rochester năm 1504 và Ngài đã là một mục tử chân chính,
lo khích lệ các linh mục bằng sự quan tâm tới cuộc sống của các Ngài. Là một
nhà giảng thuyết thời danh, Ngài làm hết sức để có thể cung ứng cho Giáo hội
các linh mục đầy đủ khả năng giảng dạy dân chúng.
Do
ảnh hưởng của Ngài mà Erasnius được đưa vào giảng dạy tiếng Hy lạp ở đại học
Cambrige Erasmus. Tôma More cũng đã trở thành bạn thân của Gioan Fisher. Năm
1516, có bản văn ghi chép về cả ba nhân vật này ở Rochester.
Ngài
Tôma More làm Tổng quản lý đại học Cambrige. Từ năm 1525 đến những năm sau đó
Tôma và Gioan Fisher hợp tác với nhau để đáp ứng người chống lại lạc thuyết của
Lutherô. Đức giám mục Gioan Fisher đã viết cuốn Confutatio (1523) bằng tiếng
Latinh. Đó là cuốn sách của thần học gia viết cho các thần học gia. Người tín hữu
(More) viết cuốn Dialogue concerning Heresies (1528) cho giới bình dân.
Năm
1527, năm định mệnh cho nước Anh vì là lúc, Henri VIII đi bước đầu, tới việc
tiêu hủy hôn nhân của ông với Catarina miền Atagon. Năm 1501 bà thành hôn với
Arthur, anh của vua. Nhưng được sáu tháng thì Athur từ trần. Năm 1509, đức Giáo
hoàng cho phép vua được thành hôn với người vợ goá của anh mình. Về sau, vì
không có con trai để nối dõi, ông tìm cách phá hủy hôn nhân này vịn cớ là phép
chuẩn của Đức Giáo hòang không thành. Đức Hồng y Wolsey hỏi ý kiến Đức cha
Gioan Fisher. Sau khi nghiên cứu đầy đủ đức giám mục kết luận là phép chuẩn của
Đức Giáo hoàng thành. Ngài giữ vững lập trường này mãi. Henry coi sự chống đối
này là như một hành vi bội phản.
Năm
1534 có luật thừa kế. Luật này tuyên bố rằng hôn phối với Catatina là vô hiệu
và hôn nhân với Anna Boleyn là hợp pháp. Quyền kế vị thuộc về con bà ta. Mọi
người phải thề nhận trọn đạo luật này. Đức giám mục Gioan Fisher từ chối. Tôma
More cũng vậy, bởi vì đạo luật bao hàm việc coi phép chuẩn của đức giáo hoàng
là bất thành.
Ngày
17 tháng 4 năm 1534, đức giám mục Gioan Fisher và Sir Tômas More bị xử tại
Tower và bị giam biệt ra. Ngày 20 tháng 5 năm 1535 đức giám mục Gioan Fisher được
phong làm hồng y . Điều này làm nhà vua giận dữ và vội vã lập toà án chống lại
đức tân hồng y.
Ngày
17 tháng 4 năm 1535, Ngài bị xử là bội phản. Ngày 17 tháng 6 năm 1535, Ngài bị
xử là bôi phản. Ngày 22, Ngài bị chém đầu, thân xác trần trụi của Ngài bi bỏ lại
pháp trường cho đến khi được chôn cất vội vã không một nghi thức tang lễ trang
Hallows. Đầu Ngài bị treo ở Lôndôn Bridge cho tới ngày 6 tháng 7 rồi bị ném xuống
sông Thames ... nhường chỗ cho đầu bạn Ngài là Tomas More.
******************
Ngày 22-06: Thánh TOMA MORE
Ngày 22-06: Thánh TOMA MORE
(1478
- 1535)
Thánh
Toma More sinh tại Luân Đôn ngày 06 tháng 2 năm 1478 trong một gia đình mà
chính Ngài đã nói: "Không danh giá nhưng lại lương thiện". Lên 12 tuổi,
Ngài giúp việc Đức Hồng Y Morton tổng giám mục giáo phận Canterbury. Hai
nămsau, Ngài được gởi học tại Ozford. Để cho Ngài chăm chú học hành, cha Ngài
đã giới hạn việc cung cấp tiền bạc đến nỗi Ngài không có tiền để sửa đổi giày.
Vào tuổi 15, Ngài bỏ Ozford tới Luân Đôn.
Ba
năm sau, tức năm 1493, Ngài gặp Eramus trong khi ông thăm viếng nước Anh lần đầu
tiên. Vừa học, vừa trắc nghiệm ơn kêu gọi tu trì trong bốn năm sống tại Luân
Đôn.
Cuối
cùng More quyết định rằng: Ngài không có ơn gọi sống bậc tu trì. Ngài bước vào
hôn nhân một cách đặc biệt, Ngài chọn cô em gái thứ xinh đẹp và dễ thương.
Nhưng rồi thấy rằng người chị sẽ đau khổ và xấu hổ nếu cô em lập gia đình trước.
Vì thế Ngài cưới cô chị. Họ sống với nhau được 4 năm thì bà vợ qua đời. Một năm
sau Tôma More tái hôn với người khác mà không có con. Người vợ mới hay nóng giận,
nhưng gia đình thật êm thắm.
Ba
người con gái cũng như người con trai của Ngài đều được giáo dục rất cẩn thận.
"Trong gia đình này không có ai làm biếng cả..."
Thực
tế các cô con gái Ngài thông minh đến nỗi được mời tới trước mặt vua để tranh
luận về triết học. Bầu khí gia đình hạnh phúc còn là nơi tụ tập của nhiều loại
người, từ những người yếu đau già cả tới những kẻ thông thái. Erasmus cũng là một
người bạn thân của gia đình này. Lần kia, khi được tin kho lúa bị thiêu rụi
Tôma có viết thư cho vợ: "Có lẽ chúng ta có lý do để cảm tạ Chúa vì sự mất
mát này hơn là về những cái chúng ta tích lũy được".
Và
Ngài cũng lo lắng cho hàng xóm.- "Anh không muốn còn đầy muỗm nếu một
trong số họ chịu thiệt thòi vì tai nạn xảy đến cho chúng ta".
Toma
More cũng viết cuốn Utophia, nói về một hòn đảo hạnh phúc đầy tưởng tượng. Ngài
cũng viết cuốn "Dialogue concerning Heresies" (Đối thoại về các lạc
thuyết). Danh tiếng của Ngài như một luật sư đã lôi kéo được sự chú ý của vua
Henry III. Vua thúc ép Ngài phục vụ triều đình. More bằng lòng và trở nên giàu
có. Được phong làm hiệp sĩ và năm 1523 được đặt làm phát ngôn viên của thư viện
thứ dân.
Tuy
nhiên năm 1527, nhà vua muốn chấm dứt đời sống hôn nhân với hoàng hậu Catarina
và cưới Anna Boleyn. Toma More trách cứ nhà vua và bị thải hồi. Một ngày kia bá
tước Norfolk thấy rằng: Ngài sẽ bị nguy hiểm nếu chống lại nhà vua. Nhưng bình
tĩnh Ngài trả lời: - Thưa Đức ông, tất cả có thể thôi sao ? Thực sự có điều này
khác biệt giữa Ngài và tôi là: Hôm nay tôi chết, nhưng Ngài cũng sẽ chết ngày
mai.
Ngày
12 tháng 4 năm 1534, Toma More được mời để tuyên thệ nhận Anna More Boleyn và từ
bỏ uy quyền của đức giáo hoàng, Ngài từ khước. 14 tháng tù ở là những ngày
tháng cầu nguyện chẳng khác gì nơi tu viện. Trước toà án Ngài nói: - Vương quốc
Anh không thể bất phục tòa thánh như một người con không thể bất phục cha mình.
Khi
nghe tuyên án tử hình Ngài nói: - Thánh Phaolô đồng loã với cái chết của
Stêphanô lại chẳng hợp nhất với Ngài trong cuộc sống vĩnh cửu sao ? Vậy, tôi sẽ
cầu nguyện tha thiết cho các lãnh Chúa đã kết án tôi, để ít ra chúng ta sẽ gặp
nhau trên trời sau này. Tôi cũng cầu xin Chúa toàn năng bảo vệ đức tin và gởi tới
cho Ngài một lời khuyên tốt đẹp.
Bình
thản, Ngài lên đường tới pháp trường, khi bước lên đoạn đầu đài, Ngài còn khôi
hài nói: - Lúc xuống, chỉ mình tôi thủ lợi.
Ngài
ôm người đao phủ và bảo: - Can đảm lên đừng sợ. Cổ tôi ngắn quá hãy cẩn thận vì
danh dự của anh ở đó.
Tự
bịt mắt, Ngài nằm lên đoạn đầu đài, vén râu lên Ngài nói: - Nó không phạm tội
phản bội. Thánh Toma More đã chịu chết như vậy ngày 6 tháng 7 năm 1535 với tất
cả trịnh trọng, vui tươi và đơn thành.
******************
Ngày 22-06: Thánh PAULINÔ NÔLANÔ
Ngày 22-06: Thánh PAULINÔ NÔLANÔ
(355
- 431)
Thánh
Paulinô sinh tại Bordeax khoảng năm 355. Cha Ngài là một pháp quan. Ngài được
thụ huấn với nhà hùng biện và thi sĩ Ausônô. Ngài được thừa hưởng rất nhiều đất
đai ở Gaule và Italia. Năm 378, Ngài trở nên danh tiếng trước pháp đình và được
đặt làm chánh án. Khi sang Tây Ban Nha thăm các lãnh địa của gia đình Ngài kết
hôn với Therasia, một thiếu nữ Tây Ban Nha và được hưởng thêm nhiều đất đai như
của hồi môn. Khoảng năm 389, Ngài lãnh phép rửa tội ở Bordeauz và bắt đầu một
cuộc đổi mới. Trước sự chán nản của Ausôniô và cơn thịnh nộ của gia đình, Ngài
và vợ cũng không ngần ngại sống tiết độ: lần lượt bán đất đai và phân phát lợi
nhuận cho dân nghèo. Chính Ngài chỉ mặc áo quần nghèo khó và ăn chay kham khổ.
Một
biến cố đau lòng dẫn Ngài tới sự thánh thiện lớn lao hơn đó là cái chết của đứa
con trai Ngài, Paulinô và Therasia toàn hiến cho Thiên Chúa. Họ giải phóng nô lệ,
bán hết của cải và phân phát cho người nghèo. Còn Paulinô từ giã nghị trường và
năm 394 hay là 395 chịu chức linh mục tại Barcelôna. Nhưng vì được kính phục ở
Tây Ban Nha, nên ít lâu s au, Ngài đã ẩn mình sang Nôla miền nam nước Ý. Còn một
ít đất đai ở đây, Ngài bán để xây một thánh đường dâng kính thánh Fêlixita.
Cuộc
sống khắc khổ của Ngài bị chê cười. Thánh Anmbrôsiô ghi nhận: - "Có nhiều
người theo thị hiếu của họ đã không ngạc nhiên gì khi chịu những thay đổi rất kỳ
dị. Vậy mà khi có một Kitô hữu quan tâm tới sự trọn lành mà thay đổi thói quen
của mình thì họ la lối giận dữ".
Thánh
Paulinô thường nói: - Phật lòng người để được lòng Chúa quả là một cuộc chạm
trán hồng phúc.
Thánh
Augustuinô cũng viết vào thời này: - Hãy đến Campania xem con người dòng dõi
quý quyền tài ba và giầu có; hãy xem lòng đại độ mà người tôi tớ Chúa Kitô đã tự
thoát để chiếm hữu Thiên Chúa. Hãy xem Ngài đã từ khước sự kiêu hãnh để ôm ấp sự
khiêm tốn của thập giá thế nào.
Để
trả lời những người thán phục đời nghèo khó tự nguyện của mình, thánh Paulinô
viết:
-
"Tôi ngạc nhiên khi người ta cho là có công một người mua ơn cứu rỗi đời đời
bằng những cái mau tàn, khi người ta ca tụng hắn vì việc đổi đất lấy trời.
Ngài
kêu gọi mọi người rộng tay bố thí: - "Sự nghèo khó của anh em bạn là một vốn
liếng cho bạn, nếu bạn lo lắng chi người nghèo khó túng thiếu.
Và
Ngài giải thích thêm: - Một người phải qua sông sẽ bơi tới bờ bên kia nếu biết
rũ bỏ áo quần và dùng mọi năng lực để chống lại dòng nước chảy.
Dầu
vậy còn phải biết tự chế nữa: - Hy sinh bề ngoài chẳng đáng kể. Hy sinh mà Chúa
đòi chính là sự hy sinh trong lòng .
Thán
phục, nhiều người muốn bắt chước thánh nhân. Nhà Paulinô trở thành một tu viện.
Ngài viết một cách đầy thú vị: - Chúng tôi tiến tới một đời sống tốt đẹp hơn và
khi lột bỏ gánh nặng trần gian, chúng tôi thấy như được gieo vào lòng một cái
gì thần linh và được mọc cánh như các thiên thần.
Năm
409, Paulinô được đặt làm giám mục Nôla. Cuộc xâm lược của người Goth gieo kinh
hoàng cho nước Ý. Họ cướp phá Rôma và bây giờ tàn phá Nola. Thánh Paulinô lấy
tiền của Giáo hội để mua chuộc các tù nhân, nâng đỡ những người bất hạnh. Rơi
vào hoàn cảnh khốn cùng, Ngài chỉ còn biết cầu nguyện: - Lạy Chúa, xin đừng để
con bị dày vò bởi tiền bạc vì chưa biết rõ của cải con hiện ở đâu.
Thánh
Gregoriô Cả còn gán cho thánh nhân một hành vi bác ái đầy quả cảm là bán mình để
chuộc lại đứa con bị tù đày của một bà góa. Nhưng có lẽ Ngài đã lầm với Đức
Paulinô III, giám mục Nôla thời chinh phục của người Vandales.
Cái
chết năm 431 của thánh Paulinô được nhân chứng Uraniô kể lại. Từ giường chết,
Ngài đã cử hành thánh lễ với hai giám mục đến thăm. 32 bài thơ và 51 lá thư của
Ngài vẫn còn tới ngày hôm nay.
(daminhvn.net)
22
Tháng Sáu
Romeo Và Juliet
Một
trong các vở tuồng bất hủ trên sân khấu kịch nghệ quốc tế phải kể là vở kịch
mang tựa đề "Romeo và Juliet" của nhà văn hào trứ danh người Anh, ông
William Shakespeare. Vở kịch này được sáng tác vào năm 1595, nhưng mãi cho đến
nay, khi vở kịch được phổ nhạc, được các ca sĩ nổi tiếng trình diễn, khán giả vẫn
nối đuôi nhau chờ mua vé để vào theo dõi một câu chuyện tình cảm động giữa hai
thanh niên nam nữ yêu nhau thắm thiết, nhưng đường tình duyên bị trắc trở không
thể tiến đến hôn nhân, vì chàng và nàng thuộc về hai gia đình có mối thù truyền
kiếp với nhau trong bối cảnh xã hội mang nặng đầu óc nuôi oán, báo thù tại
Italia thời trung cổ.
Sau
khi nàng Juliet đem câu chuyện tình ngang trái tỏ lộ cùng một vị linh mục và
cho ngài biết ý định sẽ cùng với Romeo thoát ly gia đình để tìm đến một phương
trời xa lạ xây tổ uyên ương, vị linh mục đề nghị nàng dùng phương thế uống một
thứ thuốc mê để giả chết. Sau đó ngài sẽ cứu sống nàng và giao cho Romeo đem
nàng đi. Kế hoạch này được giữ bí mật đến nỗi chính chàng Romeo cũng không hay
biết. Khi thấy người yêu đã vì mình dùng độc dược quyên sinh, chàng Romeo cũng
dùng gươm tự sát để đáp lại mối tình tuyệt vọng của người yêu. Khi thuốc mê đã
hết hiệu nghiệm, nàng Juliet tỉnh dậy thấy người yêu đang thoi thóp bên vũng
máu đào: tình yêu kêu gọi tình yêu, nàng cũng dùng gươm lết liễu phận bạc để
cùng chết với chàng.
Hình
như những câu chuyện tình thương tâm trong tuồng kịch hay tiểu thuyết nào cũng
kết thúc bằng trắc trở, chia ly, chết chóc. Dù bi ai, nhưng các câu chuyện ấy
cũng nói lên một phần nào sự thật. Ðó có lẽ là lý do tại sao trong các thiệp hồng
báo tin hôn lễ, các đôi trai gái tính chuyện trăm năm thường chọn và cho in
câu: "Tình yêu mạnh hơn sự chết".
Trong
các cuộc giao tế thường ngày giữa người với người hoặc trong mối quan hệ láng
giềng, bạn bè, kể cả cha mẹ, con cái, anh chị em trong gia đình hay giữa tình
thân, vợ chồng, chúng ta cần có những dấu chỉ biểu lộ ra bên ngoài để diễn tả
tâm tình yêu mến chất chứa bên trong: Từ những dấu chỉ đơn sơ, thi vị "yêu
nhau cởi áo cho nhau" đến chỗ hy sinh cả cuộc đời tận tụy, làm lụng vất vả,
gánh chịu những nhọc nhằn, chịu đựng tha thứ cho nhau "Một câu nhịn, chín
câu lành" đối với những người thân thương trong gia đình.
(Lẽ
Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét