28/06/2015
Chúa Nhật 13 Quanh Năm Năm B
(phần
I)
Bài Ðọc I: G Kn 1,
13-15; 2, 23-25
"Bởi ác quỷ
ghen tương, nên tử thần đột nhập vào thế gian".
Trích sách Khôn
Ngoan.
Thiên Chúa không tạo
dựng sự chết, chẳng vui mừng khi người sống phải chết. Người tác thành mọi sự
cho có. Người tạo dựng mọi sự trên mặt đất đều lành mạnh, chúng không có nọc độc
sự chết, và không có địa ngục ở trần gian.
Vì chưng, công
chính thì vĩnh cửu và bất tử. Thiên Chúa đã tạo dựng con người giống hình ảnh
Chúa, để sống vĩnh viễn. Nhưng bởi ác quỷ ghen tương, nên tử thần đột nhập vào
thế gian: kẻ nào thuộc về nó thì bắt chước nó.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 29, 2 và 4.
5-6. 11-12a và 13b
Ðáp: Lạy Chúa, con ca tụng
Chúa vì đã giải thoát con (c. 2a).
Xướng: 1) Lạy Chúa,
con ca tụng Chúa vì đã giải thoát con, và không để quân thù hoan hỉ về con. Lạy
Chúa, Chúa đã đưa linh hồn con thoát xa âm phủ; Ngài đã cứu con khỏi số người
đang bước xuống mồ. - Ðáp.
2) Các tín đồ của
Chúa, hãy đàn ca mừng Ngài, và hãy cảm tạ thánh danh Ngài. Vì cơn giận của Ngài
chỉ lâu trong giây phút, nhưng lòng nhân hậu của Ngài vẫn có suốt đời. - Ðáp.
3) Lạy Chúa, xin nhậm
lời và xót thương con. Lạy Chúa, xin Ngài gia ân cứu giúp con. Chúa đã biến đổi
lời than khóc thành khúc nhạc cho con; Lạy Chúa là Thiên Chúa của con, con sẽ
tán tụng Chúa tới muôn đời. - Ðáp.
Bài Ðọc II: 2 Cr 8, 7.
9. 13-15
"Sự dư thừa của
anh em bù đắp lại sự thiếu thốn của những anh em nghèo khó".
Trích thư thứ hai của
Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến,
cũng như anh em vượt trổi về mọi mặt: về lòng tin, về hùng biện, về sự hiểu biết,
về mọi hình thức nhiệt thành, cũng như về lòng bác ái của anh em, thì anh em
cũng phải vượt trổi trong việc phúc đức này.
Vì anh em biết lòng
quảng đại của Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta: mặc dù giàu sang, Người đã nên
thân phận nghèo khó, để nhờ việc nghèo khó của Người, anh em nên giàu có. Nhưng
không lẽ để cho kẻ khác được thư thái, mà anh em phải túng thiếu, nhưng phải
làm sao cho đồng đều. Trong hoàn cảnh hiện tại, sự dư giả của anh em bù đắp lại
chỗ thiếu thốn của họ, để sự dư giả của họ bù đắp lại sự thiếu thốn của anh em,
hầu có sự đồng đều như lời đã chép rằng: "Kẻ được nhiều, thì cũng không
dư; mà kẻ có ít, cũng không thiếu".
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 6, 64b và
69b
Alleluia, alleluia!
- Lạy Chúa, lời Chúa là thần trí và là sự sống; Chúa có những lời ban sự sống đời
đời. - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 5, 21-43
"Hỡi em bé, Ta
bảo em hãy chỗi dậy".
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu
đã xuống thuyền trở về bờ bên kia, có đám đông dân chúng tụ họp quanh Người, và
lúc đó Người đang ở bờ biển. Bỗng có một ông trưởng hội đường tên là Giairô đến.
Trông thấy Người, ông sụp lạy và van xin rằng: "Con gái tôi đang hấp hối,
xin Ngài đến đặt tay trên nó để nó được khỏi và được sống". Chúa Giêsu ra
đi với ông ấy, và đám đông dân chúng cũng đi theo chen lấn Người tứ phía.
{Vậy có một người đàn bà bị bệnh
xuất huyết đã mười hai năm. Bà đã chịu cực khổ, tìm thầy chạy thuốc, tiêu hết
tiền của mà không thuyên giảm, trái lại bệnh càng tệ hơn. Khi bà nghe nói về
Chúa Giêsu, bà đi lẫn trong đám đông đến phía sau Người, chạm đến áo Người, vì
bà tự nhủ: "Miễn sao tôi chạm tới áo Người thì tôi sẽ được lành". Lập
tức, huyết cầm lại và bà cảm thấy trong mình đã được khỏi bệnh. Ngay lúc ấy,
Chúa Giêsu nhận biết có sức mạnh đã xuất phát tự mình, Người liền quay lại đám
đông mà hỏi: "Ai đã chạm đến áo Ta?" Các môn đệ thưa Người rằng:
"Thầy coi, đám đông chen lấn Thầy tứ phía, vậy mà Thầy còn hỏi 'Ai chạm đến
Ta?'!" Nhưng Người cứ nhìn quanh để tìm xem kẻ đã làm điều đó. Bấy giờ người
đàn bà run sợ, vì biết rõ sự thể đã xảy ra nơi mình, liền đến sụp lạy Người và
thú nhận với Người tất cả sự thật. Người bảo bà: "Hỡi con, đức tin của con
đã chữa con, hãy về bình an và được khỏi bệnh".}
Người còn đang nói,
thì người nhà đến nói với ông trưởng hội đường rằng: "Con gái ông chết rồi,
còn phiền Thầy làm chi nữa?" Nhưng Chúa Giêsu đã thoáng nghe lời họ vừa
nói, nên Người bảo ông trưởng hội đường rằng: "Ông đừng sợ, hãy cứ
tin". Và Người không cho ai đi theo, trừ Phêrô, Giacôbê và Gioan, em
Giacôbê. Các Ngài đến nhà ông trưởng hội đường và Chúa Giêsu thấy người ta khóc
lóc kêu la ồn ào, Người bước vào và bảo họ: "Sao ồn ào và khóc lóc thế?
Con bé không chết đâu, nó đang ngủ đó". Họ liền chế diễu Người. Nhưng Người
đuổi họ ra ngoài hết, chỉ đem theo cha mẹ đứa bé và những môn đệ đã theo Người
vào chỗ đứa bé nằm. Và Người cầm tay đứa nhỏ nói rằng: "Talitha,
Koumi", nghĩa là: "Hỡi em bé, Ta truyền cho em hãy chỗi dậy!" Tức
thì em bé đứng dậy và đi được ngay, vì em đã được mười hai tuổi. Họ sửng sốt
kinh ngạc. Nhưng Người cấm ngặt họ đừng cho ai biết việc ấy và bảo họ cho em bé
ăn.
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Chia Sẻ Với
Những Người Túng Thiếu
Ðau khổ, bệnh tật, chết
chóc: bởi đâu đến? Diệt được không? Làm thế nào? Ba bài Kinh Thánh hôm nay gợi
lên nhiều suy nghĩ. Cho dù Lời Chúa chỉ dễ hiểu đối với những ai có lòng tin;
nhưng khách quan cũng có thể nâng đỡ suy nghĩ của con người. Ít ra đó cũng là
quan điểm của tác giả bài đọc I hôm nay.
A. Thiên Chúa Ðã Không
Làm Ra Sự Chết
Thật vậy, vào khoảng
nửa thế kỷ I trước khi Ðức Yêsu Kitô ra đời, một người trí thức Dothái sống lưu
lạc ở Alexandria, thủ đô văn hóa của thế giới Hylạp thời bấy giờ. Ông gặp gỡ
nhiều luồng tư tưởng triết học ngoại giáo. Họ luôn đề cập đến các sự dữ ở đời.
Họ chưa phân biệt như Gabriel Marcel sau này ở thời đại chúng ta, triết gia
công giáo này bảo không nên đặt sự dữ thành "vấn đề", vì nếu là vấn đề
thì phải có giải pháp; và rõ ràng cho đến nay không có giải pháp nào xóa bỏ được
sự dữ. Tốt hơn hãy coi nó là "mầu nhiệm", và đối với mầu nhiệm, con
người đừng tìm cách khắc phục nhưng hãy đưa mình vào để cảm nghiệm.
G. Marcel là triết
gia, nên nói tiếng nói của triết học. Tác giả đoạn sách Khôn ngoan hôm nay chỉ
là một người Dothái trí thức không biết luật pháp Môsê và mạc khải của Thiên
Chúa. Ông muốn đem Lời Chúa nói với những người chỉ quanh quẩn với các lý luận
triết học. Ông khẳng định không úp mở: Thiên Chúa không làm ra sự chết. Người
chỉ làm ra sự sống. Nơi Người chỉ có tích cực, đến nỗi Người chẳng vui gì khi
sinh linh hư diệt.
Như vậy thế giới
này là công trình của một ông thiện và một ông ác, của một thần lành và một thần
dữ như có thứ triết học chủ trương sao? Chắc chắn tác giả của chúng ta không
nghĩ như vậy. Quan niệm lưỡng nguyên coi vạn vật là con đẻ của hai nguyên lý
lành-dữ bị chính triết học phi bác, ít ra nơi những suy tư nghiêm chỉnh. Tác giả
là người Dothái có mạc khải của Thiên Chúa. Ông nhớ đến trang đầu tiên trong
sách Khởi nguyên nói rằng: Thiên Chúa dựng nên vạn vật và Người thấy chúng thật
tốt lành. Và ông viết: " Những gì được sinh thành ra trong vũ trụ đều
lương hảo". Ông diễn tả đúng niềm tin như Lời Chúa mạc khải.
Tuy nhiên ông phải
nói cho người Hylạp hiểu: vì sao lại có sự dữ, là đau khổ, bệnh tật và nhất là
sự chết? Sự chết bao trùm mọi sự dữ ở đời. Nó không có mặt trong trời đất khi
Thiên Chúa sinh thành vạn vật. Nó đã từ đâu tới để đến nỗi bây giờ nó gieo rắc
đau thương, bệnh tật và tang tóc ở mọi nơi? Nhất là nơi con người. Phải nói rằng
chỉ nơi con người ta sự chết mới được cảm nghiệm như là sự dữ. Và người ta lấy
tâm trạng của mình để phóng lên trên sự vật, khiến chúng ta có thể nói: người
buồn cảnh có vui đâu bao giờ.
Ở đây không phải là
chỗ để chúng ta tranh luận triết học. Nhưng người ta không sai lầm lắm đâu khi
quan niệm rằng chính ý thức về sự chết là sự dữ ở nơi mình mà con người đâm ra
nhìn thấy các khía cạnh tiêu cực nơi ngoại vật. Một em bé thơ ngây không dễ yếm
thế như những người đã có kinh nghiệm đau khổ. Ít ra chúng ta nên tập suy nghĩ
rằng: những sự dữ bên ngoài không quan trọng và chủ yếu như sự dữ ngay trong
con người chúng ta. Và có thể nói như thánh Phaolô: Tạo vật đang rên xiết vì
còn phải chờ ngày con cái Thiên Chúa xuất hiện nơi chúng ta. Hoặc như tác giả
hôm nay viết trong bài sách Khôn ngoan: Tử thần không có quyền bá chủ cõi trần
(khi cõi trần này được tạo dựng).
Vậy chhính con người
mang sự chết và bè lũ của nó là đau khổ, bệnh tật đến sao? Cũng không phải. Con
người linh ư vạn vật. Khi do Chúa tạo thành, con người cũng là tạo vật thật tốt
lành. Và phải tốt lành hơn mọi vật khác. Con người đã được dựng nên giống hình ảnh
tạo hóa, theo như bản chất của Người. Con người cũng phải bất hoại vì lẽ Thiên
Chúa không làm ra sự chết và Người không vui khi sinh linh hư diệt. Tác giả chỉ
tìm thấy nguyên do sự chết nơi con người trong mạc khải của chính Thiên Chúa. Ở
chương 3 sách Khởi nguyên, chúng ta đã được nghe biết về câu truyện cám dỗ và
sa ngã của nguyên tổ loài người. Vì tội lỗi của Adam-Evà mà sự chết đã xâm nhập
vào thế gian. Nó là hình phạt của tội lỗi. Và tội lỗi do tên cám dỗ mang lại.
Do đó tác giả viết: "Còn chết, có nhập vào trần gian, ấy là do quỷ đố kỵ".
Tác giả bài sách
Khôn ngoan đã chỉ vắn tắt lập lại giáo lý của sách Khởi nguyên, của truyện
Thiên Chúa dựng nên vạn vật và nhất là con người. Người đã sinh thành con người
tốt lành và bất tử, với điều kiện loài người không phạm tội. Nhưng chính vì
không trung thành với Người, Adam-Evà đã phạm tội và đã chuốc lấy hình phạt được
báo trước: đó là sự chết và bè lũ đi theo nó, là đau khổ và tật bệnh.
Tác giả có làmcho
các triết gia Hylạp suy nghĩ không? Ông đã làm phận sự của người dân có mạc khải
của Thiên Chúa. Dĩ nhiên chỉ ai có niềm tin mới biết đón nhận; nhưng khi con
người nhận thấy các suy tư của mình lúng túng trong những điều khó hiểu như các
thắc mắc về đau khổ, bệnh tật và chết chóc mà chúng ta thường gọi chung là sự dữ,
Lời Chúa có thể là ánh sáng cho những tâm hồn thiện chí và có khả năng nâng đỡ
suy tư của con người.
Chúng ta cám ơn
Chúa vì có sẵn đức tin. Chúng ta hôm nay hiểu hơn giáo lý về sự dữ. Chúng ta sẽ
bắt chước tác giả sách Khôn ngoan, khi có dịp đã không ngần ngại chia sẻ với mọi
người chung quanh niềm tin của mình để góp phần suy nghĩ với họ về mọi cái xảy
ra trong cuộc sống con người. Hơn nữa, nhờ bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta còn
có thể đi xa hơn. Sau khi đã biết sự chết bởi đâu đến, chúng ta còn được mạc khải
về đường lối giải thoát cứu độ.
B. Chúa Yêsu Kitô Ðã Cứu
Người Ta Khỏi Chết
Ít khi chúng ta thấy
các tác giả thánh lồng hai câu truyện vào với nhau như trong bài Tin Mừng hôm
nay. Có cả một câu truyện dài tường thuật việc một người phụ nữ khỏi bệnh lồng
trong câu truyện Chúa đến chữa một em bé sống lại. Câu truyện nào quan trọng
hơn? Nhất là có tương quan mật thiết nào giữa hai câu truyện không? Có thể nói
cả hai chỉ nhằm đề cao một chủ đề cho thấy hành trình của đức tin cứu độ.
Thật vậy, có một
nét chung rất bề ngoài của hai câu truyện. Người phụ nữ đã bị bệnh 12 năm và trở
thành nan trị. Em bé đó cũng 12 tuổi và đã chết. Cả hai trường hợp đều nói lên
tình trạng nan giải của nhân loại tội lỗi. Nhưng rồi cả hai đều đã được cứu
thoát nhờ việc tiếp xúc với Ðức Yêsu. Người phụ nữ thì rờ vào áo Người; còn em
bé thì được Người cầm tay đỡ dậy. Tuy nhiên điều mà có lẽ thánh Marcô muốn chú
trọng hơn cả trong hai câu truyện là từ tình trạng bệnh tật, chết chóc đến trạng
thái khỏe mạnh, sống vui, con người phải làm một cuộc hành trình đức tin.
Có lẽ vì vậy mà tác
giả đã dừng lại lâu ở trên đường đi. Và rõ ràng ông đã coi thường con đường bề
ngoài dẫn Ðức Kitô đi. Ông chú ý vào con đường tâm hồn dẫn người ta đến với Người.
Khởi đầu, ông Yairô
đến xin Người lại nhà ông đặt tay lên đứa con sắp chết. Lúc ấy Người đang ở giữa
đám đông. Không ai có thái độ nào khác thường đối với Người. Nhưng Yairô đã đến
sấp mình dưới chân Người. Ðó là cử chỉ thờ lạy; đó là hành vi đức tin, nổi bật
hẳn lên giữa đám đông chưa biết nhận ra con người thật của Ðức Kitô. Có thể niềm
tin kia còn mơ hồ vì Yairô đã xin Người đến nhà ông và đặt tay trên con bệnh.
Ông nhớ lại nhiều hình ảnh về các tiên tri. Có lẽ ông đã thấy nhiều pháp sư có
khả năng chữa bệnh như vậy. Dù sao ông đã có niềm tin. Và chút niềm tin này đủ
để Ðức Yêsu lên đường đi cứu độ.
"Người ta chen
cả vào Người", để Người thật sự là Ðấng Emmanuel tức là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-tôi;
và cũng để Người sống như mọi người và để người ta phải đón nhận Người trong
nhân tính khiêm cung khó nghèo.
Người phụ nữ bị bệnh
12 năm có niềm tin ấy. Bà coi thường luật "dơ và sạch" cấm bà động
vào người ta. Bà âm thầm nói lên niềm tin ở trong lòng trước khi sờ vào áo Người.
Bao nhiêu kẻ khác chen vào Người mà Người không để ý, nhưng ơn cứu độ ở nơi Người
đón nhận ai là kẻ có lòng tin đến với Người. Người cảm thấy mãnh liệt có một kẻ
tin đụng vào mình. Người là Ðấng được sai đến để "khơi nguồn và viên thành
đức tin" như lời thư Hipri nói. Thế nên Người lên tiếng, làm nổi khuôn mặt
của kẻ có niềm tin lên. Người suy tôn kẻ ấy và đồng thời muốn khơi dậy nhiều niềm
tin như vậy.
Khốn nỗi, thế gian
luôn muốn chọc phá công việc cứu độ của Thiên Chúa và dập tắt ngọn lửa lòng tin
mà Ðức Yêsu vừa nhóm lên. Người nhà viên trưởng hội đường đến báo tin em bé đã
chết rồi và bảo ông Yairô đừng phiền hà Ðức Yêsu nữa. Nếu không có phép lạ vừa
xảy ra cho người phụ nữ được khỏi bệnh; nếu không có những lời Ðức Yêsu vừa cổ
võ lòng tin của bà; và nhất là nếu không có chính lời Người giờ đây bảo ông: Ðừng
sợ, hãy tin mà thôi. Ông Yairô có lẽ đã theo lời người ta khuyên và đã xin Người
đừng mất công đến nhà ông làm gì nữa. Nhưng may Người đã "viên thành"
đức tin cho ông. Ông cứ để Người đi.
Người chỉ để cho
Phêrô, Yacôbê và Yoan đi theo. Người muốn cho ba môn đệ đặc biệt này được chứng
kiến một việc để sau này đức tin được nâng đỡ khi thấy Người rũ rượi cầu nguyện
nơi vườn Ghếtsêmani.
Thế gian lại đặt
thêm chướng ngại vật trên con đường đức tin. Những tiếng khóc lóc kêu la ầm ĩ
và nhất là những tiếng cười nhạo báng khi nghe Người nói: "Em bé chỉ ngủ
thôi", là tất cả những hình ảnh về sự thiếu lòng tin và sự cứng lòng tin của
thế gian muốn vây hãm và làm cản bước hành trình đức tin của những người đi
theo Ðức Yêsu.
Nhưng khi Người cầm
tay cho em bé đã nằm chết mà Người chỉ coi như đang "ngủ" được chỗi
"dậy" thì niềm tin của Người trở thành hoàn toàn. Nói đúng ra, niềm
tin vào Người sẽ chỉ hoàn toàn, khi người ta tin Người đã "ngủ" và chỗi
"dậy" trong mầu nhiệm tử nạn-phục sinh của Người. Khi ấy không những
người ta tin Người có phép làm cho kẻ chết sống lại, mà còn làm cho mọi kẻ tin
Người sẽ được sống đời đời. Bây giờ Người trở thành sự sống lại và sự sống cho
những ai tin Người. Người là Ðấng chiến thắng sự chết và cứu người ta khỏi đau
khổ đời đời. Và như vậy như lời Phaolô nói: Cũng như chỉ vì một người mà sự tội
đã đột nhập trần gian, và vì tội, thì sự chết nữa... Cũng vậy, công đức của một
người đã thành giải án tuyên công đem lại sự sống cho hết mọi người hết thảy
(Rm 5,12.18). Và bài sách Khôn ngoan hôm nay phải có bài Tin Mừng này mới đầy đủ.
Chúng ta cám ơn mạc khải của Thiên Chúa. Chúng ta tin vào Người là Ðấng đã chiến
thắng sự chết để đem lại sự sống đời đời cho chúng ta. Chúng ta hãy chia sẻ tin
vui mừng ấy với hết mọi người, đặc biệt với những người khổ đau. Và ở đây,
chúng ta được bài thư Phaolô hướng dẫn.
C. Chúng Ta Hãy Chia Sẻ
Với Những Người Túng Thiếu
Thánh Tông đồ
khuyên giáo dân Côrintô rộng rãi trong việc lạc quyên cho anh em tín hữu ở
Yuđêa. Sự việc nay đã qua rồi. Nhưng lý lẽ thánh tông đồ đưa ra vẫn luôn hợp thời.
Không phải giáo dân
Côrintô giàu có gì. Cho dù bấy giờ họ không gặp cảnh túng đói như tín hữu ở
Yêrusalem, nhưng dân Chúa ở mọi nơi vẫn là thành phần nghèo khó trong xã hội.
Tuy nhiên người có đức tin phải nhìn đời bằng cách khác. Cho dù về vật chất họ
có nghèo, nhưng về tinh thần và lòng đạo đức, họ là những người giàu có. Bởi vì
Ðức Yêsu Kitô đã trở nên nghèo khó để làm giàu cho họ. Người đã từ bỏ tất cả,
ngay đến bản thân mình trong mầu nhiệm thập giá, để trở nên giàu có mọi ơn
Thánh Thần cho những ai tin Người. Theo nguyên tắc, mọi tín hữu khi chịu phép Rửa
đã nhận được tất cả mọi Lời Hứa của Thiên Chúa. Họ được "trổi trang về mọi
mặt: về lòng tin, về lời nói, về trí tri, về sốt sắng mọi kiểu, về lòng mến...".
Họ có cả Nước Trời làm gia nghiệp. Thế thì họ không thể chật hẹp về lòng thương
. Có sẵn lòng chia sẻ với người túng thiếu hơn, họ mới tỏ ra biết quý hóa các
ơn cao trọng họ đang mang trong mình.
Chia sẻ bao nhiêu?
Thánh Tông đồ đáp: miễn sao có sự đồng đều! Không ai buộc làm cho kẻ khác được
thư thái, còn mình lại bị túng quẫn. Nhưng sự dư giả của mình phải đắp vào sự
thiếu thốn của người khác để rồi ra sự dư giả của họ sẽ bồi vào sự thiếu thốn của
mình, và như thế là có đồng đều.
Lập trường của
thánh Tông đồ như vậy rất rõ. Người có đức tin phải thấy mình được Thiên Chúa
ban cho quá nhiều ơn cao cả. Lòng họ phải rộng rãi. Họ phải biết sống chia sẻ,
làm sao trong anh em có sự đồng đều.
Một lập trường như
thế còn là lời kêu gọi chúng ta trong thế giới hiện nay mà các chênh lệch về của
cải đang tăng thêm nhiều đau khổ cho xã hội loài người. Ðó là kêu gọi đòi hỏi,
gắt gao. Chúng ta không dễ tự nguyện nghe theo. Phải nhìn vào gương Chúa Yêsu:
giàu có như Người mà vì chúng ta, Người đã trở nên nghèo khó ngõ hầu chúng ta
được nên giàu có nhờ sự nghèo khó của Người.
Giờ đây Người sắp
hiện diện giữa chúng ta trong mầu nhiệm bàn thờ. Người dùng bánh rượu là những
thứ thô sơ để làm dấu chỉ cuộc tử nạn phục sinh của Người. Người trở nên khó
nghèo trong mầu nhiệm Thánh giá và Thánh Thể này, để chúng ta được nhận lấy sự
sống của chính Thiên Chúa và mọi phúc lộc khác đi theo sự sống này. Chúng ta được
nên giàu có khác thường. Chúng ta phải rộng rãi, sẵn lòng chia sẻ với mọi người
để có sự đồng đều. Như vậy cũng chẳng tiêu diệt được hết các đau khổ, tật bệnh,
chết chóc của đời này đâu. Nhưng không kể phần hạnh phúc cụ thể mà sự chia sẻ của
chúng ta sẽ đem lại cho người này người khác, chúng ta còn chứng tỏ đã hiểu
nguyên do đích thực của sự chết và sự dữ, cũng như giải pháp đích thực cho các
đau khổ và sự chết đời đời nằm ở chân lý nào. Chúng ta hòa mình và sống trong
"mầu nhiệm" đau khổ chứ không chỉ nhìn các đau khổ ở đời như một
"vấn đề" triết học khách quan. Và chúng ta làm được như vậy nhờ có Lời
Chúa hôm nay.
Ðặc biệt, nhờ vào
lòng tin nơi Chúa Yêsu Kitô, đấng đã chiến thắng sự chết để ban cho chúng ta sự
sống hạnh phúc bất diệt. Chúng ta hãy sốt sắng dọn lòng trí đón nhận Người
trong mầu nhiệm cử hành giờ đây nơi bàn thờ.
(Trích dẫn từ tập
sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục
Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Chúa Nhật 13 Thường Niên, Năm B
Bài đọc: Wis 1:13-15, 2:23-24; II Cor
8:7, 9, 13-15; Mk 5:21-43.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thiên Chúa có toàn quyền trên
đau khổ và sự chết.
Theo Sách Sáng Thế,
Thiên Chúa dựng nên mọi sự đều tốt lành, và Ngài mong muốn cho mọi loài tồn tại;
nhưng con người luôn phải đương đầu với đủ loại đau khổ và cái chết. Câu hỏi được
đặt ra: Đâu là nguyên nhân của đau khổ và cái chết? Sách Sáng Thế tường thuật
biến cố cám dỗ và sự sa ngã của con người trong vườn Địa Đàng. Vì con người lạm
dụng quyền tự do để bất tuân lệnh Thiên Chúa và nghe lời quỷ dữ, nên tội lỗi và
sự chết đã đột nhập vào thế gian và tác hại trên con người.
Các Bài Đọc hôm nay
xoay quanh ý hướng và quyền năng của Thiên Chúa trong việc tạo dựng và quan
phòng vũ trụ. Trong Bài Đọc I, tác giả Sách Khôn Ngoan xác quyết: Thiên Chúa dựng
nên mọi sự đều tốt lành và tiền định cho muôn loài được trường tồn; nhưng quỉ dữ
cám dỗ con người và là nguyên nhân của đau khổ và sự chết. Trong Bài Đọc II,
thánh Phaolô kêu gọi các tín hữu Corintô giúp đỡ Giáo Hội tại Jerusalem để duy
trì sự sống trong trận đói đang xảy ra tại đây. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu chứng
tỏ Ngài có toàn quyền trên đau khổ và sự chết qua việc chữa lành người phụ nữ bị
loạn huyết và cho con gái ông Jairus sống lại.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thiên Chúa sáng tạo con người và
cho họ được trường tồn bất diệt.
1.1/ Thiên Chúa muốn
con người được sống trường sinh bất tử: Tác
giả Sách Khôn Ngoan, dựa theo trình thuật tạo dựng thế giới và con người trong
Sách Sáng Thế, quả quyết: Thiên Chúa dựng nên mọi sự đều tốt lành, không một
loài nào là xấu hay mang những nọc độc trong người. Vì Thiên Chúa tạo dựng, nên
mọi loài hiện hữu; nếu Thiên Chúa không tạo dựng, không loài nào có cả. Thiên
Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh của Ngài, và muốn cho con người được sống
trường sinh bất tử. Ngài không sáng tạo cái chết, cũng chẳng vui gì khi sinh mạng
tiêu vong.
1.2/ Lý do tại sao con
người phải chết: Tác giả Sách Khôn
Ngoan ý thức rõ sự hiện hữu của cái chết và cố gắng đi tìm nguyên nhân của nó,
vì Thiên Chúa không tạo dựng nên cái chết. Ông tìm ra nguyên nhân là:
"Chính vì quỷ dữ ganh tị mà cái chết đã xâm nhập thế gian. Những ai về phe
nó đều phải nếm mùi cái chết."
Sách Sáng Thế tường
thuật rõ ràng cám dỗ của quỉ dữ và sự sa ngã của con người trong vườn Địa Đàng.
Vì lý do này mà tội lỗi đã xâm nhập con người và làm cho họ phải chết. Sách
Sáng Thế cũng tường thuật sự lan tràn của tội lỗi nơi con người: Cain giết
Abel, em ông; Lụt Hồng Thủy là hậu quả của tội lỗi con người đã xúc phạm đến
Thiên Chúa quá nhiều; việc xây tháp Babel không thành vì Thiên Chúa làm cho con
người không hiểu nhau...
Không những nọc độc
của tội lan tràn và cư ngụ trong con người, mà tất cả các tạo vật của Thiên
Chúa đều bị ảnh hưởng bởi tội của con người. Trước khi phạm tội, con người sống
chung với muôn thú. Sau khi phạm tội, chúng rời xa con người. Nọc độc của rắn lửa
hay bò cạp, phản ứng hung hăng của muông thú, các thiên tai, động đất, bão lụt
... đều là những hậu quả từ sự phạm tội của con người.
2/ Bài đọc II: Người tín hữu phải có tinh thần
tương thân, tương ái.
Bối cảnh lịch sử của
Bài Đọc II là Phaolô muốn tổ chức cuộc lạc quyên để giúp các tín hữu tại
Jerusalem, đang chịu một nạn đói dữ dội. Thánh Phaolô muốn các tín hữu Corintô
hiểu lý do tại sao họ phải đóng góp; ông muốn họ rộng lượng giúp đỡ các anh/chị/em
đang lâm cảnh túng thiếu.
2.1/ Chúng ta phải
giúp đỡ mọi người trong cảnh túng thiếu: Ngài
cho họ ít là hai lý do để đóng góp:
(1) Đã nhận lãnh
nhưng không, cũng phải cho đi nhưng không: Ngài nói: "Cũng như anh em từng
trổi vượt về mọi mặt: về đức tin, lời giảng, sự hiểu biết, lòng nhiệt thành
trong mọi lãnh vực, và về lòng bác ái mà anh em đã học được nơi chúng tôi, thì
anh em cũng phải trổi vượt về lòng quảng đại trong dịp lạc quyên này nữa."
Thánh Phaolô muốn các tín hữu biết ngài đã hy sinh rất nhiều thời gian, tài
năng, và sức khỏe để giúp các tín hữu Corintô có đức tin và hiểu biết về Thiên
Chúa. Để trả ơn, họ phải hăng hái đóng góp cho các tín hữu tại Jerusalem.
(2) Gương của Đức
Kitô: Ngài nói: "Quả thật, anh em biết Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, đã
có lòng quảng đại như thế nào: Người vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở
nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên
giàu có." Ví dụ: Chúa chọn mang kiếp phàm nhân để chịu đau khổ, hầu mang lại
ơn cứu độ cho con người. Chỉ cần một ơn cứu tử này thôi, con người có hy sinh tất
cả những gì mình có cũng chưa báo đền được. Đó là chưa kể biết bao ơn lành Đức
Kitô mang lại cho con người qua cái chết của Ngài.
2.2/ Tha nhân sẽ giúp
lại khi chúng ta lâm cảnh khốn khó: Con
người ích kỷ thường kiếm đủ mọi lý do để biện minh cho việc từ chối đóng góp:
phải mua cái này, đang cần cái kia, phải để dành cho con cái ăn học, cần tiết
kiệm để lo cho tuổi già hay khi bệnh tật ... Thánh Phaolô biết rõ những điều
này, nên ngài cắt nghĩa: "Vấn đề không phải là bắt anh em sống eo hẹp để
cho người khác bớt nghèo khổ. Điều cần thiết là phải có sự đồng đều. Trong hoàn
cảnh hiện tại, anh em có được dư giả, là để giúp đỡ những người đang lâm cảnh
túng thiếu, để rồi khi được dư giả, họ cũng sẽ giúp đỡ anh em, lúc anh em lâm cảnh
túng thiếu. Như thế, sẽ có sự đồng đều, hợp với lời đã chép: Kẻ được nhiều thì
không dư, mà người được ít thì không thiếu."
Lịch sử xoay vần,
không ai sung sướng mãi, cũng như không ai khổ cực mãi. Kinh ngiệm của biến cố
30 tháng tư năm 1975 là một trường hợp điển hình: Cả thế giới xúc động về những
đau khổ của người tỵ nạn Việt-nam phải đổ xô ra biển cả để tìm đường sinh sống,
nên đã giúp đỡ đồng bào ta có nơi ăn, chốn ở, và định cư nơi quốc gia đệ tam.
Giờ đây, hầu hết chúng ta đã ổn định cuộc sống, chúng ta phải góp phần phát triển
các quốc gia đã giúp đỡ chúng ta: những người bản xứ nghèo, những người di dân
mới tới, những đồng bào bị thiên tai bão lụt trong nước. Làm ngơ trước những
nhu cầu này là vô ơn với Thiên Chúa và những người ân nhân của chúng ta. Hơn nữa,
cuộc đời chúng ta chưa hết, mọi sự khó đếu có thể xảy ra, ai sẽ giúp đỡ khi
chúng ta lâm nạn?
3/ Phúc Âm: Chúa Giêsu có toàn quyền trên sự
chết và sự đau khổ.
3.1/ Chúa làm cho con
gái ông Trưởng Hội Đường Jairus được sống lại: Trình thuật Chúa chữa con gái của ông được xen kẽ bởi trình thuật
Chúa chữa người đàn bà bị loạn huyết. Chúng ta sẽ phân tích 3 phản ứng trong
trình thuật này:
(1) Phản ứng của
ông Jairus Trưởng Hội Đường: Niềm tin của ông được biểu lộ qua hành động ông sụp
xuống dưới chân Ngài và khẩn khỏan nài xin: "Con bé nhà tôi gần chết rồi.
Xin Ngài đến đặt tay lên cháu, để nó được cứu thoát và được sống." Là một
Trưởng Hội Đường, ông Jairus phải là người có danh giá và địa vị; thế mà ông lại
sụp lạy công khai một nhà rao giảng mà các kinh sư và luật sĩ khinh thường. Thấy
niềm tin và lòng thương xót của ông dành cho con, Chúa Giêsu chấp nhận về nhà
ông để chữa lành em bé.
(2) Phản ứng của
Chúa Giêsu: Ngài muốn ông Jairus phải tiếp tục tin tưởng, ngay trong khi vừa
nghe hung tin về cái chết của con gái mình: "Ông đừng sợ, chỉ cần tin
thôi." Để dạy các môn đệ luôn tin tưởng và can đảm đối diện với cái chết,
Ngài không cho ai đi theo mình, trừ ông Phêrô, ông Giacôbê và em ông này là ông
Gioan.Người bắt tất cả những kẻ không có lòng tin ra ngoài hết, rồi dẫn cha mẹ
đứa trẻ và những kẻ cùng đi với Người, vào nơi nó đang nằm. Người cầm lấy tay
nó và nói: "Talitha qum," nghĩa là: "Này bé, hãy trỗi dậy
đi!" Lập tức em bé đứng dậy và đi lại được, vì nó đã mười hai tuổi. Mọi
người hiện diện sững sờ, kinh ngạc. Đức Giêsu ngiêm cấm họ không được để một ai
biết việc ấy, và bảo họ cho con bé ăn.
(3) Phản ứng của những
người chung quanh: Họ không tin Chúa Giêsu có uy quyền làm cho người chết sống
lại. Vì thế, có mấy người từ nhà ông trưởng hội đường đến bảo: "Con gái
ông chết rồi, làm phiền Thầy chi nữa?" Khi thấy Chúa Giêsu và các môn đệ
tiến vào nhà và Ngài bảo họ: "Sao lại náo động và khóc lóc như vậy? Đứa bé
có chết đâu, nó ngủ đấy!" Họ chế nhạo Người.
3.2/ Chúa chữa lành một
bà bị băng huyết 12 năm: "Có
một bà kia bị băng huyết đã mười hai năm, bao phen khổ sở vì chạy thầy chạy thuốc
đã nhiều đến tán gia bại sản, mà vẫn tiền mất tật mang, lại còn thêm nặng là
khác."
(1) Phản ứng của bà
bị băng huyết: Bà đã nghe đồn về Chúa Giêsu, và đây là cơ hội ngàn năm một thuở
để Bà xin Chúa cứu. Tại sao Bà không can đảm đến xin Ngài chữa lành mà lại sờ
vào tua áo của Ngài? Có ít nhất hai lý do ngăn cản Bà: Thứ nhất, đây là thứ bệnh
đàn bà, có lẽ Bà cảm thấy xấu hổ khi phải thú nhận bệnh của Bà trước đám đông
chăng? Hơn nữa, Bà cũng muốn tránh cho Chúa khỏi phải trở nên không sạch, vì Lề
Luật ngăn cấm không cho đụng tới những người có bệnh như thế. Thứ hai, Chúa
Giêsu đang bận rộn trên đường đi chữa bệnh, và cả một đám đông chen lấn theo
sau Ngài; làm sao một phụ nữ yếu đuối như Bà có thể chen lại đám đông? Vì thế,
Bà tự nhủ: "Tôi mà sờ được vào áo Người thôi, là sẽ được cứu." Với niềm
tin đó, Bà chạy theo và sờ vào tua áo Chúa; tức khắc, máu cầm lại, và bà cảm thấy
trong mình đã được khỏi bệnh.
(2) Phản ứng của
Chúa Giêsu: Ngay lúc đó, Đức Giêsu thấy có một năng lực tự nơi mình phát ra,
Người liền quay lại giữa đám đông mà hỏi: "Ai đã sờ vào áo tôi?" Và Đức
Giêsu ngó quanh để tìm người đã làm điều đó. Đây là giây phút giao linh giữa
người được tin và người tin. Giống như tình yêu, hai kẻ yêu nhau không cần phải
nói; chỉ một hành động được làm từ một trong hai người, họ có thể hiểu tình yêu
người khác dành cho mình. Người đàn bà loạn huyết sợ phát run lên, vì Bà không
ngờ hành động bí mật của Bà bị phát hiện. Bà đến phủ phục trước mặt Người, và
nói hết sự thật với Người. Tưởng rằng Ngài sẽ la mắng Bà, nhưng Chúa Giêsu nói
với Bà: "Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và
khỏi hẳn bệnh."
Trình thuật này phải
giúp chúng ta tin tưởng vững mạnh vào Ngài khi mang bệnh phần hồn cũng như phần
xác. Chúa thấu hiểu sức mạnh của lòng tin chúng ta dành cho Ngài, và Ngài sẽ
ban ơn cần thiết để chữa lành. Ngài cũng thấu hiểu mọi bí mật trong tâm hồn
chúng ta; vì thế, chúng ta hãy thú nhận và đừng giấu diếm chi cả. Chúng ta sẽ
hưởng được bình an thực sự khi làm như thế.
(3) Phản ứng của
các môn đệ: Các môn đệ dùng sự suy nghĩ của con người để thưa với Chúa:
"Thầy coi, đám đông chen lấn Thầy như thế mà Thầy còn hỏi: ''Ai đã sờ vào
tôi?" Khi nói như thế, các môn đệ đã tỏ vẻ khinh thường Thầy mình, và
không hiểu những gì xảy ra trong lãnh vực đức tin. Phản ứng của Chúa Giêsu hôm
nay phải dạy chúng ta biết thận trọng khi phán xét những điều thuộc lãnh vực
tinh thần. Đừng bao giờ lấy sự khôn ngoan con người để phán xét những sự thuộc
về Thiên Chúa; nhưng phải biết khiêm nhường và lấy đức tin để hiểu những sự thuộc
về Thiên Chúa và phán xét tha nhân.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Thiên Chúa có
toàn quyền trên sự chết và sự đau khổ
- Chúng ta phải cộng
tác với Thiên Chúa trong việc bảo vệ sự sống và tiêu diệt sự chết.
- Để bảo vệ sự sống,
chúng ta phải can đảm sống theo nền "văn minh tình thương" và loại bỏ
nền "văn hóa sự chết," như lời ĐGH Gioan-Phaolô II kêu gọi.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
28/06/2015 - CHÚA NHẬT TUẦN 13
TN – B
Mc 5,21-24.35-43
CHỈ CẦN TIN THÔI
“… đừng sợ, chỉ cần tin thôi”
(Mc 5,37)
Suy niệm: Nick Vujicic, một người
Úc gốc Serbia từ khi sinh ra đã không có tay và chân. Từ nhỏ anh đã từng tuyệt
vọng và có ý định tự tử, nhưng nhờ tình thương của cha mẹ và nhờ đức tin, anh
đã vượt qua mọi trở ngại của một người khuyết tật và sống rất lạc quan. Anh đi
khắp thế giới để làm chứng về niềm tin vào Đức Giê-su của mình. Trong lần đến
Việt Nam vào ngày 23/5/2013, trên sân vận động Mỹ Đình Hà Nội, anh đã lớn tiếng
tuyên xưng niềm tin đó trước hàng ngàn khán giả. Anh đã sống niềm tin của mình
cách thiết thực nhất, đó là sự tin tưởng, tha thứ và yêu thương. Khi Chúa
Giê-su chữa lành người phụ nữ bị băng huyết đã mười hai năm và cho con gái ông
trưởng hội đường đã chết được sống lại, chính Ngài đã xác quyết điều này: “…đừng
sợ, chỉ cần tin thôi”.
Mời Bạn: Trong cuộc sống hằng ngày, những thử thách của bệnh tật và đau
khổ luôn làm chúng ta lo lắng và mất niềm tin vào Chúa. Chúng ta cũng thường bị
cám dỗ đi tìm lời giải đáp ở những việc mê tín dị đoan. Chính Chúa đang mời gọi
bạn hãy sống phó thác và đặt trọn niềm tin vào Ngài.
Chia sẻ: Bạn đã từng bị thử thách trong
đời sống đức tin. Mời bạn chia sẻ: cảm nghiệm của bạn trong hoàn cảnh đó. Bạn
đã vượt qua những thử thách đó thế nào?
Sống Lời Chúa: Khi gặp thử thách, đau khổ, bạn tâm niệm Lời Chúa: “Mọi âu lo,
hãy trút cả cho Người, vì Người chăm sóc anh em” (1 Pr 5,7).
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, giữa những
gian lao và thử thách của cuộc sống, xin ban cho con thêm sức mạnh và đức tin;
để con có đủ can đảm sốngphó thác và đặt trọn niềm tin nơi Chúa. Amen.
(5 Phút Lời Chúa)
ĐỤNG
ĐẾN ÁO
Cần có lòng tin khi đụng chạm Chúa Giêsu. Cần nhạy
cảm để nhận ra cái đụng nhẹ của Ngài. Chỉ cần để Chúa đụng đến bạn một lần
thôi, đời bạn sẽ hoàn toàn đổi mới.
Suy niệm:
Giữa đám đông chen lấn chung
quanh Ðức Giêsu,
có những người đụng vào áo
Ngài.
Nhưng chỉ có một cái đụng cố
ý,
đụng lén như sợ bị bắt quả
tang.
Ðó là cái đụng của một người
phụ nữ,
mười hai năm mắc bệnh băng
huyết,
mười hai năm tìm thầy chạy
thuốc mà không khỏi,
mười hai năm bị coi là ô
nhơ:
không được đụng đến người
khác,
không được tham dự nghi lễ ở
Ðền thờ.
Người phụ nữ đụng vào áo Ðức
Giêsu
bằng tay và bằng lòng tin,
một lòng tin đơn sơ mà mạnh
mẽ.
“Dầu tôi chỉ đụng vào áo
Ngài, tôi sẽ được khỏi”.
Cái đụng của lòng tin đã cứu
bà khỏi bệnh.
Trong đời sống Kitô hữu,
chúng ta đã nhiều lần đụng
vào Chúa.
Ðụng đến Lời Ngài, đụng đến
Mình Máu Thánh Ngài.
Ðụng bằng tay, bằng miệng,
bằng rung động của trái tim.
Có những lần đụng chạm hời
hợt vì thói quen,
không để lại một âm vang
nào,
không đem lại một biến đổi
nào trong cuộc sống.
Nhưng cũng có lần, như người
phụ nữ,
ta run rẩy đụng vào Ngài, dù
biết mình ô nhơ tội lỗi.
Hay nói đúng hơn,
vì biết mình ô nhơ tội lỗi
mà ta cả dám đụng vào Ngài.
Ðụng vào Ðấng Thánh để được
nên trong sạch.
Chúng ta cần đụng đến Ðức
Giêsu mỗi ngày
và chúng ta cũng cần được
Ngài đụng đến.
Ông trưởng hội đường xin
Ngài đặt tay trên con mình.
Ngài đã cầm tay cô bé để kéo
cô ra khỏi cái chết.
Như con gái của ông trưởng
hội đường,
chúng ta cần được Chúa cầm
tay và bảo: “Hãy trỗi dậy”.
Trỗi dậy khỏi bệnh tật và
cái chết.
Trỗi dậy và đi lại, ăn uống
như người bình thường.
Trỗi dậy và sống vui tươi,
tự do như con cái Thiên Chúa.
Hai phép lạ xảy ra nhờ có
lòng tin.
Ðức Giêsu xác nhận lòng tin
vững vàng của người phụ nữ:
“Này con, lòng tin của con
đã cứu chữa con” (c.34).
Ngài nâng đỡ lòng tin đang
chao đao của Giairô:
“Ông đừng sợ, chỉ cần tin
thôi” (c.36).
Cần có lòng tin khi đụng
chạm Chúa Giêsu.
Cần nhạy cảm để nhận ra cái
đụng nhẹ của Ngài.
Khi đụng vào Thân Mình Ngài
nơi bí tích Thánh Thể,
ta được mời gọi đụng đến nỗi
khổ của anh em,
là những chi thể của Nhiệm
Thể Ngài.
Khi đụng đến Lời Chúa nơi
những trang Tin Mừng,
ta được mời gọi chạm đến Lời
Chúa nơi mọi biến cố.
Chỉ cần để Chúa đụng đến bạn
một lần thôi,
đời bạn sẽ hoàn toàn đổi
mới.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
dân làng Nazareth đã không
tin Chúa
vì Chúa chỉ là một ông thợ
thủ công.
Các môn đệ đã không tin Chúa
khi thấy Chúa chịu treo trên
thập tự.
Nhiều kẻ đã không tin Chúa
là Thiên Chúa
chỉ vì Chúa sống như một con
người,
Cũng có lúc chúng con không tin Chúa
hiện diện dưới hình bánh
mong manh,
nơi một linh mục yếu đuối,
trong một Hội thánh còn
nhiều bất toàn.
Dường như Chúa thích ẩn mình
nơi những gì thế gian chê
bỏ,
để chúng con tập nhận ra
Ngài
bằng con mắt đức tin.
Xin thêm đức tin cho chúng con
để khiêm tốn thấy Ngài
tỏ mình thật bình thường
giữa lòng cuộc sống.
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
28 THÁNG SÁU
Sự Quan Phòng Của
Thiên Chúa: Một Xác Nhận Nền Tảng
Việc tách biệt công
cuộc sáng tạo khỏi sự quan phòng thần linh (thuyết tự nhiên thần giáo) và việc
phủ nhận hoàn toàn sự hiện hữu của Thiên Chúa (thuyết duy vật) mở ngõ cho sự
sai lầm của thuyết tất định duy vật (materialistic determinism). Ở đây con người
và đời sống của con người trở thành hoàn toàn phụ thuộc vào một tiến trình phi
ngã. Đối đầu với những tấn công này, chân lý về sự hiện hữu của Thiên Chúa và về
sự quan phòng thần linh của Ngài giúp bảo đảm cho con người sự tự do và chỗ đứng
của mình trong vũ trụ.
Chúng ta nhận thấy
sự thật này được khẳng định trong Cựu Ước. Chẳng hạn, Thiên Chúa được xem như một
sự đỡ nâng mạnh mẽ và không gì có thể tiêu diệt được: “Con yêu mến Ngài, lạy
Chúa là sức mạnh của con; lạy Chúa là núi đá, là thành lũy, là Đấng giải thoát
con; lạy Thiên Chúa con thờ, là núi đá cho con trú ẩn, là khiên mộc, là Đấng cứu
độ quyền năng, là thành trì bảo vệ!” (Tv 18, 2-3). Thiên Chúa là nền tảng vững
chắc để con người có thể tựa vào, như lời tác giả thánh vịnh thốt lên đầy xác
tín: “Lạy Chúa, số mạng con, chính Ngài nắm giữ” (Tv 16, 5).
Sự quan phòng của
Thiên Chúa là lời xác nhận hùng hồn của Ngài đối với tạo vật, nhất là đối với
con người – triều thiên của mọi tạo vật. Sự quan phòng ấy đảm bảo quyền cai quản
tối cao của con người trong thế giới này. Điều này không có nghĩa rằng các qui
luật tự nhiên bị quyền cai quản tối cao của con người xóa bỏ. Trái lại, nó có
nghĩa rằng chúng ta phải loại trừ thuyết tất định duy vật kia – một chủ thuyết
giảm trừ toàn bộ sự hiện hữu của con người đến chỉ còn như một cái gì hoàn toàn
tất định. Trong thực tế, một cái nhìn như vậy sẽ hủy diệt sự tự do chọn lựa của
con người.
Thiên Chúa – trong
sự quan phòng của Ngài – chính là sự đỡ nâng tối thượng cho sự tự do của chúng
ta. Đó là điều tốt lành và quí hóa biết bao!
- suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 28-6
Chúa Nhật XIII Thường
niên
Kn 1,
13-15;2,23-24; 2Cr 8, 7.9.13-15; Mc 5, 21-43
LỜI SUY NIỆM: “Này con, lòng tin của
con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẵn bệnh.”
Trong cả hai phép lạ
đã được Chúa Giêsu thực hiện, cho chúng ta thấy được quyền năng của Chúa luôn
luôn là sẵn sàng ban cho những ai đặt trọn niềm tin vào Chúa. Trong việc người
con gái của ông trưởng hội đường được sống lại và người mang bệnh loạn huyết được
chữa lành đều do có lòng tin, dù cả hai đều đến với Chúa với sự bất toàn, sau
những thất bại của họ; nhưng đối với Chúa, Chúa không quan tâm đến điều đó, cho
dù là cái bất toàn của chúng ta đi nữa. Nhưng khi con người tin vào Chúa và chạy
đến với Chúa; Thì với Chúa, Chúa cũng sẽ làm cho nó thành toàn.
Lạy Chúa Giêsu. Xin
cho chúng con luôn nhận ra bản thân chúng con, ý muốn và những lời cầu xin của
chúng con đều bất toàn trước mặt Chúa. Nhưng xin cho mọi thành viên trong gia
đình chúng con luôn trông cậy và đặt trọn niềm tin vào Chúa. Để chúng con nhận
được mọi ơn lành của Chúa ban.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày
28-06: Thánh IRENÊ
Giám mục, Tử Đạo
(Thế kỷ II)
Thánh Irenê sinh tại
Tiểu Á và giữa thế kỷ II. Chúng ta biết được phần nào ngày sinh của Ngài, dựa
vào bản tường thuật Ngài viết về thánh Policarpô. Ngài viết cho Flôrinô:
- "Tôi có thể nói
với ông nơi thánh Pôlicarpô ngồi khi Ngài rao giảng lời Chúa, tôi được thấy Người
ra vào. Bước chân, phong thái, cách sống và lời Ngài nói in sâu vào lòng tôi.
Tôi như còn nghe thấy Người kể lại cách người đàm luận với thánh Gioan và các
tông đồ khác đã thấy mặt Chúa. Người nói lại cho chúng tôi những lời nói và những
điều các Ngài đã học được liên quan đến Chúa Giêsu. Các phép lạ và giáo thuyết
của Chúa.
Thánh Irenê còn phấn
khởi ghi thêm: - "Tôi ghi nhận các hành vi và lời nói ấy không phải trên bảng
viết mà là trong sâu thẳm tâm hồn. Thiên Chúa cho tôi được ơn không ngừng nhớ lại
những kỷ niệm ấy trong lòng".
Như vậy, thánh
Irenê luôn nhớ mãi hình ảnh sống động của thánh Policarpô qua đời năm 155. Vậy
có thể là thánh Irenê ra đời khoảng từ năm 130 đến 135, và Ngài được giáo dục tại
Smyrna, làm môn đồ của thánh Pôlicarpô. Hấp thụ nền giáo dục gần với các tông đồ.
Nhất là với thánh Gioan, thánh Irenê còn ở trong vòng ánh sáng mà tâm điểm là
tình yêu đằm thắm giữa thánh Gioan với Chúa Kitô. Trong tác phẩm dài
"Adversus Haereses" của Ngài. Chúng ta cảm thấy Ngài là người được thấm
nhiễm một trực giác hiếm có.
Thánh Pôlicarpô gọi
Irênê sang Gaule. Tại đây thánh Pôthinô, giám mục Lyon phong chức linh mục cho
Ngài. Phần đóng góp của thánh Irenê cho Giáo hội thật lớn. Ngài chú tâm tới mọi
khoa học, chuyên cần suy gẫm thánh kinh. Khi nghiên cứu huyền thoại và các hệ
thống triết học ngại giáo, Ngài biết tìm ra nguồn gốc các sai lầm và bác bỏ các
lạc thuyết pha trộn huyền thoại vào Kitô giáo. Tertulianô đã tuyên nhận rằng
không có ai nỗ lực tìm tòi hơn là thánh Irênê. Thánh Hiêrônimô, nại đến thánh
nhân để củng xố uy tín của mình. Ngài được coi như là ánh sáng các vùng Gaules ở
Phương Tây.
Năm 177, thánh
Irenê được cử làm đại diện về Rôma, bên cạnh Đức giáo hoàng để thực hiện một sứ
mệnh tế nhị là dàn xếp ngày mừng lễ phục sinh
Trở lại Lyon, thánh
Irênê gặp lại một giáo đoàn côi cút. Marcô Aureliô vừa mới giết hại các Kitô hữu.
Đức cha Pothinô đã bị sát hại. Thánh Irenê được bầu lên kế vị. Ngài trở thành
thủ lãnh Giáo hội tại xứ Gaule, bận rộn với công việc rao giảng, thánh nhân vẫn
viết sách để chống đỡ chân lý. Ngài phải chiến đấu không ngừng, bởi vì cuộc
bách hại tưởng chấm dứt khi Marcô Aureliô qua đời, nhưng các lạc giáo lại nổi
lên chống phá Giáo hội.
Thánh Irenê dùng hết
tâm trí và đức tin chống lại các lạc thuyết nhưng vẫn yêu thương những lẻ lầm lạc,
Ngài cầu nguyện cho họ van nài họ trở về với Giáo hội thật:
- "Hợp nhất với
Chúa là sự sống và là Sự sống .... Khốn khổ cho ai lìa xa sự hợp nhất ấy. Hình
phạt đổ xuống họ không phải do Thiên Chúa mà do chính họ, vì khi chọn quay mặt
khỏi Thiên Chúa, họ đánh mất mọi tài sản".
Các tác phẩm lừng
danh Ngài đã soạn khiến cho Ngài đang được gọi là "Anh sáng bên trời
Tây".
Dưới sự dẫn dắt của
thánh Irênê, Lyon đã trở thành một trường dạy phụng sự Chúa đào tạo nhà tri thức
và có khả năng truyền giáo. Thế hệ đầu tiên của trường đã bảo vệ đức tin tinh
tuyền bằng những nghiên cứu và sách vở của họ. Thế hệ thứ hai phổ biến Tin Mừng
đến những miền khác.
Hoàng đế Seltinô -
Severô tái diễn cuộc bách hại. Ông gia hình cho đến chết những ai kiên trì với
đức tin. Lyon là thành phố diễn ra cuộc hãm xác tập thể các Kitô hữu thật khủng
khiếp. Máu chảy thành suối trên đường phố tiếp nối dòng máu các giám mục tử đạo,
thánh Irênê, cũng bị hạ sát với đàn chiên mình. Một tài liệu cố tìm được cho thấy
có đến 19 ngàn Kitô hữu cùng chịu khổ chịu chết vì đạo với Ngài.
(daminhvn.net)
28 Tháng Sáu
Ngợi Khen Con Người
Trong tập thơ có tựa
đề "Nhật ký", nữ thi sĩ công giáo Pháp là Marie Noel đã tưởng tượng
ra một mẩu chuyện như sau: Hôm đó là ngày cuối năm. Từ trên Thiên Quốc nhìn xuống
dương trần, Chúa thấy dân chúng đổ xô về một ngôi nhà thờ đổ nát, không có
chuông, cũng chẳng có tháp chuông. Vị linh mục già đành phải khua mõ vào bất cứ
đồ vật nào có thể gây ra tiếng vang để giục giã dân chúng đến giáo đường đọc
Kinh "Te Deum" ngợi khen Cúa nhân ngày cuối năm.
Trời mưa lạnh như cắt.
Vậy mà, từ khắp nơi trong xóm giáo, người ta vẫn đổ xô về ngôi giáo đường. Chúa
theo dõi từng cử động một của một người đàn bà đơn độc mà ngôi nhà vừa bị thiêu
rụi trong một trận hỏa hoạn. Chúa lại nhìn thấy một thiếu phụ mà cách đó không
lâu bọn Ðức Quốc Xã đã tước đoạt mọi tài sản. Một người đàn bà khác, mà chồng
đã bị giết trước mắt, cũng lặng lẽ tiến đến nhà thờ. Có cả thiếu phụ mất con mà
người ta không tìm ra tung tích. Có cả người đàn ông mà vợ và con bị chôn vùi
dưới đống gạch vụn... Còn bao nhiêu người khốn khổ khác nữa. Họ không biết đi
đâu, họ không có gì để ăn bởi vì quân thù đã đốt phá và cướp đi tất cả những
lương thực dự trữ.
Vậy mà những người
khốn khổ ấy có mặt đày đủ trong ngôi giáo đường. Có một vài tiếng khóc. Nhưng tất
cả đều cất tiếng hát bài "Te Deum" ngợi khen Chúa trong ngày cuối năm
vì những ơn huệ Ngài ban trong năm qua.
Nhìn thấy cảnh tượng
ấy cũng như lắng nghe lời ca ngợi của những con người khốn khổ, Thiên Chúa vô
cùng cảm động. Ngài nói với các Thiên Thần như sau: "Quả thực, quả thực,
Ta bảo các ngươi: con người là loài thụ tạo thánh thiện. Các ngươi hãy nhìn xuống
đám người đáng thương kia. Cách đây 12 tháng, họ đã phó dâng cho Ta cả năm để
được hạnh phúc, an khang. Vậy mà tai ương và thảm sầu đã xảy đến với họ... Họ
đã kêu cầu bình an, nhưng chiến tranh đã đè bẹp họ. Họ đã xin lương thực hằng
ngày, nhưng họ chỉ toàn gặp là đói khát. Họ đã phó dâng cho ta gia đình, người
thân và tổ quốc của họ, nhưng tổ quốc, gia đình và người thân của họ lại bị xâu
xé trăm bề. Dĩ nhiên, Ta có những lý do riêng của Ta... Ta không thể thanh tẩy
thế giới mà không thể thử thách nó như thời Noe. Nhưng đây là công việc của một
Thiên Chúa, không ai có thể hiểu được việc Thiên Chúa làm. Nhưng con người lại
phải gánh chịu mọi sự. Vậy mà họ vẫn tiếp tục ngợi khen và cảm tạ Ta cứ như Ta
đã bảo vệ họ trong từng phút giây của cuộc sống họ... Quả thực, lòng tin của họ
lớn lao... Các ngươi có nghe họ hát "Thánh, thánh" với tất cả trang
trọng không? Hỡi các Thiên Thần và các Thánh, nào các ngươi hãy hát lên một bài
ca để tôn vinh những ai, mặc dù gặp gian lao khốn khó, vẫn lên tiếng tôn vinh
Ta".
Nói xong, Thiên
Chúa cùng với các thần thánh trên trời cất lên bài ca "Ngợi khen con người".
Thiên Chúa là Tình
Yêu, Ngài không thể không say mê con người, Ngài không thể không chung thủy với
con người. Giữa muôn ngàn khó khăn của cuộc sống hiện tại và những khắc khoải
lo âu cho tương lai, chúng ta hãy tiếp tục dâng trọn niềm tín thác cho Thiên
Chúa.
Tin tưởng ở tình
yêu Thiên Chúa, chúng ta tin tưởng ở tình người. Tình người dù có bội bạc, mỗi
một con người, dù có đốn mạt, xấu xa đến đâu, cũng vẫn còn chất chứa trong đáy
thẳm tâm hồn mình vẻ đẹp cao vời phản ảnh chính tình yêu của Thiên Chúa. Ðáp lại
với những phản trắc lừa đảo, đáp lại với những thấp hèn đê tiện, người có niềm
tin nơi Thiên Chúa và tin ở tình người hãy giữ mã
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét