23/11/2015
Thứ Hai
sau Chúa Nhật 34 Quanh Năm
Bài Ðọc I: (Năm I) Ðn 1, 1-6. 8-20
"Không ai bằng Ðaniel, Anania, Misael và Azaria".
Khởi đầu sách Tiên tri Ðaniel.
Năm thứ ba triều đại vua Gioakim nước Giuđa, Nabukô-đônôsor, vua
Babylon, tiến đến vây hãm Giêrusalem. Chúa trao vua Gioakim nước Giuđa và một
phần đồ vật dùng trong đền thờ Chúa vào tay ông: Ông mang các đồ vật ấy về chùa
thần minh của ông trong đất Sennaar và trong kho báu thần minh của ông.
Vua truyền cho quan thái giám Asphênez dẫn về hoàng cung các con
cái Israel, các người thuộc hoàng tộc và gia đình quyền quý, các thiếu niên
không tàn tật, tuấn tú, đầy khôn ngoan, thông minh, sáng trí, xứng đáng sống
trong hoàng cung, để dạy văn chương và ngôn ngữ người Calđêa cho các cậu. Vua
quy định mỗi ngày cho các cậu ăn đồ của vua ăn, và uống rượu vua uống, để sau
ba năm nuôi dưỡng như vậy, các cậu có thể hầu cận trước mặt vua. Trong số các cậu
thuộc dòng dõi Giuđa, có Ðaniel, Anania, Misael, và Azaria.
Ðaniel dốc lòng không để cho đồ vua ăn và rượu vua uống làm cậu
ra ô uế, và xin quan thái giám đừng làm cho cậu ra ô uế. Thiên Chúa đã ban cho
Ðaniel được ân huệ và lòng thương trước mặt vị tổng thái giám. Vị này bảo
Ðaniel rằng: "Tôi sợ đức vua, Người đã quy định thức ăn và của uống cho
các cậu rồi. Nếu Người xem thấy nét mặt các cậu xanh xao hơn đồng bạn, thế là
các cậu nạp đầu tôi cho đức vua rồi". Ðaniel nói với Malasar, kẻ được vị tổng
thái giám chỉ định coi sóc Ðaniel, Anania, Misael và Azaria: "Tôi xin ông
thử cho chúng tôi, là các tôi tớ ông, ăn rau và uống nước lã, rồi ông ngắm xem
nét mặt chúng tôi và nét mặt những đứa dùng lương thực của đức vua; ông thấy
sao, thì hãy đối xử với các tôi tớ ông như vậy". Nghe nói thế, ông để thử
chúng trong mười ngày. Sau mười ngày, nét mặt bốn cậu trở nên xinh tươi béo tốt
hơn mọi thiếu niên dùng lương thực của nhà vua. Malasar cất đồ ăn và rượu uống
của các cậu, rồi cho các cậu ăn rau.
Thiên Chúa ban cho các cậu này được thông minh, hiểu biết mọi
sách vở và khôn ngoan; phần Ðaniel lại thông hiểu các thị kiến và chiêm bao. Ðến
hết thời gian vua chỉ định, vị tổng thái giám dẫn các cậu đến trước mặt vua
Nabukôđônôsor. Khi nói chuyện với các cậu, vua thấy mọi người không ai bằng
Ðaniel, Anania, Misael và Azaria. Các cậu đứng trước mặt vua. Vua hỏi các cậu về
sự khôn ngoan và thông minh, thì thấy các cậu giỏi hơn gấp mười lần các thuật
sĩ, đồng bóng trong cả nước của vua.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Ðn 3, 52. 53. 54. 55. 56
Ðáp: Chúa đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời (c. 52b).
Xướng: 1) Lạy Chúa là Thiên Chúa cha ông chúng con, Chúa đáng
chúc tụng, đáng ca ngợi, tôn vinh và tán tụng muôn đời. Chúc tụng thánh danh
vinh quang Chúa, đáng ca ngợi, tôn vinh và tán tụng muôn đời. - Ðáp.
2) Chúa đáng chúc tụng trong đền thánh vinh quang Chúa, đáng ca
ngợi và tôn vinh muôn đời. - Ðáp.
3) Chúc tụng Chúa ngự trên ngai vương quyền Chúa, đáng ca ngợi
và tôn vinh muôn đời. - Ðáp.
4) Chúc tụng Chúa, Ðấng nhìn thấu vực thẳm và ngự trên các Thần
Vệ Binh, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời. - Ðáp.
5) Chúc tụng Chúa ngự trên bầu trời, đáng ca ngợi và tôn vinh
muôn đời. - Ðáp.
Alleluia: Lc 21, 36
Alleluia, alleluia! - Các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn,
để có thể xứng đáng đứng vững trước mặt Con Người. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 21, 1-4
"Người thấy một bà goá nghèo khó bỏ vào đó hai đồng tiền nhỏ".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu nhìn lên, thấy những người giàu có bỏ tiền
dâng cúng vào hòm tiền. Người cũng thấy một bà goá nghèo khó bỏ vào đó hai đồng
tiền nhỏ, nên bảo rằng: "Thầy bảo thật các con, bà goá nghèo khó này đã bỏ
vào hòm tiền nhiều hơn mọi người. Vì mọi người kia lấy của dư thừa mà dâng cho
Thiên Chúa, còn bà này túng thiếu, bà đã dâng tất cả những gì bà có để nuôi sống
mình".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Cho Ði Tất Cả
Vào thời xưa cũng như thời này, có những giai tần bị loại ra bên
lề. Họ có thể là những người mắc bệnh không có thuốc chữa, họ có thể là những
người nghèo không một xu dính túi. Trong số những người nghèo bị gạt ra bên lề
xã hội, có các bà góa; nhất là trong hệ thống tổ chức xã hội xưa kia tại
Israel, phụ nữ khi kết hôn phải cắt đứt giây liên hệ với gia đình ruột thịt, và
từ lúc chồng chết cũng là lúc mọi tiếp tế vật chất từ nhà chồng bị đình chỉ.
Bà góa nghèo trong Tin Mừng hôm nay có thể nói là một người
nghèo tuyệt đối. Qua nghĩa cử đơn sơ của bà, Chúa Giêsu đã khám phá ra sự quảng
đại cao cả và lòng cậy trông phó thác tuyệt đối của bà vào Thiên Chúa. Mặc dù
chỉ đóng góp hai đồng tiền nhỏ có giá trị 1/4 xu, nhưng bà đã cho đi tất cả những
gì mình có để nuôi sống; vì thế bà xứng đáng được Chúa Giêsu khen ngợi. Tuy
nhiên sự kiện và lời khen ngợi này có thể nêu lên hai vấn nạn: thứ nhất, liệu
chúng ta phải nghèo về vật chất để được thuộc về Nước Thiên Chúa chăng? thứ
hai, liệu người nghèo phải cho đi tất cả, kể cả những nhu yếu phẩm nếu họ muốn
được Chúa khen ngợi chăng?
Ðã hẳn trong Tin Mừng, người nghèo được chúc phúc, trong khi
theo cách diễn tả của Chúa Giêsu người giầu có khó vào được Nước Trời. Thật ra,
người nghèo được gọi là có phúc, không phải vì họ nghèo, cũng như Tin Mừng không
bao giờ đề cao sự nghèo khổ, vì sự nghèo túng tự nó không làm cho ai nên thánh,
có chăng chỉ những người nghèo biết chấp nhận thân phận của mình để chờ đợi từ
người khác và cậy trông phó thác hoàn toàn vào Thiên Chúa. Nói khác đi, cái
nghèo vật chất không phải tự nó biến sự túng thiếu thành nguồn ơn phúc, nhưng
chính tinh thần nghèo khó, chính ý thức sự lệ thuộc của mình vào người khác, nhất
là đặt trọn niềm tín thác vào Thiên Chúa, mới làm cho những người nghèo trở nên
giầu tình người và đậm đà tình Chúa.
Bà góa nghèo trong Tin Mừng hôm nay chỉ có hai đồng tiền nhỏ để
sinh sống, nhưng bà đã dâng cúng trọn vẹn cho Chúa. Có lẽ bà có được hai đồng
tiền đó là do lòng hảo tâm của người khác và bà muốn biểu lộ sự tín thác của
mình vào sự quan phòng của Thiên Chúa qua việc cho đi tất cả. Vấn đề đáng suy
nghĩ là liệu hành động của bà góa nghèo này có giá trị trong xã hội ngày nay, nếu
không phải là tạo thêm sự nghi kỵ trong xã hội? Sống trong một xã hội cạnh
tranh như hiện nay, còn có một mô thức của xã hội nơi bài giảng trên núi của
Chúa Giêsu được đem ra thực hành, để không ai còn bị tiền tài, danh vọng, quyền
lực chi phối, nhưng mọi người đều thực hành tình liên đới, yêu thương, chia sẻ.
Với lời khen ngợi hành động của bà góa nghèo, Chúa Giêsu một lần nữa muốn đảo lộn
trật tự xã hội, vì Ngài không những kêu gọi sự thay đổi của từng cá nhân, nhưng
còn muốn đẩy mạnh tiến trình đổi mới xã hội, nơi mọi người đóng góp tất cả những
gì mình có để xây dựng và phục vụ xã hội.
Ðể sống trọn Lời Chúa hôm nay, chúng ta hãy tự hỏi: Tôi có tinh
thần nghèo khó để ý thức sự lệ thuộc của tôi vào người khác và vào Thiên Chúa
không? Tôi đã và đang làm gì để góp phần xây dựng một xã hội mới. Ước gì mẫu
gương của bà góa nghèo phản ánh tình yêu Thiên Chúa, Ðấng trao ban tất cả cho
con người, giúp chúng ta mạnh tiến trên con đường xây dựng Nước Chúa giữa lòng
xã hội.
Veritas Asia
Lời Chúa Mỗi
Ngày
Thứ Hai Tuần
34 TN1, Năm lẻ
Bài đọc: Dan 1:1-6,
8-20; Lk 21:1-4.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Luôn tin
tưởng nơi sự quan phòng của Thiên Chúa.
Nhiều người nghĩ phải có tiền của để ăn ngon, mặc đẹp, ở nhà
cao, đi xe sang trọng mới hạnh phúc; nhưng thực tế chứng minh có những thứ này
không đem lại hạnh phúc thực sự cho con người, và nhiều khi còn đe dọa sức khỏe
và mạng sống con người nữa. Ngược lại, có những người nghèo, tuy sống một cuộc
đời đơn giản, nhưng vẫn khỏe mạnh và luôn bình an hạnh phúc, vì họ luôn tin tưởng
nơi tình yêu Thiên Chúa và sự quan phòng của Ngài.
Các Bài Đọc hôm nay nêu bật những mẫu gương hoàn toàn tin tưởng
nơi sự quan phòng của Thiên Chúa và biết sống một cuộc đời đơn giản. Trong Bài
Đọc I, tiên-tri Daniel tường trình câu truyện của 4 đứa trẻ Do-thái biết kính sợ
Thiên Chúa và tuân giữ Lề Luật. Chúng sẵn sàng từ bỏ mọi đặc quyền nhà vua ban
được ăn uống ngon lành để trung thành với Lề Luật và sống một cuộc đời đơn giản.
Với sự phù hộ của Thiên Chúa, Nhà Vua và viên Thái Giám nhìn nhận chúng mạnh khỏe
và khôn ngoan hơn những trẻ ăn những thứ cao lương mỹ vị và uống rượu. Trong
Phúc Âm, đang khi quan sát dân chúng bỏ tiền vào hộp tiền trong Đền Thờ, Chúa
Giêsu nhận ra ngay một bà góa nghèo khổ, đơn giản, đến bỏ vào hai đồng tiền kẽm.
Chúa tuyên bố với các môn đệ bà góa đó đã bỏ vào thùng tiền nhiều hơn ai hết,
vì Bà đã hy sinh đồng tiền cần cho sự sinh sống của Bà.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Trong số các trẻ ấy không có đứa nào được như
Daniel, Hananiah, Misael và Azariah.
1.1/ Vua Babylon biết dân tộc Do-thái rất thông minh: Hầu như mọi
người phải nhìn nhận dân tộc Do-thái là một dân tộc rất thông minh và can đảm.
Nhiều người cho sở dĩ họ được như thế vì họ là dân riêng của Thiên Chúa. Vua xứ
Babylon là Nebuchadnezzar biết rõ điều này, nên sau khi ông đã chiến thắng khải
hoàn và bắt dân Do-thái phải lưu đày qua Babylon; ông nghĩ chuyện phải huấn luyện
các trẻ Do-thái khôn ngoan để dùng trong hoàng gia của ông.
(1) Suy nghĩ của Nhà Vua: Khi chọn các trẻ trong hoàng gia và
quí tộc của Do-thái để huấn luyện, vua Babylon nghĩ phải cho chúng ăn những cao
lương mỹ vị và uống rượu, chúng mới trở thành những người khôn ngoan và mạnh khỏe.
Vì thế, Nhà Vua truyền cho quan đứng đầu các thái giám là Ashpenaz dành cho
chúng khẩu phần hằng ngày trong thức ăn rượu uống của nhà vua. Chúng phải được
nuôi dạy ba năm, và sau thời hạn đó, phải ra mắt nhà vua.
(2) Lòng can đảm của Daniel: Trong số các trẻ ấy có Daniel,
Hananiah, Misael và Azariah là những người Judah. Phần Daniel, vì quyết tâm
không để mình bị ô uế do thức ăn rượu uống của nhà vua, chàng đã xin quan cho
mình khỏi bị ô uế. Chúa đã khiến cho Daniel được cảm tình của quan đứng đầu các
thái giám. Nhưng quan này nói với Daniel rằng: "Ta sợ Đức Vua; Ngài đã chỉ
định đồ ăn thức uống cho các ngươi. Vua mà thấy mặt mũi các ngươi gầy ốm hơn
các bạn cùng tuổi thì chính các ngươi sẽ khiến ta mang tội trước mặt vua."
Daniel thuyết phục: "Xin quan cứ thử các tôi tớ của quan đây trong mười
ngày: cứ cho chúng tôi ăn rau uống nước, rồi quan nhìn sắc mặt chúng tôi và sắc
mặt những đứa dùng thức ăn của nhà vua. Lúc đó quan thấy thế nào thì cứ xử với
các tôi tớ của quan như vậy."
1.2/ Kết quả của việc ăn uống đơn giản: Quan chấp
nhận lời các cậu ấy xin và thử trong mười ngày. Hết mười ngày, quan thấy các cậu
sắc mặt hồng hào, da thịt đầy đặn hơn tất cả những đứa đã dùng thức ăn của nhà
vua. Thế là quan giám thị cất phần thức ăn rượu uống của các cậu đi và cứ cho
ăn rau. Điều này chứng minh sức khỏe không lệ thuộc nơi việc ăn cao lương mỹ vị
và uống rượu. Bốn cậu bé này đều được Chúa ban ơn hiểu rộng biết nhiều về tất cả
chữ nghĩa và lẽ khôn ngoan. Riêng Daniel còn được hiểu biết mọi thị kiến và điềm
báo mộng. Khi đến thời hạn phải đưa bọn trẻ ra như vua đã truyền, quan đứng đầu
các thái giám đem chúng ra trước mặt vua Nebuchadnezzar. Nhà vua nói chuyện với
chúng, và trong số các trẻ ấy không có đứa nào được như Daniel, Hananiah,
Misael và Azariah. Thế là bốn cậu này được đứng chầu vua, và khi vua hỏi các cậu
về bất cứ điều gì cần đến sự khôn ngoan và tài trí, thì đều thấy các cậu trổi
vượt gấp mười lần hơn tất cả các thầy phù thủy và pháp sư trong toàn vương quốc.
2/ Phúc Âm: Bà bỏ vào tất cả những gì bà có để nuôi sống mình.
2.1/ Tiêu chuẩn xác định cho nhiều hay ít: không dựa
trên số lượng cho mà dựa trên số lượng người cho có. Chẳng hạn: một người cho
5000 đồng, nhưng tài sản anh có là 1,000,000 đồng, tỉ lệ anh cho đi là 1/200, một
số lượng rất nhỏ so với tài sản của anh. Trong khi đó, một người nghèo bỏ vào
chỉ 2 hào, nhưng tài sản anh có là 4 hào, tỉ lệ anh cho đi là ½; anh đã cho
phân nửa tài sản anh có.
Chúa Giêsu có lẽ đang ngồi ở “Sân của phụ nữ” trong Đền Thờ. Ngước
mắt lên nhìn, Đức Giêsu thấy những người giàu đang bỏ tiền dâng cúng của họ vào
thùng tiền. Người cũng thấy một bà goá túng thiếu kia bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm.
Người liền nói: "Thầy bảo thật anh em: bà goá nghèo này đã bỏ vào nhiều
hơn ai hết. Quả vậy, tất cả những người kia đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ,
mà bỏ vào dâng cúng; còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình, mà bỏ vào
đó tất cả những gì bà có để nuôi sống mình.”
Trước mắt con người, hầu hết sẽ đánh giá trị sai. Họ sẽ quí trọng
tiền cho của người giầu và khinh thường sự đóng góp của người đàn bà góa; họ sẽ
nghĩ hai đồng kẽm này làm được gì, lại còn phải nhớ số lẻ trong việc làm sổ
sách nên quăng đi cho xong chuyện! Nhưng với cặp mắt thấu suốt mọi sự của Chúa
Giêsu, Ngài phân biệt rõ cho các môn đệ: Đừng đánh giá theo giá trị bên ngòai,
nhưng phải đánh giá theo khả năng bên trong.
2.2/ Niềm tin vào sự quan phòng và tình yêu của Thiên Chúa: Sự rộng lượng
cho đi đòi Bà phải có một đức tin vững chắc nơi sự quan phòng của Thiên Chúa. Nếu
không có niềm tin này, Bà sẽ giữ tiền lại số tiền đó để có thể sinh sống trong
tương lai như biết bao con người đang làm. Bà tin tình yêu của Thiên Chúa sẽ
không để Bà phải chết đói. Ngài thương yêu Bà còn hơn những thú vật ngoài đồng
hay chim trời, cá biển.
Tiền bạc là cái cho đi thấp nhất; ngòai tiền bạc ra, người môn đệ
của Đức Kitô còn phải cho đi nhiều thứ khác khó khăn hơn nhiều như: ý muốn,
tình yêu, thời gian, tài năng, sức khỏe. Chúa đòi hỏi người môn đệ: "Ai
yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy,
thì không xứng với Thầy. Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng
với Thầy. Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình
vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được” (Mt 10:37-39).
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Hạnh phúc cuộc đời không lệ thuộc vào tiền của hay phải ăn
ngon mặc đẹp; nhưng lệ thuộc vào niềm tin nơi tình yêu và sự quan phòng của
Thiên Chúa.
- Giàu có và sung túc làm chúng ta tự tin nơi sức con người của
mình, và từ chối tin tưởng nơi tình yêu và sự quan phòng của Thiên Chúa; không
những thế, chúng còn đe dọa hạnh phúc và bình an của cá nhân và gia đình.
- Mục đích của chúng ta khi sống cuộc đời này là để làm chứng niềm
tin và tình yêu của chúng ta vào Thiên Chúa. Khi có cơ hội, chúng ta phải chứng
tỏ niềm tin yêu này cho dù phải hy sinh ngay cả đến tính mạng.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
23/11/15 THỨ HAI TUẦN
34 TN
Th. Clê-men-tê I, giáo hoàng, tử đạo
Lc 21,1-4
Th. Clê-men-tê I, giáo hoàng, tử đạo
Lc 21,1-4
Suy niệm: Dâng
cúng cho Đền thờ, cho nhà Chúa, luôn là một việc làm đẹp và đầy ý nghĩa. Nó không
chỉ là một việc làm mang tính xã hội, mà quan trọng hơn hết, đó là thể hiện
chính lòng yêu mến Thiên Chúa. Vì thế, trong tất cả mọi hành động dâng cúng,
tâm tình mến Chúa phải là động lực chính yếu và tấm lòng hiến dâng phải là điểm
nhắm căn bản. Thiếu những điều này, mọi của dâng cúng nếu không là việc “cống
nộp” vụ lợi thì cũng chỉ như một việc từ thiện xã hội, chứ không còn là một
hành vi thờ phượng đúng nghĩa. Và như thế, dù có dâng cúng nhiều mấy đi nữa,
thì đối với Chúa cũng chỉ là con số “không” rỗng tuếch. Chúa muốn tấm lòng của
con người. Chúa muốn con người dâng cho Ngài trọn vẹn con tim, trọn vẹn tình
yêu. Chính trong tình yêu mà bà góa nghèo dù chỉ bỏ vào thùng có hai đồng tiền
kẽm, đã được Chúa đánh giá là người dâng cúng nhiều nhất.
Mời Bạn: Con
người chúng ta rất dễ bị cám dỗ chú ý đến số lượng mà quên đi chất lượng, chú ý
đến hình thức bề ngoài mà quên đi cái cốt lõi bên trong. Hôm nay, bạn và tôi
được mời gọi ý thức lại điều chính yếu trong mọi công việc chúng ta làm là lòng
mến Chúa. Thà “của ít lòng nhiều” còn hơn của nhiều dư thừa mà lòng trống rỗng.
Chia sẻ: Đâu
là thái độ của bạn khi thực hành việc dâng cúng? Bạn cảm thấy thế nào về thái
độ đó?
Sống Lời Chúa: Chia
sẻ cho một người nghèo vì lòng mến Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa là tất cả của chúng con. Xin cho chúng con luôn
biết làm mọi việc vì lòng yêu mến Chúa và mưu ích cho anh chị em. Amen.
Bỏ vào tất cả
Tất cả và trọn vẹn, chính là điều Thiên Chúa đòi
hỏi nơi con người. Yêu Ngài bằng tất cả trái tim và tất cả sức lực của mình, đó
là mệnh lệnh của Thiên Chúa dẫn đến sự sống vĩnh cửu.
Suy niệm:
Thánh Luca là văn sĩ tuyệt
vời viết về sự hiền dịu của Đức Kitô.
Nhưng thánh nhân cũng là
người nhấn mạnh đến sự đòi hỏi.
Thầy Giêsu đòi ai muốn theo
Ngài phải từ bỏ tất cả (Lc 14, 33).
Các môn đệ đầu tiên như
Simon, Gioan, Giacôbê, Lêvi,
đều là những người đã
bỏ tất cả để theo Thầy (Lc 5, 11. 28).
Bà góa nghèo trong bài Tin
Mừng hôm nay (c.4)
cũng là người đã bỏ vào thùng
tiền tất cả những gì bà có để sinh sống.
Tất cả và trọn vẹn, chính là
điều Thiên Chúa đòi hỏi nơi con người.
Yêu Ngài bằng tất cả trái
tim và tất cả sức lực của mình,
đó là mệnh lệnh của Thiên
Chúa dẫn đến sự sống vĩnh cửu (Lc 10, 27).
Có người tự hỏi nếu bà góa
nghèo dâng cho Đền thờ
tất cả số tiền nhỏ nhoi còn
lại thì ngày mai bà sống bằng gì.
Bà có phải là người bị đầu
độc và bóc lột bởi các kinh sư không,
vì đã có những kinh sư nuốt
chửng nhà của các bà góa (Lc 20, 47)?
Đức Giêsu có coi bà góa này
như một tấm gương cho ta không?
Khi ngồi nhìn người ta dâng
cúng tiền cho Đền thờ,
Đức Giêsu thấy người giàu bỏ
tiền, có khi là những món tiền lớn.
Nhưng Ngài cũng thấy một bà
góa nghèo bỏ tiền vào thùng.
Một món tiền rất nhỏ, bằng
đơn vị tiền tệ nhỏ nhất.
Ngài nói cho các môn đệ nghe
về cách đánh giá của Ngài,
cũng là cách đánh giá của
Thiên Chúa.
Bà góa nghèo này đã bỏ nhiều
hơn những người giàu.
Vì các môn đệ có thể bị ngỡ
ngàng, nên Ngài giải thích cho họ.
Người giàu bỏ vào từ
sự dư thừa của họ.
Còn bà góa bỏ vào từ
sự túng thiếu của bà (c. 4).
Trao đi một điều đụng chạm
đến cuộc sống của mình
thì khó hơn gấp bội,
vì mình phải gánh chịu hậu
quả ngay lập tức.
Bà góa ở Xarépta chắc chắn
đã gặp khó khăn
khi ngôn sứ Êlia xin bà làm
cho ông một cái bánh nhỏ trước đã,
rồi sau đó mới làm cho bà và
con bà (1 V 17,13).
Bà đã dám vâng lời dù đang
túng thiếu,
dù nhà chỉ còn một nắm bột
trong hũ và chút dầu trong vò.
Cái chết đang đến với mẹ con
bà, vậy mà bà đã dám chia sẻ.
Chia sẻ của hai bà góa trên
đây đều nằm trong những tình huống
tưởng như không thể chia sẻ
được, vì chẳng có gì để chia sẻ.
Chia sẻ cho Chúa hay cho tha
nhân lúc ấy, thật là quý biết bao,
vì nó đòi ta ném mình vào sự
mất an toàn,
và đồng thời ném mình vào
vòng tay quan phòng của Thiên Chúa.
Mọi tính toán kiểu con người
biến mất,
để nhường chỗ cho lòng quảng
đại vô bờ.
Chắc chắn Thiên Chúa chẳng
để cho bà góa nghèo phải chết đói.
Hũ bột không cạn và bình dầu
không vơi
vẫn là quà tặng Chúa ban cho
bất cứ ai dám trao đi tất cả đời mình,
vì trao đi mà sau đó mình
không thấy thiếu thì không thật là trao đi.
Cầu nguyện:
Lạy Ngôi Lời Thiên Chúa rất
đáng mến,
xin dạy con biết sống quảng
đại,
biết phụng sự Chúa cho xứng
với uy linh Ngài,
biết cho đi mà không tính
toán,
biết chiến đấu không ngại
thương tích,
biết làm việc không tìm an
nghỉ,
biết hiến thân mà không mong
chờ phần thưởng nào
ngoài việc biết mình đã chu
toàn Thánh Ý Chúa. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm
Hồn Lên
23 THÁNG MƯỜI MỘT
Mở Rộng Tấm Lòng Để Đón Nhận
“Bất cứ ai đón nhận em bé này nhân danh Thầy là đón nhận chính
Thầy” (Lc 9,48). Lời ấy của Chúa Giêsu soi sáng ý nghĩa của việc đón nhận trẻ
em làm con nuôi. Quyết định nhận nuôi một đứa trẻ luôn luôn phát xuất từ tình
yêu đối với trẻ em và từ nỗi khát khao được làm cha làm mẹ. Việc nhận con nuôi
là một chứng tá độc đáo loan báo cho thế giới thấy tấm lòng rộng mở để chia sẻ
sự sống và tình yêu tự nguyện đối với một đứa trẻ đang cần có cha mẹ và cần một
mái ấm gia đình.
Dù trong thời đại chúng ta những đám mây đen đang vần vũ trên
các gia đình, chúng ta vẫn được khích lệ bởi vô số những tấm gương quảng đại rực
sáng lên trong các gia đình Kitôhữu. Chúng ta ngập tràn hy vọng khi nhìn thấy
các chứng tá ấy. Những sự chọn lựa theo tinh thần Kitô giáo thường trái ngược với
não trạng thế gian xung quanh chúng ta. Những sự chọn lựa ấy sẽ thách đố và chất
vấn những người cần nghe Tin Mừng, những người có khuynh hướng muốn sống một cuộc
sống đóng kín và ích kỷ. Việc nhận con nuôi là một dấu hiệu qua đó các gia đình
Kitôhữu tuyên bố rằng mình không muốn khép kín nơi chính mình – trái lại, muốn
mở ra đón nhận một đứa trẻ đáng thương và nhận một trách nhiệm cao cả cách vui
tươi và vô vụ lợi.
Quyết định nhận con nuôi không bao giờ là một quyết định dễ
dàng. Thật vậy, quyết định đó luôn luôn kèm theo với nó những bổn phận hết sức
quan trọng và phức tạp. Tuy nhiên, đó là một quyết định có sức làm phong phú cộng
đồng.
Tôi muốn nhấn mạnh rằng trong thời đại chúng ta ngày càng có nhiều
gia đình ước ao nhận ocn nuôi. Đây rõ ràng là một chiều hướng tích cực. Đây là
một sự đáp trả đầy yêu thương trước một tiếng gọi cao cả. Đó là lý do tại sao
tôi muốn bày tỏ sự ủng hộ của mình đối với những gia đình đang đảm nhận công việc
quan trọng này. Tôi cũng muốn khích lệ công việc của những người liên hệ đến việc
giới thiệu nhận con nuôi. Xin Chúa chúc lành cho công việc đầy ý nghĩa này và
chúc lành cho mọi gia đình đang nuôi dạy những đứa con nuôi một cách đầy yêu
thương và quảng đại.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong
Gia Đình
NGÀY 23-11
Thánh Clêmentê I giáo hoàng tử đao
Thánh Côlumbanô, viện phụ
Đn 1, 1-6.8-20; Lc 21, 1-4.
LỜI SUY NIỆM: “Ngước mắt lên nhìn, Đức Giêsu thấy những người giàu đang bỏ tiền dâng
cúng của họ vào thùng tiền. Người cũng thấy một bà góa túng thiếu kia bỏ vào đó
hai đồng tiền kẽm.”
Trong câu chuyện “Hai đồng tiền nhỏ của bà góa” Chúa Giêsu đang
nhắc cho chúng ta biết: trong việc dâng cúng để dùng vào công ích thiêng liêng;
hay làm việc bác ái đối với người nghèo, mỗi người phải làm với tấm lòng hết sức
khiêm tốn và chân thành, chứ đừng vụ hình thức bên ngoài mong được người ta
khen chê. cho dù ít hay nhiều; đồng thời cũng giúp cho những ai chứng kiến khi
người anh em làm việc thiện hay việc bác ái, cũng phải có cái nhìn như Chúa đã
nhìn người đàn bà góa nghèo dâng cúng cho Đền Thờ. Chứ đừng nhìn với dáng vẻ
bên ngoài để rồi đánh giá nhau.
Lạy Chúa Giêsu. Xin ban cho chúng con, mỗi ngày sống luôn biết
tiết kiệm trong tiêu dùng, để đóng góp cho công việc tông đồ, cũng như thực hiện
bác ái xã hội, nhất là đối với những anh chị em đang lâm cảnh nghèo đói.
Mạnh Phương
Gương
Thánh Nhân
Ngày 23-11
Thánh CLÊMENTÊ I
Giáo Hoàng Tử Đạo
Người ta biết được về thánh Clêmentê, vị giáo hoàng trị vì trong
10 năm chỉ nhờ bức "thư gởi giáo hữu Corintô" thôi. Vào thế kỷ thứ IV
có lưu hành những chứng thư đầy huyền thoại. Theo đó, cha Ngài là Phaustin thuộc
dòng dõi Giacop. Sinh tại Roma, được nuôi dưỡng trong Do thái giáo.
Thánh Clêmentê đã nghe theo những diễn từ của các thánh tông đồ
và trở thành môn đệ các Ngài. Ngài đã theo thánh Phaolô trong các hành trình đi
truyền giáo và đã trở thành đấng kế vị thứ ba của thánh Phêrô. Vua Trajanô đang
bách hại các Kitô hữu biết được rằng: vị giáo hoàng đã đem được nhiều người trở
lại đạo. Ông kết án Ngài phải làm việc khổ sai tại các hầm mỏ bên kia Bắc Hải,
trong các miền hoang vắng. Hai ngàn Kitô hữu đẽo đá tại đây chịu cảnh khát nước
thảm khốc.
Tương truyền rằng thánh Clêmentê cầu nguyện rồi lên một ngọn đồi
và thấy một con chiên ghi dấu chân đúng vào chỗ có dòng nước tươi mát vọt lên
làm giảm khát cho người mang án. Các bức tranh cẩn đâu tiền còn diễn lại biểu
tượng một con chiên đứng trên ngọn núi xanh. Nhà vua khi biết được rằng thánh
Clêmentê đã dùng lời nói và phép lạ để an ủi các Kitô hữu, liền sai các sứ giả
tới cột cổ Ngài vào một cái neo rồi ném xuống biển. Lệnh đường thi hành. Nhưng
trong khi các tín hữu cầu nguyện trên bờ, họ thấy dòng nước rút đi một cách lạ
lùng và có thể đưa xác vị tử đạo lên đất liền.
Điều chắc chắn kính là bức thư của thánh Clêmentê đã thành một
trong các tài liệu quí giá của Kitô giáo thời Chúa xưa. Các Kitô hữu Côrintô chạy
đến Đức giáo hoàng để tìm hoà giải những cuộc tranh chấp, đã kính cẩn đón tiếp
thư của Ngài. Những thư này được đọc cho các cộng đoàn tín hữu. Thư của thánh
Clêmentê chứng thực việc thánh Phêrô đến và chịu chết ở Roma, việc Nêrô bắt các
Kitô hữu làm trò mua vui. Thư cũng gợi ý cho chúng ta việc tổ chức Giáo hội. Giữa
các sự việc lớn lao khác, thánh Clêmentê đã nói:
- "Ai mạnh hãy lo cho người yếu. Người giầu hãy giúp đỡ người
nghèo và người nghèo hãy chúc tụng Chúa và điều Ngài muốn cung ứng cho các nhu
cầu của họ. Người khôn ngoan hãy tỏ ra khôn ngoan không phải chỉ trong lời nói
mà còn trong các việc lành. Người khiêm tốn đùng nóí gì về mình và đừng tìm phô
diễn hành động của mình. Người lớn không thể tồn tại mà không có người nhỏ và
người nhỏ cũng không thể tồn tại mà không có người lớn... Thân thể không thể bỏ
qua sự phục vụ của những chi thể nhỏ bé hơn.
Các tín hữu còn học biết bằng qua những âu lo vô ích và sống đời
sám hối, mỗi người phải biết vâng phục để trở nên tôi tớ hoàn tất vinh quang
Thiên Chúa. Đức Kitô đã không đến trong kiêu sa, nhưng đã tự hạ, đã chịu khổ cực.
Vậy phải nên thánh và tín thác cho Chúa.
Chỉ một bức thư này còn quan trọng trong sự thật vượt xa mọi
truyện thần thoại.
*****************
Ngày 23-11
Ngày 23-11
Thánh CÔLUMBANÔ
Tu Viện Trưởng (..... - 615)
Thánh Côlumbanô sinh tại Kildare hay Carlow vào giữa thế kỷ thứ
VI, một thời kỳ mà danh tiếng các dòng tu Ai Nhĩ Lan đã bắt đấu nổi danh trên
khắp thế giới Kitô giáo. Khi ấy người ta tuôn đến các hòn đảo của các thánh
nhân để học hiểu văn chương và nghệ thuật trong các tu viện.
Côlumbanô có một trí khôn đặc biệt hứa hẹn những địa vị cao trọng
trong xã hội. Nhưng Ngài ưu tư vì những nguy hiểm mà sắc đẹp bày ra cho Ngài. Ước
muốn duy nhất của Ngài là sự thánh thiện, Ngài quyết giã từ thế gian để sống
trong tu viện. Nhưng mẹ Ngài không thể xa con một khi Côlumbanô gia nhập hàng
giáo sĩ. Ngày thánh nhân lên đường, mẹ Ngài nằm khóc ngang ngưỡng cửa.
Côlumbanô phải bước qua mình mẹ để đáp lời gọi của trời cao. Sau khi vượt qua
được cuộc chiến bi đát này, không còn gì phải trả để Ngài tiến tới trên đường
hòan thiện nữa.
Trước hết Côlumbanô theo học tại Lough Erne một trường ở
Cleenish, rồi sau đó ở Banger, ngôi trường quan trọng ở Ai Nhĩ Lan thời đó.
Tu viện Banger có hơn 3000 tu sĩ dưới sự dẫn dắt của thánh
Comgall và đã đưa ra nhiều mẫu gương anh hùng trong đời sống khổ hạnh.
Côlumbanô dạy học tại đây 10 năm. Lúc ấy Ngài khoảng 40 tuổi. Thánh Comgall sai
Ngài và một số tu sĩ đi truyền giáo tại Gaule, trong đoàn truyền giáo này con
có thánh Gall. Các tu sĩ vượt biển đến vương quốc Austrasia. Thánh Côlumbanô đã
từ chối lãnh địa mà vua Sigebert cho để thành lập tu viện. Suốt 14 năm, Ngài sống
đời lang thang để rao giảng Tin Mừng. Dân chúng thán phục những người ngoại quốc
đã tới yêu mến giúp đỡ họ trong khi tự ép mình sống đời nghèo khó nghiêm nhặt
này, Họ đổi lòng và đến lượt họ cũng yêu mến Thiên Chúa, thương yêu người khác.
Danh tiếng của Côlumbanô vang tới triều đình Bourgogne của vua
Gontran. Đứng trước ân huệ Ngài đã thực hiện cho dân cư, nhà vua hỏi vị tu sĩ
muốn gì để ở lại trong vương quốc của ông. Thánh CÔLUMBANÔ trả lời: - "Tôi
không có của cải nào hết ngoài việc thực hiện Tin Mừng và vác thánh giá, bỏ
mình và theo Chúa Giêsu Kitô".
Nhà vua đã hiến cho thánh nhân một pháo đài hoang phế ở Haute
Saonê để làm nhà ở. Lần này thánh Côlumbanô nhận lời. Lều rộng nhất dùng làm
nhà nguyện. Của ăn thường xuyên của các tu sĩ là rễ cây, thỉnh thoảng có được một
chút thực phẩm.
Dân chúng miền phụ cận nghe nói về những người này của Thiên
Chúa đã đưa các bệnh nhân tới xin cầu nguyện. Nhiều người muốn bắt chước và
chia sẻ cuộc sống của các Ngài. Thánh Côlumbanô phải thiết lập một tu viện thứ
hai ở Luxeuil. Dầu đây là nơi nghèo khổ, ẩm thấp. Nhưng một ít năm sau đã trở
nên một tu viện phồn thịnh, thành thủ phủ các đời viện tu. Các môn sinh không
ngừng đổ tới. Nhiều lãnh Chúa hiến dâng tài sản "phát tích qui y" tự
ép mình làm việc tay chân khai khẩn ruộng đất như người nghèo. Cả các bệnh nhân
cũng được chia sẻ cuộc sống này tùy sức họ có thể đóng góp. Cuộc sống cầu nguyện
và làm việc giữ được sự cân bằng chưa hề có cho tới lúc ấy.
Thánh Côlumbanô điều hành mọi chuyện và đôi khi lui về chòi tu của
Ngài gần Annecy để viết luật, dựa trên tình mến Chúa yêu người, hy sinh cầu
nguyện chung, việc làm tay chân không được ngăn trở kinh nguyện thâm sâu trong
lòng. Ngài nói: - Cả đời chúng ta đều diễn tiến như một ngày. Tình yêu ước muốn
hứơng thượng, chúng ta tìm về quê hương nơi cha ngự trị.
Một thời gian sau, Ngài thiết lập một tu viện thứ ba ở
Phontaines.
Tuy nhiên các tu sĩ phải trải qua một cơn thử thách. Cả các giám
mục Pháp lẫn hai triều đình không giữ mãi được thiện cảm. Các tu sĩ Ai Nhĩ Lan
vẫn cử hành lễ Phục sinh theo nghi lễ Celtie. Và các giám mục dựa vào chiêu bài
này để triệu vời Côlumbanô tới một hội nghị. Thánh nhân cáo lỗi và gửi một lá
thư hùng hồn "xin cho được sống im lặng trong rừng sâu bên cạnh xương tàn
của 17 anh em đã chết". Đồng thời Ngài cũng đề nghị là có nhiều vấn đề cấp
bách hơn ý kiến khác nhau về phụng vụ mà các giám mục cần quan tâm.
Vua nước Bourgogne có 4 người con ngoại hôn. Sự kiện các giám mục
thường lui tới triều đình mà không bao giờ cảnh giác các gương mù này, chứng tỏ
tình trạng Kitô giáo thấp kém thời đó. Vua Thierri kế vị cha là Ghentran dưới sự
bảo trợ của hoàng thái hậu Brunehaut có một đời sống phóng đãng. Những lời
trách cứ của thánh nhân làm bà hoàng tức giận. Dầu có cảm tình với vị tu viện
trưởng, bà cấm không cho người vào tu viện Luxeuil. Thế là chỉ còn cách trục xuất
Ngài đi. Các tu sĩ muốn theo Ngài, nhưng bà hoàng ngăn cản chỉ cho các tu sĩ có
máu Ai Nhĩ Lan đi. Bị bắt giam tại Bessanson, Côlumbanô trốn thoát được. Không
ai được cung cấp đồ ăn cho các Ngài, cũng không được cho trú ngụ. Ở Tours, vị
tông đồ đã cầu nguyện bên mộ thánh Martinô và tiên báo Thierri sẽ mất ngôi cho
vua Clotaire II, người sẽ nối lại vương quốc Pháp. Thierri gửi lệnh cấm tàu cho
tới Nantes là nơi Ngài phải đáp tàu về Ai Nhĩ Lan. Từ hải cảng này vị tu viện
trưởng đã viết cho các bạn còn lại Luzeuil một lá thư rất thời danh.
Côlumbanô đáp tàu đi tới Ai Nhĩ Lan, nhưng cơn bão nổi lên đưa
tàu vào bờ. Ngài tin đây là ý Chúa quan phòng và lên đường đi Neustrie. Ngài giảng
đạo cho vua Clotaire II, làm cho vua và triều thần chấp nhận Kitô giáo. Rồi
Ngài đi Metz. Người ta đem con ra đón đường xin Ngài chúc lành. Ơn gọi tu dòng
chỗi dậy khi Ngài đi qua. Quyết lòng rao giảng Tin Mừng cho những người thờ ngẫu
tượng, nhà truyền giáo ngược sông Rhin và cùng với vài môn sinh tới hồ Zurich,
dân cư ở dây nổi tiếng hung dữ. Nhà chép sử kể rằng: ngày kia dân chúng cho thần
Wodon một bình đầy bia. Thày dòng liền thở và bình vỡ tan. Môn sinh của Ngài là
Gall còn đốt các ngẫu tượng buộc thánh Côlumbanô không được chọc tức dân chúng
nữa. Ngài lui về gần hồ Constance.
Với sự trợ giúp của thánh Gall, Ngài lập một tu viện, nhưng dân
chúng vùng lên cận thù ghét. Vùng này rơi vào quyền hạn của Thierri người vừa mới
giết em mình là Thibert. Sau khi vượt mọi khó khăn, Côlumbanô ra đi và để thánh
Gall ở lại.
Sau khi vượt dãy núi Alpes, vị tông đồ già cả tới vùng đất của
dòng họ Lombarnô. Nơi đây Ngài phải chống lại lạc giáo Ariô và bị trục xuất một
lần nưã. Lui về chân dãy núi Appennins, Ngài thiết lập một tu viện Bobbiô, vua
Clotaire lúc này đã nắm quyền và mời Ngài trở lại nước Pháp. Nhưng thánh nhân
thấy đời gần tàn chỉ viết thư xin vua sống theo tinh thần Kitô giáo sâu xa hơn.
Vua đã kính cẩn nhận lời khuyên và bao bọc tu viện Luxeuil. Thánh Côlumbanô
không ngừng thư từ cho các tu sĩ và từ hang động ẩn tu của mình, Ngài viết thư
bằng văn vần để giã từ bạn bè trước khi qua đời, ngày 23 tháng 11 năm 615.
Công cuộc của Ngài triển nở mạnh mẽ sau cái chết của Ngài.
Luxeuil trở thành trưởng phái tu viện quan trọng trong thế kỷ VII và còn tồn tại
tới cuộc cách mạng Pháp. Bobbiô trở thành tu viện Monte Cassinô miền Bắc
Otalia. Ngày nay dân Bắc Italia rất sùng kính Ngài, với 34 giáo xứ được dâng
kính Ngài.
(daminhvn.net)
23 Tháng Mười Một
Tấm Gương
Trong Lâu Ðài Versailles
Lâu đài Versailles ở ngoại ô Paris là một trong những danh lam
thu hút nhiều du khách nhất. Trong lâu đài, nơi mà du khách cảm thấy bị giữ
chân lâu nhất đó là phòng khánh tiết bằng pha lê, được trang bị bằng hàng ngàn
tấm kính từ trên trần nhà đến các vách tường.
Du khách sẽ ngỡ ngàng vì một hiện tượng lạ lùng: Nếu bạn đưa tay
ra và chỉ về một phía nào đó, bạn sẽ thấy có hàng trăm ngàn cánh tay và hàng
ngàn khuôn mặt đang hướng về bạn như đang ngắm nhìn bạn. Bạn sẽ cảm thấy như mọi
người đang chú ý đến bạn. Nhưng nhìn cho kỹ thì tất cả những cánh tay, tất cả
những khuôn mặt đó đều là của bạn.
Ðó là hình ảnh của mỗi người trong chúng ta. Ai trong chúng ta
cũng cho mình là quan trọng nhất. Tất cả mọi hành động, mọi ý nghĩ, mọi lời
nói, đều tập trung vào bản thân chúng ta và trong lòng chúng ta không còn một
chỗ trống nào dành cho người khác.
Cái tôi trong chúng ta có thể là một trở ngại cho tương giao giữa
chúng ta và người khác cũng như tương giao giữa chúng ta và Chúa. Sự sống của
Chúa chỉ có thể lớn mạnh trong chúng ta và sự sống của chúng ta chỉ có thể triển
nở là lúc chúng ta thực sự sống cho Chúa. Lời của Ngài phải tiêu diệt cái tôi
ích kỷ trong chúng ta để chúng ta có thể lớn lên trong Người. Nói như thánh
Gioan Tẩy Giả khi gặp chúa Giêsu: "Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại".
Thưa bạn, đó là bí quyết trong cuộc sống của người Kitô chúng ta.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét