14/07/2015
Thứ Ba sau Chúa Nhật
15 Quanh Năm
Bài
Ðọc I: (Năm I) Xh 2, 1-15a
"Bà
đặt tên cho trẻ là Môsê, vì vớt nó dưới nước lên; và khi đã khôn lớn Môsê đi
thăm anh em".
Trích
sách Xuất Hành.
Trong
những ngày ấy, có một người đàn ông thuộc nhà Lêvi đi cưới vợ cũng trong chi tộc
mình. Nàng mang thai và sinh hạ một con trai. Thấy con trẻ khôi ngô tuấn tú,
nàng giấu kín trong ba tháng. Khi thấy không thể nào giấu kín được nữa, nàng liền
lấy chiếc thúng trét nhựa thông, rồi bỏ đứa trẻ vào trong, đem thả trong đám sậy
ở bờ sông. Chị đứa bé đứng xa xa để quan sát sự việc xảy ra thế nào.
Bấy
giờ có công chúa con Pharaon xuống tắm dưới sông, còn các nữ tỳ đi bách bộ theo
bờ sông. Khi thấy cái thúng mây ở giữa bụi sậy, nàng sai một nữ tỳ xuống vớt
lên, vừa mở ra, thấy một trẻ nam nằm khóc trong đó, nàng thương hại và nói:
"Ðây là đứa trẻ Do-thái". Bấy giờ chị đứa trẻ thưa với công chúa rằng:
"Bà có muốn tôi đi tìm cho bà một phụ nữ Do-thái có thể nuôi đứa trẻ này
không?" Công chúa đáp: "Ði tìm đi". Chị đứa trẻ liền đi kêu mẹ
nó. Công chúa Pharaon nói với mẹ đứa trẻ rằng: "Chị hãy lãnh nuôi đứa trẻ
này giùm tôi, tôi sẽ trả công cho chị". Chị ta liền nhận nuôi đứa trẻ, và
khi nó lớn lên, thì đem đến cho công chúa Pharaon. Công chúa nhận đứa trẻ làm
con nuôi, đặt tên cho nó là Môsê và nói: "Vì tôi đã vớt nó dưới nước
lên".
Trong
những ngày ấy, Môsê đã khôn lớn, liền đi thăm anh em mình, người thấy họ cơ cực,
và thấy một người Ai-cập đang hành hung một người Do-thái là anh em của mình.
Sau khi đã nhìn qua nhìn lại, không thấy ai, Người liền hạ sát tên Ai-cập và
vùi thây dưới cát. Hôm sau, người đi ra, thấy hai người Do-thái đang đánh lộn với
nhau, người bảo kẻ có lỗi rằng: "Tại sao anh đánh người bạn của anh?"
Anh ta trả lời: "Ai đã đặt anh làm lãnh tụ và quan án xét xử chúng tôi?
Anh cũng muốn giết tôi như anh đã giết người Ai-cập hôm qua sao?" Môsê lo
sợ và nói: "Việc này người ta đã hay biết rồi sao?"
Pharaon
nghe biết câu chuyện, liền tìm giết Môsê. Nhưng Môsê đã lánh mặt nhà vua, trốn
sang xứ Mađian.
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 68, 3. 14. 30-31. 33-34
Ðáp: Các bạn khiêm
cung, các bạn tìm kiếm Chúa, lòng các bạn hãy hồi sinh (x. c. 33).
Xướng:
1) Tôi bị dìm trong hố bùn lầy, không có chỗ để đặt chân nương tựa. Tôi bị rơi
trong đầm sâu nước lớn, và ba đào đang lôi cuốn thân tôi. - Ðáp.
2)
Nhưng lạy Chúa, con dâng lời nguyện cầu lên Chúa. Ôi Thiên Chúa, đây là lúc biểu
lộ tình thương. Xin nhậm lời con theo lượng cả đức từ bi, theo ơn phù trợ trung
thành của Chúa. - Ðáp.
3)
Phần con, con đau khổ cơ hàn; lạy Chúa, xin gia ân phù trợ, bảo toàn thân con.
Con sẽ xướng bài ca ngợi khen danh Chúa, và con sẽ chúc tụng Ngài với bài tri
ân. - Ðáp.
4)
Các bạn khiêm cung hãy nhìn coi và hoan hỉ; các bạn tìm kiếm Chúa, lòng các bạn
hãy hồi sinh: vì Chúa nghe những người cơ khổ và không chê bỏ con dân của Người
bị bắt cầm tù. - Ðáp.
Alleluia:
Tv 24, 4c và 5a
Alleluia,
alleluia! - Lạy Chúa, xin dạy bảo con về lối bước của Chúa, và xin hướng dẫn
con trong chân lý của Ngài. - Alleluia.
Phúc
Âm: Mt 11, 20-24
"Trong
ngày phán xét, Tyro và Siđon sẽ được xét xử khoan dung hơn các ngươi".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi
ấy, Chúa Giêsu quở trách các thành đã chứng kiến nhiều phép lạ Người làm mà
không chịu sám hối: "Hỡi Corozain, khốn cho ngươi! Hỡi Bethsaiđa, khốn cho
ngươi! Vì nếu đã xảy ra tại Tyrô và Siđon các phép lạ diễn ra nơi các ngươi,
thì họ đã mặc áo nhặm, rắc tro mà ăn năn hối cải từ lâu rồi. Nên Ta bảo các
ngươi: Trong ngày phán xét, Tyrô và Siđon sẽ được xét xử khoan dung hơn các
ngươi.
"Còn
ngươi, hỡi Capharnaum, chớ thì ngươi nhắc mình lên tận trời sao? Ngươi sẽ phải
rơi xuống địa ngục, vì nếu các phép lạ diễn ra giữa ngươi mà xảy ra tại Sôđôma,
thì thành ấy đã tồn tại cho đến ngày nay. Vậy Ta bảo thật các ngươi: Trong ngày
phán xét, Sôđôma sẽ được xét xử khoan dung hơn ngươi".
Ðó
là lời Chúa.
Suy
Niệm: Lắng Nghe Lời Chúa
Văn
minh càng tiến bộ, càng lôi kéo con người đến sa đọa và hủy hoại nền tảng gia
đình và xã hội. Ngay từ thời xa xưa, các Tiên Tri trong Cựu Ước đã thấy được hiểm
họa ấy. Việc chúc dữ các đô thị là một trong những đề tài nổi bật trong lời rao
giảng của các ngài. Sôđôma, Gômôra, Babylon, Tyrô, Siđôn là đối tượng của những
lời rủa xả nặng nề nhất của các tiên tri. Những đô thị này không những là nơi
phát sinh những sa đọa luân lý, mà còn là biểu tượng của óc tự mãn, sự tôn thờ
ngẫu tượng của con người.
Chúa
Giêsu cũng tiếp tục truyền thống tiên tri ấy khi Ngài lên tiếng chúc dữ một số
thành phố như Corazin, Betsaida. Cuộc sống vật chất sung túc làm cho con người
sa đọa, đồng thời chối bỏ tương quan với Ðấng Tạo Hóa. Con người được tạo dựng
không phải để sống đơn độc một mình; chính trong tương quan với tha nhân mà con
người nên thành toàn hơn, do đó gia đình và xã hội là nhân tố thiết yếu cho sự
phát triển toàn diện con người.
Làng
mạc, thành phố, đô thị, tự nó là những xã hội cần thiết để con người xây dựng
các tương quan và nhờ đó phát triển nhân cách. Tuy nhiên, thay vì giúp con người
phát triển, các đô thi thường lại đày đọa con người vào nỗi cô đơn và chối bỏ mối
tương quan với Thiên Chúa. Sự trống rỗng trong lòng người dân đô thị cũng là dấu
chỉ sự vắng bóng Thiên Chúa. Kinh Thánh không ngừng nhắc nhở con người biết rằng
chỉ trong Thiên Chúa, con người mới có thể tạo được tương quan đích thực giữa
người với người. Loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống, con người không những
rơi vào sa đọa, mà còn cắt đứt mọi tương quan với tha nhân.
Lắng
nghe Lời Chúa, đó là bí quyết để xây dựng cuộc sống xã hội, thắt chặt quan hệ với
tha nhân và trở nên thành toàn. Ðó là điều Chúa Giêsu muốn nhắn nhủ chúng ta trong
Tin Mừng hôm nay: con người không thể xây dựng một xã hội tốt đẹp, nếu loại bỏ
Thiên Chúa và những giá trị thiêng liêng ra khỏi cuộc sống.
Nguyện
cho Lời Chúa soi sáng và hướng dẫn chúng ta trong cuộc sống, để khi mưu sinh và
xây dựng xã hội, chúng ta biết đặt Thiên Chúa vào trọng tâm cuộc sống, đeo đuổi
những giá trị thiêng liêng và xây dựng tình người.
Veritas Asia
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Ba Tuần 15 TN1, Năm lẻ
Bài đọc: Exo 2:1-15; Mt
11:20-24.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Cơ hội càng nhiều,
phán xét càng nặng.
Có
những người chỉ cần cho họ một cơ hội trong cuộc đời là họ biết nắm lấy, ra sức
làm việc, và thành công trong cuộc đời. Cũng có những người được cho hết cơ hội
này đến cơ hội khác; nhưng vẫn không biết nắm lấy, tối ngày chỉ lo ăn chơi, nghịch
phá, và làm việc gì cũng thất bại. Trong lãnh vực đức tin cũng thế: Có những
người ngoại giáo, chỉ cần nghe biết về Chúa Giêsu thôi; nhưng cách biểu lộ niềm
tin của họ đã làm cho Chúa Giêsu phải ngạc nhiên: viên đại đội trưởng người
Rôma, người phong cùi... Nhưng cũng có những người đồng hương với Chúa Giêsu biết
rõ Chúa, nhưng họ vẫn không tin Ngài. Chúa Giêsu ngạc nhiên vì sự cứng lòng của
họ.
Các
Bài Đọc hôm nay cho chúng ta những ví dụ tương phản như thế. Trong Bài Đọc I,
Thiên Chúa quan phòng cho Moses có cơ hội được cứu sống nhờ lòng nhân từ của
công chúa Ai-cập. Khi lớn lên, ông Moses không thể dằn lòng trước những cử xử
dã man giữa con người với con người, ông đã giết một người Ai-cập và khuyên nhủ
hai người Do-thái đừng cãi vã nhau. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đã lớn tiếng
trách mắng các thành Chorazin, Betsaida, và Capernaum, vì tuy họ đã nhiều lần
chứng kiến các phép lạ Chúa làm và nghe những lời Chúa giảng, họ vẫn không xám
hối và tin vào Ngài. Trong khi các thành của dân ngoại như Tyre và Sidon, mặc
dù ít được Chúa tới, nhưng cách biểu lộ niềm tin của họ làm chính Chúa phải ngạc
nhiên.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I:
Cuộc đời của ông Moses
1.1/
Moses được cứu thoát bởi công chúa Ai-cập: "Có một người thuộc dòng họ Levi đi lấy một
người con gái cũng thuộc họ Levi. Người đàn bà ấy thụ thai và sinh một con
trai. Thấy đứa bé kháu khỉnh, nàng giấu nó ba tháng trời. Khi không thể giấu
lâu hơn được nữa, nàng lấy một cái thúng cói, trét hắc ín và nhựa chai, bỏ đứa
bé vào, rồi đặt thúng trong đám sậy ở bờ sông Nile. Chị đứa bé đứng đàng xa để
xem cho biết cái gì sẽ xảy ra cho em nó."
Nhờ
sự quan phòng của Thiên Chúa, công chúa của Pharao đã động lòng thương đứa trẻ
dù biết nó là người Do-thái; và với sự khôn ngoan của người chị khi hỏi công
chúa Pharao: "Bà có muốn con đi gọi cho bà một vú nuôi người Do-thái, để
nuôi đứa bé cho bà không?" Khi công chúa Pharao đồng ý, người chị liền đi
gọi mẹ mình. Công chúa của Pharao bảo bà ấy: "Chị đem đứa bé này về nuôi
cho tôi. Chính tôi sẽ trả công cho chị." Thế là mẹ được ở gần nuôi con và
còn được cấp dưỡng. Khi đứa bé lớn lên, bà đưa nó đến cho công chúa của Pharao.
Nàng coi nó như con và đặt tên là Moses; nàng nói: "Đó là vì ta đã vớt nó
lên khỏi nước."
1.2/
Tính can đảm của Moses: Là
con của công chúa, ông Moses có thể chọn lối sống an bình dễ dãi như một hoàng
tử của Ai-cập; nhưng ông chọn để sống anh hùng và theo Lề Luật của Thiên Chúa.
Trình thuật đưa ra 2 ví dụ chứng minh tính khí khái của Moses:
(1)
Ông không thể chịu đựng cảnh bất công: "Khi ông ra ngoài thăm anh em đồng
bào và thấy những việc khổ sai họ phải làm. Ông thấy một người Ai-cập đang đánh
một người Do-thái, anh em đồng bào của ông. Nhìn trước nhìn sau không thấy có
ai, ông liền giết người Ai-cập, rồi vùi dưới cát."
(2)
Ông không thể chịu đựng cảnh bất hòa: "Hôm sau, ông lại đi ra, gặp hai người
Do-thái đang xô xát nhau, ông nói với người có lỗi: "Tại sao anh lại đánh
người đồng chủng?" Người đó trả lời: "Ai đã đặt ông lên làm người
lãnh đạo và xét xử chúng tôi? Hay là ông tính giết tôi như đã giết tên Ai-cập?
"Ông Moses phát sợ và tự bảo: "Vậy ra người ta đã biết chuyện rồi!"
Nghe biết chuyện này, Pharao tìm cách giết ông Moses. Ông Moses liền đi trốn
Pharao và ở lại miền Midian.
2/
Phúc Âm:
Ai được cho có cơ hội nhiều sẽ bị phán xét nhiều.
2.1/
So sánh Chorazin và Bethsaida với Tyre và Sidon: Bấy giờ Chúa Giêsu bắt đầu quở
trách các thành đã chứng kiến phần lớn các phép lạ Người làm mà không sám hối:
"Khốn cho ngươi, hỡi Chorazin! Khốn cho ngươi, hỡi Bethsaida! Vì nếu các
phép lạ đã làm nơi các ngươi mà được làm tại Tyre và Sidon, thì họ đã mặc áo vải
thô, rắc tro lên đầu tỏ lòng sám hối. Vì thế, Ta nói cho các ngươi hay: đến
ngày phán xét, thành Tyre và thành Sidon còn được xử khoan hồng hơn các
ngươi."
(1)
Chorazin và Bethsaida: Chorazin được các nhà khảo cổ đồng nhất với thành
Kerazeh hiện đại, cách xa Capernaum chừng 2.5 dặm về phía Bắc. Bethsaida là một
làng của vùng Galilee, nằm về phía Tây của hồ Tiberias, trong "giải đất của
Gennesaret." Bethsaida là quê hương của Peter, Andrew và Philip; và là chỗ
Chúa Giêsu thường xuyên lui tới. Hai phép lạ Chúa Giêsu làm được kể chi tiết là
phép lạ Chúa chữa người mù tại Bethsaida (Mk 8:22) và phép lạ nuôi 5,000 người
ăn tại Bethsaida (Lk 9:10-17). Ngoài ra, Luca cũng tường thuật việc Chúa Giêsu
dạy dỗ, và chữa lành nhiều người tại đây.
(2)
Tyre và Sidon: là hai hải cảng thương mại lớn của người Phoenecia (Lebanon ngày
nay), nằm dọc theo bờ biển Mediterranean. Tyre nằm khoảng 23 dặm về phía Bắc của
Arco, và cách Sidon khoảng 20 dặm về phía Nam. Chúa Giêsu rất ít khi rao giảng
ngoài lãnh thổ của Palestine, và các thánh ký chỉ tường thuật một lần Chúa đến
vùng Tyre và Sidon, khi một người đàn bà Canaan nài xin Ngài cứu con gái bà khỏi
bị quỉ ám. Chúa Giêsu thử thách đức tin của bà cách trầm trọng: "Không nên
lấy lương thực của con cái mà vứt cho chó" (Mt 15:21); trước khi chữa lành
con gái của bà.
2.2/
So sánh Capernaum với Sodom: "Còn ngươi nữa, hỡi Capernaum, ngươi tưởng sẽ được nâng lên
đến tận trời ư? Ngươi sẽ phải nhào xuống tận âm phủ! Vì nếu các phép lạ đã làm
nơi ngươi mà được làm tại Sodom, thì thành ấy đã tồn tại cho đến ngày nay. Vì
thế, Ta nói cho các ngươi hay: đến ngày phán xét, đất Sodom còn được xử khoan hồng
hơn các ngươi."
(1)
Capernaum: có thể nói là "thành của Chúa Giêsu" vì Ngài thường xuyên
lui tới dạy dỗ và làm phép lạ tại đây. Gioan tường thuật Chúa làm phép lạ đầu
tiên cho nước hóa thành rượu tại tiệc cưới Cana (Jn 2:12) và chữa lành con trai
của một quan chức (Jn 4:46). Matthew tường thuật phép lạ Chúa chữa đầy tớ của
viên Đại Đội Trưởng Rôma (Mt 8:5). Marcô tường thuật Chúa chữa người bại liệt
được thòng xuống từ mái nhà (Mk 2:1). Luca tường thuật Chúa chữa người bị quỉ
ám (Lk 9:33). Marcô tường thuật Chúa giảng trong hội đường Capernaum (Mk 1:21)
và Gioan ghi lại rõ ràng: diễn từ về BT Thánh Thể xảy ra sau phép lạ hóa bánh
nuôi 5,000 người và phản ứng của dân chúng cũng xảy ra tại đây (Jn 6).
(2)
Sodom: Chúng ta biết đến thành phố này trong Sách Sáng Thế khi Thiên Chúa khiến
lửa từ trời thiêu rụi thành phố này vì những tội tày trời họ xúc phạm đến Ngài,
nhất là tội sodomy như tên thành được gọi (Gen 18:16-33, 19:1-29). Thành phố
này nằm đối diện với Zoar, về phía SW của Biển Chết.
Khi
đưa ra sự so sánh giữa các thành phố, Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh một điểm quan
trọng: Ai được cho nhiều cơ hội để ăn năn, sẽ phải chịu sự phán xét nặng nề
hơn.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Chúng ta phải biết tận dụng thời gian, của cải, và tài năng Thiên Chúa ban để
sinh lợi ích cho chính chúng ta, cho gia đình, và cho tha nhân.
-
Nếu Thiên Chúa đã ban nhiều, Ngài có quyền đòi lại cho tương xứng của Ngài đã
ban. Chúng ta phải coi chừng vì chúng ta sẽ bị Thiên Chúa phán xét nặng nề hơn.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
14/07/15 THỨ BA TUẦN 15
TN
Th. Ca-mi-lô Len-li, linh mục
Mt 11,20-24
Th. Ca-mi-lô Len-li, linh mục
Mt 11,20-24
Suy niệm: Phép
lạ của Chúa không những biểu lộ quyền năng và tình yêu của Người, mà còn là lời
mời gọi mọi người sử dụng ơn Chúa cho xứng đáng. Dân chúng ở Kho-ra-din,
Bết-sai-đa và Ca-phác-na-um được chứng kiến nhiều phép lạ Chúa làm, lẽ ra, họ
phải là những người tin Chúa trước hết. Thế nhưng đó lại là chính những người
dân ở Tia, Xi-đôn, Sô-đôm. Vì thế, đến ngày phán xét, những người này sẽ được
hưởng lòng khoan dung của Chúa hơn, vì Ngài là Đấng rất mực công bằng: “Hễ ai được cho nhiều thì sẽ bị
đòi nhiều, và ai được giao phó nhiều thì sẽ bị đòi hỏi nhiều hơn”.
Mời Bạn: Ngày
hôm nay Thiên Chúa vẫn làm phép lạ. Kẻ được Chúa ban ơn này, người được Chúa
ban ơn khác; có người được Chúa đat làm những việc cao trọng, có người được
Chúa đặt làm những việc xem ra tầm thường, mỗi người mỗi phận, nhưng mọi người
đều được đầy ơn Chúa để chu toàn chức phận. Điều Chúa muốn là đừng để ơn Chúa
ban ơn trở nên vô hiệu. Bởi đó người nhận ơn nhiều nên nhớ mình có trách nhiệm
nhiều.
Sống Lời Chúa: Kiểm
điểm đời sống để nhận ra ơn Chúa ban và dâng lời tạ ơn Ngài; đồng thời dùng ơn
Chúa ban để làm việc phục vụ cho người anh em.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã tạo dựng nên con và ban cho con những ơn cần
thiết để con trở thành người hữu dụng cho Chúa và cho người khác. Xin đừng để
con trở nên vô ích, nhưng xin cho con biết đón nhận ơn Chúa với lòng biết ơn
sâu xa và quyết tâm dùng ơn Chúa mưu ích cho phần rỗi của mình và làm sáng danh
Chúa trong việc phục vụ anh chị em con.
Không sám hối
Mỗi cử chỉ yêu thương tôi nhận được cũng là phép
lạ. Mong tôi đáp lại phép lạ đó bằng một cử chỉ yêu thương.
Suy niệm:
Lời giảng đầu tiên của Đức
Giêsu là một lời mời sám hối (Mt 4, 17).
Những phép lạ Ngài làm cũng
là một lời mời tương tự.
Phép lạ không phải chỉ là
những biểu lộ của uy quyền và tình thương
nhằm vén mở khuôn mặt của
Thiên Chúa và của Con Ngài.
Phép lạ còn là lời mời gọi
đổi đời, vì Nước Trời đã gần đến.
Đức Giêsu quở trách các
thành đã lần lữa không chịu sám hối,
dù họ đã được chứng kiến
phần lớn các phép lạ Ngài làm (c. 20).
“Khốn cho ngươi, hỡi
Khoradin! Khốn cho ngươi, hỡi Bếtxaiđa!”
Đức Giêsu đã kêu than như
một ngôn sứ, buồn phiền và đau đớn,
trước sự cứng lòng của những
nơi mà Ngài đã đặt chân và thi ân.
Khoradin là một vùng ở tây
bắc của Hồ Galilê (Mc 10, 13).
Nay chỉ còn là cánh đồng
gạch vụn, với dấu tích của một hội đường.
Bếtxaiđa nghĩa là “nhà của
cá”, nằm nơi sông Giođan đổ vào Hồ nói trên.
Thành này ngày nay cũng biến
mất, có lẽ vì bị tràn ngập bởi phù sa.
Đức Giêsu đã so sánh hai
thành này với hai thành dân ngoại Tia và Xiđôn.
Nếu Tia và Xiđôn nhận được
sự hiện diện của Đức Giêsu,
hẳn họ đã ăn năn sám hối từ
lâu rồi (c. 21).
Caphácnaum được coi là trụ
sở của Đức Giêsu khi thi hành sứ vụ.
Nơi đây Ngài đã làm bao điều
tốt lành (Mt 4, 13; 8, 5; 9, 1; 17, 24).
Vậy mà có vẻ nó lại không
muốn đón nhận Đấng mang ơn cứu độ.
Phải chăng vì nó đã tự hào,
tự cao trước những ơn Chúa ban?
“Ngươi sẽ được đưa lên tới
tận trời sao? Ngươi sẽ bị tống xuống âm phủ.”
Đức Giêsu dám so sánh
Caphácnaum với Xơđôm.
Xơđôm là một thành phố trụy
lạc, đã bị thiêu hủy hoàn toàn (St 19, 25).
Ngài cho rằng Xơđôm mà được
thấy những điều kỳ diệu Ngài làm,
hẳn nó đã hoán cải và còn
tồn tại đến nay (c. 23).
Đến ngày phán xét, con người
sẽ bị xét xử theo điều mình đã lãnh nhận.
Lãnh ít thì sẽ được khoan
hồng nhiều hơn.
Mỗi người chúng ta thật sự
chẳng rõ mình đã nhận được bao nhiêu.
Chúng ta dễ có thái độ tự
cao của những người được gần gũi Chúa.
“Chúng tôi đã từng được ăn
uống trước mặt Ngài,
và Ngài cũng đã từng dạy dỗ
trên các đường phố của chúng tôi” (Lc 13,26).
Nhưng điều quan trọng không
phải là đã nghe giảng và đã thấy phép lạ.
Điều quan trọng là sám hối.
Những ơn lộc Chúa ban cho
đời Kitô hữu lại đòi ta phải hoán cải nhiều hơn.
Chúng ta không thể coi mình
là Caphácnaum để khinh Xơđôm được.
Thiên Chúa xét xử theo điều
Ngài ban cho từng con người,
từng nền văn hóa hay văn
minh, từng vùng đất hay từng tôn giáo.
Làm sao tôi có thể thấy được
những phép lạ Chúa làm cho tôi mỗi ngày?
Có những phép lạ xảy ra đều
đặn và bình thường nên tôi không nhận ra.
Mỗi cử chỉ yêu thương tôi
nhận được cũng là phép lạ.
Mong tôi đáp lại phép lạ đó
bằng một cử chỉ yêu thương.
Cầu nguyện:
Con tạ ơn Cha vì những ơn Cha ban cho con,
những ơn con thấy được,
và những ơn con không nhận
là ơn.
Con biết rằng
con đã nhận được nhiều ơn
hơn con tưởng,
biết bao ơn mà con nghĩ là
chuyện tự nhiên.
Con thường đau khổ vì những gì
Cha không ban cho con,
và quên rằng đời con được
bao bọc bằng ân sủng.
Tạ ơn Cha vì những gì
Cha cương quyết không ban
bởi lẽ điều đó có hại cho
con,
hay vì Cha muốn ban cho con
một ơn lớn hơn.
Xin cho con vững tin vào tình yêu Cha
dù con không hiểu hết những gì
Cha làm cho đời con.
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn
Lên
14
THÁNG BẢY
Được
Trao Ban Những Ân Sủng Đặc Biệt
Được
dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa và giống như Ngài, con người là tạo vật hữu
hình duy nhất mà Đấng Tạo Hóa “nhắm đến vì chính nó” (MV 24). Thiên Chúa – Đấng
cai quản thế giới với sự khôn ngoan và quyền lực siêu việt của Ngài – trao cho
con người mục tiêu để đạt đến trong cuộc sống này. Nhưng con người cũng là một
cứu cánh nơi tự thân mình, không giống như các tạo vật khác. Con người cần đạt
đến sự thành toàn trong tư cách là một nhân vị được dựng nên theo hình ảnh Thiên
Chúa và giống như Ngài.
Được
làm cho phong phú với một ân huệ đặc biệt – và cũng là một trách nhiệm – con
người có quan hệ mật thiết với mầu nhiệm quan phòng thần linh. Chẳng hạn, chúng
ta đọc thấy trong Sách Huấn Ca: “Đức Chúa lấy đất mà tạo ra con người… Ngài mặc
cho nó sức mạnh… để chúng thống trị muông chim cầm thú. Ngài ban cho chúng trí
khôn, lưỡi, mắt, tai, và trái tim để chúng suy nghĩ. Ngài làm cho chúng đầy kiến
thức thông minh, tỏ cho chúng biết điều tốt điều xấu. Ngài đặt con mắt mình vào
tâm hồn chúng, để chúng nhận ra các công trình vĩ đại của Ngài… Ngài còn ban kiến
thức cho chúng, và cho thừa hưởng luật đem lại sự sống” (Hc 17,1.3.5-7.9).
-
suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm.
Lê Công Đức dịch
từ nguyên tác
LIFT
UP YOUR HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY
14-7
Thánh
Camillô Lellis, linh mục
Xh
2, 1-15a; Mt 11, 20-24
LỜI
SUY NIỆM: “Bấy giờ người bắt đầu quở trách các thành đã chứng kiến
phần lớn các phép lạ Người làm mà không sám hối.”
Chúa
Giêsu đang đòi hỏi mỗi người trong chúng ta phải biết hồi tâm, xem xét trong đời
sống của mình đã từng chứng kiến những gì, đã thấy những gì, đã nghe những gì.
Những điều này có liên quan đến mình hay không. Có sự liên đới và trách nhiệm của
mình trong đó hay không. Tốt nhất là phải biết xét mình từng ngày một sau một
ngày sống. Nhờ đó chúng ta sẽ nhận ra tình yêu thương của Chúa dang bao bọc
chúng ta, mà biết sám hối, để nhận yêu thương tha thứ của Người.
Lạy
Chúa Giêsu, Chúa đang cảnh báo với mỗi người trong chúng con. Xin cho mọi thành
viên trong gia đình chúng con luôn ý thức về tội và những sai phạm chính bản
thân của chúng con , để biết sám hối ăn năn và dóc lòng chừa để nhận được ơn
tha thứ của Chúa, để được cứu độ.
Mạnh
Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày
14-07: Thánh CAMILLÔ LELLIS
Linh
Mục - (1550 - 1614)
Thánh
Camillô Lellis là con của ông Gioan Laliis, một hiệp sĩ danh giá trong quân đội
của Chales-Quint. Mẹ Ngài thuộc vào một gia đình thời danh nhất ở Neples. Từ những
năm đầu thời hôn nhân, họ có được một người con, nhưng lại bị cất đi ngay, khi
đứa bé còn ở trong nôi. Lúc bà Lellis 60 tuổi, sau bao lời cầu hôn khẩn thiết,
bà đã sinh ra Camillô vào ngày 25 tháng 5 năm 1550. Khi đang mang thai, bà đã
thấy mộng con trẻ mang trên ngực một hình thánh giá, có vô số trẻ em theo sau.
Mộng thấy vậy, bà lo sợ rằng mình sẽ sinh hạ một người con làm đầu bọn cướp,
Camillô mới sinh ra ít lâu thì mồ côi mẹ. Chưa được 6 tuổi, Ngài lại mồ côi
cha. Do những tai họa này, việc giáo dục Camillô bi bỏ mặc.
Những
buổi đầu đời của con trẻ đã chứng thực điều lo sợ của người mẹ là đúng. Camillô
biếng nhác và phóng túng, lao mình vào cuộc chơi. Đến tuổi 19, Ngài theo đuổi
binh nghiệp và năm năm sau Ngài xuất ngũ.
Người
thanh niên này phung phí hết tài sản và lâm cảnh cùng quẫn, phải làm phụ hồ cho
công trình xây cất nhà cho các cha Phanxicô. Tại Fermô, Ngài gặp hai thầy dòng
và mến phục nết đạo đức khiêm tốn của hai vị. Tự đáy lòng, Camillô nguyện một
ngày kia sẽ nhập dòng. Bỏ binh nghiệp, Ngài đến nhà dòng Phanxicô ở Aquila. Một
người cậu của Camillô giữ cổng nhà dòng này. Camillô kể lại cho ông nghe tất cả
những gì đã qua và xin được mặc áo dòng. Cha giữ cửa biết rõ quá khứ đau lòng của
cháu, muốn thử thách ơn kêu gọi bất ngờ này đã từ khước trong một thời gian.
Camillô
lại rơi vào cơn rối loạn. Ngài trở nên bất hạnh đến nỗi phải đi ăn xin cùng với
một người lính cùng khốn khổ như Ngài. Ngày lễ thánh Anrê năm 1574, Ngài ăn xin
ở cửa nhà thờ Manfredonia. Một lãnh chúa đi qua. Ong thương tình đề nghị
Camillô làm việc cho nhà dòng. Camillô nhận lời, ngày kia trước lời khuyên nhủ
của một cha dòng, Ngài động lòng và bật tiếng khóc.
-
Lạy Chúa, thật là khốn cho con. Tại sao con biết Chúa trễ quá ? Sao con có thể
giả điếc làm ngơ trước bao nhiêu lời mời gọi của Chúa như vậy được. Xin Chúa
tha thứ cho con là đứa tội lỗi khốn nạn. Xin hãy cho con đủ thời gian đền bù tội
lỗi của con.
Lúc
đó Camillô 25 tuổi. Ngài xin nhập dòng ngày hôm đó và được nhận vào tập viện.
Nhưng một mụn nhọt ở chân mở miệng, Ngài phải đi chữa trị. Lành bệnh Ngài trở lại
dòng, nhưng mụn nhọt lại mở miệng. Các bác sĩ cho rằng ung nhọt này vô phương
chữa trị. Ngài được nhận vào một bệnh viện nan y ở Roma. Nơi đây Camillô nhận
ra ơn gọi của mình. Ngài thấy các nhân viên được trả lương như vô tâm trước nỗi
đau đớn của các bệnh nhân. Ngài tận tụy phục vụ các bệh nhân ngày đêm. Ngài còn
qui tụ các bạn thành một để thực hành đức ái nữa. Trên ngực họ đeo một thánh
giá đỏ. Công việc nặng nề và các bạn Ngài thường tỏ ra lo lắng. Camillô nhắc
cho họ lời của thánh Catarina thành Siêna:
- Hãy lo cho ta và ta sẽ lo lắng cho con.
- Hãy lo cho ta và ta sẽ lo lắng cho con.
Camillô
được đặt cai quản nhà thương, lệnh Ngài đưa ra là:
-
Hãy phục vụ bệnh nhân như phục vụ chính Chúa Giêsu vậy.
Để
phục vụ hữu ích hơn, Ngài đã theo lời khuyên của Đức Hồng Y Taragi để tiến tới
chức linh mục. Nhưng trở ngại quá lớn, vì học thức Ngài còn quá kém. Một thị kiến
đã giúp Ngài can đảm thắng vượt mọi khó khăn. Ngài thấy Chúa Kitô đưa tay ra
nói:
- Camillô, con đừng sợ chi, cha sẽ giúp đỡ con và ở cùng con.
- Camillô, con đừng sợ chi, cha sẽ giúp đỡ con và ở cùng con.
32
tuổi, Ngài không mắc cỡ khi ngồi với các em nhỏ để học vần Latinh. Sự kiên trì
đã giúp người kinh viện này vượt qua mọi khó khăn. Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống
năm 1584, Camillô thụ phong linh mục và dâng thánh lễ đầu tiên tại nhà thờ
thánh Giacôbê. Vài tháng sau, Ngài được trao phó cho cai quản nhà thờ Đức Bà
hay làm phép lạ.
Tại
đây, Ngài thiết lập một tu hội. Anh em qui tụ quanh Ngài dấn thân phục vụ những
người hấp hối ở bất cứ nơi nào. Họ luôn trung thành với lời khuyên của Ngài: -
Hãy hồi tâm để dâng lên những lời kinh nguyện tắt và các bạn sẽ được nâng đỡ đặc
biệt bên cạnh các bệnh nhân. Chớ gì họ biết cầu xin ơn tha thứ, biết dâng cái
chết của họ hợp với sự chết của Chúa Giêsu Kitô và xin Người đón nhận linh hồn
họ vào lòng nhân từ Người.
Năm
1586, Đức giáo hoàng Sixtô V chấp thuận chương trình của Ngài. Năm 1588, Ngài
được gọi đến lập tu viện ở Nappples. Nơi đây Ngài đã thực hiện những hành vi đức
ái kỳ diệu đối với các nạn nhân của một cơn dịch hạch.
Năm
1591, Đức giáo hoàng Grêgôriô XV đã nâng tu hội của Ngài thành dòng tu, ngoài ba
lời khấn còn có lời khấn thứ tư là hiến thân phục vụ nhân loại đau khổ, dầu bởi
bất cứ bệnh tật nào. Dòng thánh Camillô phổ biến khắp nước Ý và còn phổ biến
sang cả Pháp, Tây Ban Nha.
Con
người số tu sĩ và nhà dòng ngày một nhiều. Tuy nhiên, lòng tin tưởng của
Camillô vào Chúa quan phòng thật vô bờ. Các chủ nợ lo âu hỏi Ngài: - Bao giờ
cha mới trả hết nợ cho chúng tôi ?
Ngài
trả lời: - Đừng sợ gì Thiên Chúa quyền năng không gởi cho chúng ta món tiền nào
sáng mai sao ?
Các
chủ nợ cười nói: - Thời phép lạ đã qua rồi.
Nhưng
rồi vài ngày sau, Ngài được những túi tiền lớn đủ để trả nợ. Sự quan phòng cho
thấy rằng các phép lạ có mãi cho những ai phó thác cho Chúa.
Khi
tuổi cao, Camillô vẫn không giảm bớt những phục vụ bên cạnh các người đau khổ.
Thấy vậy, các bệnh nhân nói: - Cha nghỉ đi kẻo té ngã mất.
Nhưng
các Ngài trả lời: - Này các con, cha là nô lệ của các con, cha phải làm mọi sự
có thể làm được để phục vụ các con.
Đi
từ giường này tới giường khác, Ngài tự nhủ:
-
Hạnh phúc tôi mong đợi lớn lao đến nỗi mọi đau khổ đều thành niềm vui của tôi.
Kiệt
sức vì công việc và đau đớn, Camillô Lellis chỉ còn là một bộ xương. Khi thấy
giờ chết tới gần, Ngài vui sướng:
-
Tôi vui mừng khi người ta nói với tôi: nào ta đi về nhà Chúa.
Được
đưa về phòng, Ngài còn nói trong nước mắt: - Lạy Chúa, con biết con là một tội
nhân ghê gớm. Nhưng xin hãy cứu con nhờ lòng nhân lành Chúa.
Ngày
14 tháng 7 năm 1614 Camillô Lellis qua đời. Năm 1746, Đức giáo hoàng Bênêdictô
đã suy tôn Ngài lên bậc hiển thánh.
(daminhvn.net)
14
Tháng Bảy
Tự Do Ðích Thực
Trong
tập thơ mang tựa đề Gitanjali, thi hào Tagore đã có bài thơ về tù nhân như sau:
"Hỡi
tù nhân, hãy nói cho ta hay ai đã xiềng xích ngươi. Tù nhân đáp, thưa chính là
chủ tôi. Tôi đã muốn thắng vượt mọi người, bằng của cải và quyền lực, cho nên
tôi đã vơ vét vào kho tàng của tôi tất cả tiền bạc của chủ. Mệt mỏi vì cuộc chạy
đua theo tiền của tôi, cuối cùng tôi đã thiếp ngủ ngay trên chính giường của chủ
tôi. Khi thức dậy, tôi thấy mình đã bị giam hãm ngay trên kho tàng của tôi.
Hỡi
tù nhân, hãy nói cho ta hay ai đã rèn chiếc xích sắt này cho ngươi. Tù nhân
đáp: tôi đã muốn giam hãm tất cả thế giới, vì như thế tôi sẽ được tự do và
không còn ai quấy rầy. Ngày đêm, tôi đã dùng lửa, búa và chiếc dũa để rèn sợi
xích này. Khi nó được hoàn thành, và chiếc mốc cuối cùng được nối lại, tôi đã để
cho sợi xích giam hãm cả cuộc đời của tôi, khiến không có gì bẻ gãy được".
Năm
1989, nước Pháp đã mừng kỷ niệm 200 năm cuộc cách mạng 1789. Cùng với việc lật
đổ chế độ quân chủ, bản tuyên ngôn nhân quyền được công bố ngày 04 tháng 8 năm
1789 đã đánh dấu một bước dài của nhân loại tiến đến tự do, dân chủ.
Nhưng
oái oăm thay, người ta đã nhân danh tự do để chống lại tự do và phạm không biết
bao nhiêu tội ác đối với con người. Nhân danh tự do, Robespierre đã giết hại 25
ngàn người cũng như cấm chế nhiều quyền tự do trong đó cơ bản nhất là quyền tự
do tôn giáo.
Lịch
sử cũng đã được lập lại trong rất nhiều cuộc cách mạng sau này. Mới đây tại
Trung Quốc, người ta đã nhân danh tự do dân chủ để đạp đổ Nữ Thần Tự Do và sát
hại không biết bao nhiêu người đòi tự do.
Nhân
danh tự do để chối bỏ tự do của người khác, nhân danh quyền con người để chà đạp
quyền sống của người khác: đó là thảm trạng của không biết bao nhiêu cuộc cách
mạng trong thời đại ngày nay. Chính khi con người chối bỏ tự do và chà đạp quyền
sống của người khác là cũng chính lúc con người tự giam hãm mình trong nô lệ,
nô lệ cho quyền lực, nô lệ cho tiền bạc, nô lệ cho bất an... Lắm khi con người
tự rèn lấy cho mình xích xiềng để tự chói lấy mình. Nhà tù ấy, sợi xích ấy
chính là lòng tham lam nơi con người: tham lam tiền của, tham lam quyền lực,
tham lam danh vọng.
(Lẽ
Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét