31/01/2016
Chúa Nhật tuần 4 thường niên năm C
(phần II)
Phụng vụ Lời Chúa: Chúa Nhật IV Mùa Thường Niên - Năm C
CHÚA NHẬT IV THƯỜNG NIÊN
(Gr 1,4-5.17-19 - 1Cr 13,4-13 - Lc 4,21-30)
(Gr 1,4-5.17-19 - 1Cr 13,4-13 - Lc 4,21-30)
NGÔN SỨ, CHIẾN SĨ
LUÔN ĐƯỢC THIÊN CHÚA Ở VỚI
LUÔN ĐƯỢC THIÊN CHÚA Ở VỚI
“Họ xô Người xuống vực thẳm.
Nhưng Người rẽ qua giữa họ mà đi”
(Lc 4,30)
Nhưng Người rẽ qua giữa họ mà đi”
(Lc 4,30)
I. CÁC BÀI ĐỌC
1. Bài đọc I (Gr
1,4-5.17-19)
Bài
đọc I xác định ơn gọi ngôn sứ của Giêrêmia là từ Thiên Chúa. Ông được Thiên
Chúa tuyển chọn và thánh hóa ngay từ trong lòng mẹ để trở nên ngôn sứ cho các
dân tộc. Thiên Chúa sai Giêrêmia nói với dân chúng những lời Người truyền cho
ông. Sứ mệnh ngôn sứ được báo trước sẽ không dễ dàng, nhất là bản thân ngôn sứ
cũng chỉ là con người, còn đối tượng được loan báo thuộc mọi tầng lớp cao thấp
sang hèn, là những cá nhân hay tập thể. Lời ngôn sứ có khi được đón nhận nhưng
rất nhiều khi bị từ chối và cá nhân ngôn sứ bị ngược đãi, thậm chí bị giết
chết. Nhưng có một điều Thiên Chúa luôn bảo đảm với các ngôn sứ là chính Người
sẽ ở cùng ông và giải thoát ông; chính Thiên Chúa sẽ làm cho ngôn sứ của người
kiên vững như thành trì kiên cố khi họ can đảm và tin tưởng vào sự trợ giúp và
ở cùng của Người.
2. Bài đọc II (1Cr
13,4-13)
Bài
đọc II là một bài ca tuyệt vời về đức mến. Thánh Phaolô xác định trong các ân
huệ, đức mến là cao trọng hơn cả. Đức mến đối với thánh Phaolô là một lối sống
chứ không chỉ là tình cảm; đó là thành quả của Tin Mừng. Không có tình yêu hay
lòng mến người ta không thể cảm nghiệm được Thiên Chúa cách sâu thẳm, vì Thiên
Chúa chính là tình yêu. Cũng thế, không có tình yêu người ta không thể hiểu
biết nhau trong mối liên hệ với Thiên Chúa và vũ trụ. Bài ca đức mến là một bài
kiểm nghiệm về lòng mến của mỗi người về mức độ của lòng mến cũng như bản chất
của lòng mến.
3. Bài Tin Mừng (Lc
4,21-30)
“Hôm
nay đã ứng nghiệm lời Thánh Kinh tai quý vị vừa nghe”. Lời Thánh Kinh đó chính
là niềm hi vọng được viết trong sách ngôn sứ Isaia mà chính Chúa Giêsu vừa đọc
cho những người hiện diện trong hội đường Do thái vào ngày hôm ấy nghe. Hôm nay
đã ứng nghiệm, nghĩa là niềm hi vọng muôn dân chờ đợi bao năm nay đã thành hiện
thực với sự khởi đầu sứ vụ của Chúa Giêsu. Tuyên bố như thế Chúa Giêsu muốn xác
định chính Người là Đấng được xức dầu để loan Tin Mừng cho người nghèo khó mà
ngôn sứ Isaia đã nói, là Đấng được tuyển chọn, Đấng bắt đầu một thời đại mới mà
ngôn sứ Giêrêmia đã loan báo như chúng ta nghe trong bài đọc I. Không phải chỉ
đến hôm nay kỷ nguyên mới của ơn cứu độ mới được bắt đầu loan báo, nhưng nó đã
được loan báo cho Mẹ Maria trong ngày truyền tin, và Mẹ đã đáp trả Tin Mừng này
với bài ca Magnificat tán dương điều kỳ diệu Thiên Chúa thực hiện giữa
dân Người. Hôm nay tin vui đó được loan báo cho dân thành Nadarét, những người
đồng hương với Chúa Giêsu.
Nhưng
dân thành Nadarét đã đón nhận tin vui với suy nghĩ hạn hẹp; họ chỉ nhận ra Chúa
Giêsu chính là con ông thợ mộc Giuse, là đồng hương của họ, và hi vọng Người sẽ
làm điều gì đó cho riêng họ. Chúa Giêsu không dừng lại ở việc thỏa mãn những
ước muốn của họ, nhưng Người cho họ thấy sứ vụ thần linh của Người, sứ vụ của Con
Thiên Chúa là Đấng Cứu độ, là Đấng công bố Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, cho kẻ bị
giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do
cho người bị áp bức, và công bố một năm hồng ân của Thiên Chúa. Người là Đấng
cứu Thế, cứu độ muôn dân chứ không chỉ riêng những người đồng hương với Người.
Chúa
Giêsu không dừng lại với sự ngưỡng mộ sai lầm mà những người đồng hương dành
cho Người; Người cần cho họ biết rõ căn tính và sứ vụ của Người. Nhưng đáng
buồn thay, khi họ biết rõ sự thật về Người thì họ lại từ chối và chống đối
Người. Trước hết Chúa Giesu sửa sai suy nghĩ của những người đồng hương là
Người sẽ làm những điều phi thường ngay tại quê hương xứ sở như đã làm ở những
nơi khác, vì họ có đặc ân là “đồng hương” với Người. Nhưng Chúa Giêsu chính là
Đấng được sai đến với những người bị bỏ rơi, những người không có một tí đặc
quyền đặc lợi nào trong xã hội như lời ngôn sứ Isaia. Và điều quan trọng Chúa
Giêsu cần nhấn mạnh về căn tính của Người là, Người chính là ngôn sứ của Thiên
Chúa, và đón nhận số phận của một ngôn sứ. Ngôn sứ là người nói lời Thiên Chúa
và thực hiện sứ mệnh Người trao phó. Chính Chúa Giêsu đã xác định như thế,
nghĩa là Người không dừng lại ở ý muốn của con người nhưng là thực hiện chương
trình cứu độ của Thiên Chúa Cha, dù cho sứ mệnh ngôn sứ có thể khiến Người phải
bị từ chối và loại trừ.
II. CÂU HỎI GỢI Ý
1. Sống
ơn gọi ngôn sứ là sống cho sự thật nên rất dễ bị chống đối bởi những thế lực
của sự dữ. Tôi có đang nỗ lực sống ơn gọi ngôn sứ hay tôi đang thỏa hiệp với sự
dữ đang hoành hành môi trường sống và làm việc của tôi hôm nay?
2. Chúa
Giêsu, với tôi, Người là ai? Con bác thợ mộc thành Nadarét, hay là Đấng cứu độ
Thiên Chúa sai đến? Hay nói cách khác, đối với tôi, Người có phải là Thiên Chúa
mà tôi nghĩ tôi có quyền sở hữu bởi vì tôi quen Người lắm khi tôi đi lễ đọc
kinh, làm việc bác ái hàng ngày, và Người phải trả nợ cho tôi, nghĩa là tôi
phải được hưởng ân huệ của Người đầu tiên? Việc yêu mến Thiên Chúa của tôi có
xuất phát từ sự tin yêu Thiên Chúa thật sự, tin rằng Người là Đấng cứu độ tất
cả mọi người, hay chỉ dựa vào những luật lệ qua lại?
3. Xét
lại lòng yêu mến của tôi theo bài ca đức mến của thánh Phaolô trong bài đọc II
hôm nay, tôi có thật sự yêu Thiên Chúa hay yêu anh em mình không? Nếu chưa, tôi
phải làm gì?
III. LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Anh chị em thân mến! Thiên
Chúa Cha đã sai Ðức Giêsu Kitô đem Tin mừng cứu độ cho mọi dân tộc trên thế
giới. Tất cả chúng ta được mời gọi tiếp nối sứ mạng của Đức Kitô giữa thế giới
hôm nay. Trong tâm tình tri ân cảm tạ, chúng ta cùng dâng lời cầu nguyện.
1. “Ta đã
đặt ngươi làm tiên tri trong các dân tộc.” Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho các
thành phần trong Hội Thánh luôn ý thức và trung thành với sứ mạng ngôn sứ giữa
thế giới hôm nay bằng một đời sống lành thánh, thấm nhuần và tỏa sáng niềm vui
Tin Mừng.
2. Tại
nhiều nơi trên thế giới và ngay tại Viêt Nam vẫn còn những người đang đau khổ
vì nạn kỳ thị, bất công, bạo lực. Chúng ta cùng cầu xin cho các nhà cầm quyền
biết tôn trọng công lý, khát khao hòa bình, và luôn quan tâm giải quyết những
bất ổn xã hội.
3. “Không
một tiên tri nào được đón tiếp tại quê hương mình.” Chúng ta cùng cầu nguyện
cho mọi kitô hữu khi phải đối diện với những gian nan thử thách trong cuộc sống
chứng tá luôn mạnh mẽ trong đức tin, vững vàng trong đức cậy, và kiên trì trong
đức mến.
4. “Đức
mến cao trọng hơn cả và không bao giờ qua đi.” Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho
mọi người trong cộng đoàn chúng ta luôn nhận ra Chúa Kitô nơi anh chị em mình,
và biết cảm thông chia sẻ cũng như tận tâm giúp đỡ nhau bằng tình yêu thương
huynh đệ.
Chủ tế: Lạy Thiên Chúa là Cha rất nhân
từ, Chúa luôn dủ thương mọi tâm hồn khiêm tốn chân thành. Xin lắng nghe những
ước nguyện của dân Chúa, và ban ơn nâng đỡ giúp chúng con luôn tích cực chu
toàn sứ mạng loan báo Tin mừng cứu độ của Chúa cho muôn người. Chúng con cầu
xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.
SCĐ CN 4 TN.C
Chủ đề :
Ngôn sứ bị từ chối
"Họ kéo Ngài lên tận
đỉnh núi để xô Ngài xuống vực"
(Lc 4,29)
Sợi
chỉ đỏ :
Nhiệm
vụ làm ngôn sứ thật là bạc bẽo : Thời Cựu Ước, ngôn sứ Giêrêmia đã bị dân
mình bách hại (bài đọc I) ; Thời Tân Ước, Chúa Giêsu cũng bị những người
đồng hương Nadarét muốn xô xuống vực thẳm (Bài Tin Mừng). Nhưng các ngôn sứ vẫn
can đảm thi hành sứ mạng của mình vì các ngài dựa vào Thiên Chúa (đáp ca).
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh
chị em thân mến
Tục
ngữ có câu "Lời thật mất lòng". Chúa Giêsu ưu tiên loan Tin Mừng cho
những người đồng hương của Ngài ở Nadarét, thế mà họ lại xua đuổi Ngài. Thời
bây giờ cũng vậy, nhiều người không muốn nghe những lời xây dựng chân thành,
thậm chí còn ghét những người nói thẳng nói thật.
Hôm
nay chúng ta hãy suy gẫm về thực tế chua chát ấy, và xin Chúa giúp chúng ta
đừng rơi vào thói xấu ấy.
II. Gợi ý sám hối
-
Xin Chúa tha thứ cho những lần chúng con bỏ ra ngoài tai những lời xây dựng
chân thành của kẻ khác.
-
Xin Chúa tha thứ cho những lần chúng con có phản ứng không tốt với người khác
chỉ vì họ đã nói thẳng nói thật.
-
Xin Chúa tha thứ cho những lần chúng con đối xử bất công : vui vẻ với
người khen nịnh, và khó chịu với người chân thành góp ý.
III. Lời Chúa
1.
Bài đọc I (Gr 1,4-5,17-19)
Giêrêmia
tự thuật về việc Thiên Chúa gọi ông làm ngôn sứ : Thực ra Giêrêmia không
muốn làm ngôn sứ chút nào cả vì ông biết mình không có khả năng, và ông cũng ý
thức rằng ông sẽ gặp rất nhiều chống đối và đau khổ vì nhiệm vụ ấy. Nhưng vì
tin tưởng vào sự trợ giúp của Chúa nên ông đã can đảm đáp lại lời Chúa gọi.
2.
Đáp ca (Tv 70)
Thánh
vịnh 70 quãng diễn tâm tình của ngôn sứ Giêrêmia. Đó là tâm tình cậy trông và
phó thác : "Con ẩn náu bên Ngài lạy Chúa, xin đừng để con phải tủi
nhục bao giờ… Xin Ngài như núi đá cho con tru ẩn, như thành trì để cứu độ
con".
3.
Tin Mừng (Lc 4,21-30)
Đoạn
Tin Mừng hôm nay nói về hoạt động của Chúa Giêsu ở Nadarét quê hương
Ngài :
1.
Ngày Sabát, Ngài vào hội đường, dựa trên đoạn sách Isaia để công bố chương
trình hành động của Ngài. Đó là mang Tin Mừng và ơn cứu độ cho những người
nghèo khổ.
2.
Bài giảng đã gây hứng khởi trong lòng thính giả. Họ thầm mong rằng, vì tình
đồng hương, Ngài sẽ ưu tiên làm phép lạ cho họ. Nhưng Ngài đã từ chối, bởi vì
Ngài là Đấng cứu độ của mọi người chứ không của riêng ai.
3.
Thất vọng, dân Nadarét đã trục xuất Ngài khỏi thành và còn muốn giết Ngài.
4.
Bài đọc II (1 Cr 12,31--13,13) (Chủ đề phụ)
Sau
khi giải thích cho tín hữu Côrintô về các đặc sủng nhằm phục vụ cộng đoàn (Chúa
nhật trước), Thánh Phaolô nói đến ân sủng cao quý nhất trong mọi ân sủng, đó là
Đức Mến.
-
Đức Mến làm cho các ơn khác có giá trị thực ("Giả như tôi có nói được các
thứ tiếng… mà không có đức mến thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng,
chủm choẹ xoang xoảng").
-
Đức Mến cao trọng hơn mọi nhân đức khác ("Hiện nay đức tin, đức cậy, đức
mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là Đức Mến")
IV. Gợi ý giảng
* 1.
Cần có ngôn sứ
Mỗi
thời kỳ lịch sử đều có ngôn sứ. Mỗi thời kỳ lịch sử đều cần ngôn sứ. Bởi vì
"ngôn sứ" là sứ giả của Lời Chúa, nếu không có ngôn sứ thì có thể Lời
Chúa sẽ bị yếu đi.
Thời
Cựu Ước có các ngôn sứ Isaia, Giêrêmia, Êdêkiên v.v. Thời Tân Ước có Chúa
Giêsu, có các tông đồ… Thế kỷ XIII có Phanxicô Assidi… Thế kỷ XVII có Vinh Sơn
Phaolô… Thế kỷ XX có Têrêsa Calcutta v.v.
Thực
ra con người ngôn sứ chẳng có gì khác lạ hơn người thường : dân làng
Nadarét đã nhận định về Chúa Giêsu "Ông ta chẳng phải là con bác thợ mộc
Giuse đó sao ?" Ở một vài phương diện nào đó, ngôn sứ còn thua kém
người khác nữa : Giêrêmia đã thành thật thưa với Chúa "Lạy Chúa, con
không biết nói. Con chỉ là một đứa trẻ".
Nhưng
ngôn sứ hơn người là do Lời Chúa : ngôn sứ nghe được Lời Chúa, tin tưởng
vào Lời Chúa, và nhiệt thành chuyển đạt Lời Chúa đến cho mọi người.
Dù
"hơn người", nhưng không hẳn ngôn sứ được người quý mến, trái lại
thường bị người chống đối và bách hại, bởi vì "Lời thật mất lòng".
Tuy
thường bị người ta đối xử tệ, nhưng ngôn sứ chính là kẻ làm ơn cho người. Nhờ
ngôn sứ nhắc người ta sống đúng lời Chúa.
Sứ
mạng ngôn sứ rất khó khăn và bạc bẽo. Nhưng ngôn sứ sẽ chu toàn sứ mạng nhờ cậy
dựa vào sự trợ giúp của Chúa.
Qua
bí tích Rửa Tội, mỗi kitô hữu chúng ta đều được Chúa trao sứ mạng là ngôn sứ
của Ngài.
* 2.
Kiên vững – Dịu hiền
Thôi
Trữ là quyền thần nước Tề, định giết vua Trang Công, bèn hội họp sĩ phu lại
cùng nhau thề thốt. Ai nấy đều sợ hãi, răm rắp vâng lời. Duy có Án Tử nghiễm
nhiên như không, nhất quyết không chịu thề.
Thôi
Trữ bảo Án Tử : "Ngươi nghe ta. Ta lấy được nước, thì ta cho một nửa.
Nhược bằng không nghe, ta giết ngay lập tức".
Lúc
ấy, bốn mặt quân lính hầm hầm những muốn đưa gươm giáo ra đâm chém Án Tử. Chết
đến nơi, mà Án Tử vẫn không biến sắc, ung dung nói rằng :
"Lấy
lợi nhử người ta, bảo người ta phản bội quân thượng là bất nhân ; lấy binh
khí hiếp người ta, làm người ta mất chí khí là bất dũng. Giết thì giết, ta đây
không theo việc bất nhân của nhà ngươi đâu".
Thôi
Trữ nghe nói, không dám làm gì Án Tử. Án Tử đứng dậy, ung dung bước ra.
*
Thôi
Trữ quyền hành là thế, mà chỉ một câu nói của Án Tử cũng đủ làm ông phải chùn
bước. Thế mới biết sự thật có sức mạnh hơn bạo lực quyền uy.
Bài
Tin Mừng hôm nay kể lại : "Mọi người trong hội đường đều đầy căm
phẫn, họ chỗi dậy và trục xuất Người ra khỏi thành : Họ dẫn Người lên
triền núi, nơi xây cất thành trì của họ, để xô Người xuống vực thẳm. Nhưng
Người rẽ qua giữa họ mà đi" (Lc 4,29-30). Chúa Giêsu chính là Sự Thật
tuyệt đối, nên từ nơi Người toát ra sức mạnh phi thường, khiến đám người bạo
động phải đứng như trời trồng để Người đi qua.
Những
người đồng hương với Chúa Giêsu cảm thấy khó chịu, vì họ không thể tin
rằng "Thần khí Chúa" lại ngự xuống trên con ông
Giuse thợ mộc.
Họ
cảm thấy nghi ngờ, vì họ không thể chấp nhận một con người nghèo khổ làng
Nadarét lại là tiên tri, là Đấng Thiên sai.
Họ
càng căm phẫn, khi con người ấy không chịu thực hiện những phép lạ mà họ yêu
cầu. Thế là bạo động nảy sinh, họ muốn tiêu diệt Người cho khuất mắt. Đúng như
lời Chúa Giêsu đã nói :"Không một tiên tri nào được đón tiếp nơi
quê hương mình" (Lc 4,24).
Thế
mới ứng nghiệm lời ông Simêon : "Trẻ này là dấu hiệu bị ngưới
đời chống báng" (Lc 2,34). Lời tiên tri này còn theo Người suốt
cả cuộc đời.
Nếu
dân làng Nadarét ép Chúa Giêsu làm phép lạ để minh chứng Người là tiên tri, thì
các đầu mục Do thái cũng đòi Chúa Giêsu chứng minh giáo lý của Người là chính
thống.
Nếu
dân làng Nadarét tố cáo Chúa Giêsu là lộng ngôn phạm thượng, thì các người
Pharisêu cũng kết tội Người dựa vào thế giá cửa quỉ vương.
Nếu
dân làng Nadarét cố tìm cách giết Chúa Giêsu, thì dân thành Gíêrusalem cũng
quyết tâm đóng đinh Người trên thập giá.
Mỗi
người tín hữu Kitô đều có thể hiểu được thế nào là bị xua đuổi, bị loại trừ, bị
kỳ thị và bị bỏ rơi, vì "Nếu thế gian đãghen ghét các con, thì hãy
nhớ rằng họ đã ghét Ta trước" (Ga 15,18), nhưng ít có ai cảm nhận
được tâm trạng của Chúa Giêsu vào những lúc như thế này : Người có căm thù
những kẻ ruồng rẫy Người không ? Người có đầu hàng trước nghịch cảnh này
chăng ? Nói như Martin Luther King : "Tôi vui mừng vì
Thiên Chúa chúng ta thờ là Thiên Chúa có tinh thần kiên vững và con tim dịu
hiền".
Vâng,
nếu Thiên Chúa chỉ là Đấng có tinh thần kiên vững, thì Người sẽ là một Thiên
Chúa xa cách, lạnh lùng, ngự trị tại một nơi nào đó trên chốn trời cao để ngắm
nhìn thế sự thăng trầm. Nhưng nếu Người chỉ là Đấng có con tim dịu hiền, thì
Người sẽ là một Thiên Chúa uỷ rnị nhu nhược, không thể hành động khi mọi sự đi
lệch hướng.
Đứng
trước cảnh bị ruồng rẫy hôm nay, con tim của Người không hề chai đá và tinh
thần của Người không chút bạc nhược. Người có tinh thần đủ kiên vững để vượt
trên thế giới, và có con tim đủ dịu hiền để ở giữa con người.
Nếu
có một bài học nào được rút ra từ bài Tin Mừng hôm nay thì đó chính là :
Thiên Chúa mạnh mẽ vô song, có thể "băng qua giữa họ mà đi", nhưng
Người cũng là Đấng giàu lòng thương xót. Khi chúng ta ngỗ nghịch xúc phạm đến
Người, khi chúng ta muốn "xô Người xuống vực thẳm", thì
chúng ta cần biết rằng, chính lúc đó Người đang yêu thương chúng ta và sẵn sàng
cho chúng ta một cơ hội để quay trở về.
Thiên
Chúa là Đấng có tinh thần kiên vững trong phán quyết công minh, nhưng Người
cũng là Đấng có tính dịu hiền trong tình thương và ân sủng.
Thiên
Chúa ban ân sủng cứu độ cho hết mọi người, chứ không chỉ dành riêng cho một số
người được đặc ân.
Thiên
Chúa ban ân sủng Cứu độ để chúng ta sinh ích cho mình và làm lợi cho anh em,
chứ không phải để chúng ta khư khư giữ lấy cho riêng mình.
*
Lạy
Chúa, Tiên Tri là ơn gọi và là sứ mạng của mỗi người tín hữu chúng con.
Xin
cho chúng con luôn can đảm nói điều Chúa muôn nói, và nói nhân danh Chúa, cho
dù có phải bị chống đối, phẫn nộ.
Xin
cho chúng con luôn xác tín rằng : Chúa đầy quyền năng cả nhưng cũng rất
giàu lòng xót thương, luôn dẫn dắt chúng con từ những hố sâu tăm tối đến những
nẻo đường chan hoà ánh sáng, tràn đầy hy vọng, nhờ đó, cuộc đời chúng con được
viên mãn. Amen (TP)
3.
Ưu tiên cho ai ?
Cuộc
gặp gỡ giữa Chúa Giêsu với dân làng Nadarét ban đầu rất tốt đẹp :
"Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng
Ngài". Nhưng sau đó là đổ vỡ hoàn toàn : "Mọi người trong hội
đường đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy lôi Ngài ra khỏi thành… Họ kéo Ngài lên tận đỉnh
núi, để xô Ngài xuống vực"
Nguyên
do gây đổ vỡ là quan niệm về ưu tiên. Dân làng Nadarét nghĩ rằng Chúa Giêsu
phải ưu tiên cho họ, bởi vì họ là đồng hương của Ngài. Ngài đã từng làm phép lạ
ở thành Capharnaum xa lạ thì Ngài phải làm nhiều phép lạ hơn nữa ở Nadarét này
mới phải, vì đây chính là quê hương của Ngài kia mà : "Tất cả những
gì chúng tôi nghe nói ông đã làm tại Capharnaum, ông cũng hãy làm tại đây, tại
quê ông xem nào". Phần Chúa Giêsu thì muốn dành ưu tiên cho những người
nghèo khổ : "Thần khí Chúa ngự trên tôi… để tôi loan báo Tin Mừng cho
kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ giam cầm biết họ được tha, cho
người mù biết họ sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức…"
Nói
cách khác, dân làng Nadarét muốn ưu tiên theo tình cảm, còn Chúa Giêsu thì chủ
trương ưu tiên theo sứ mạng. Tình cảm thường hẹp hòi, sứ mạng thì bao la. Tình
cảm thường mù quáng, sứ mạng mới sáng ngời.
Chúng
ta thường bị tình cảm làm mù quáng và lệch lạc, ngay cả khi chúng ta làm việc
bác ái và làm công tác tông đồ. Gương Chúa Giêsu nhắc ta phải luôn ý thức đến
sứ mạng. Nếu có ưu tiên thì hãy ưu tiên cho những người nghèo nàn, khổ sở.
* 4.
Trở lại quê hương
Sau
nhiều năm xa cách ngôi làng Transkei là nơi ông đã sinh ra và lớn lên, Nelson
Mandela có dịp trở lại đấy. Lúc bấy giờ ông đã là một luật sư có nhà cửa ở thủ
đô Johannesburg. Ông đã ghi lại cảm tưởng như sau : "Trở lại một nơi
chẳng có gì thay đổi để khám phá ra rằng mình đã đổi thay. Quê hương thì vẫn
như xưa, chẳng có gì khác hơn hồi mình sinh ra và lớn lên ở đấy. Nhưng tôi nhận
ra rằng suy nghĩ và cách nhìn của mình đã khác xưa rất nhiều". Vì thế
Nelson Mendela rất hạnh phúc khi trở về thăm lại quê cũ, nhưng ông không ở lại
đó, vì nó đã trở thành quá chật hẹp đối với ông.
Có
lẽ cảm nghĩ của Chúa Giêsu cũng giống như thế khi Ngài trở về Nadarét. Những
người đồng hương của Ngài chẳng có gì thay đổi : họ vẫn mãi coi Ngài là
con bác thợ mộc chứ không phải là Đấng Messia ; họ vẫn quen lối suy nghĩ
hẹp hòi cho rằng ơn cứu độ là đặc ân của người do thái, chứ không thể chấp nhận
rằng mọi người đều được hưởng ơn cứu độ.
Chúa
Giêsu trở về quê hương để mang cho đồng hương của Ngài một sự đổi mới. Tuy
nhiên họ không chịu thay đổi. Vì thế nên Ngài không thể ở lại quê hương, Ngài
đành ra đi, tiếp tục đến những nơi khác. (FM)
5.
Đức Mến
Có
một sự liên kết thiết yếu giữa Đức Tin và Đức Mến. Câu chuyện sau đây cho thấy
rõ điều ấy :
George
Herbert là một Linh mục, một thi sĩ và một nhạc sĩ nghiệp dư. Một hôm khi ông
đang trên đường đến tham dự một cuộc hòa nhạc thì gặp một người nghèo bị té
ngựa. Ông đã dừng lại, cởi áo dòng, xắn tay áo để đỡ người ấy lên, đỡ con ngựa
lên và giúp chất hành lý người ấy lên lưng ngựa. Xong xuôi mọi chuyện, ông mới
tiếp tục đến phòng hòa nhạc.
Bình
thường ông ăn mặc rất sạch sẽ. Nhưng hôm nay tay chân và quần áo của ông đều
dính đầy bụi bẩn. Vì thế bạn bè rất ngạc nhiên. Khi ông kể lại chuyện mình đã
làm dọc đường thì một trong các người bạn tỏ ra không đồng ý vì cho rằng việc
đó không cần thiết và cũng không phải là trách nhiệm của ông. George Herbert đã
trả lời như sau : "Tôi thường cầu nguyện cho những người nghèo khổ.
Hôm nay tôi có dịp giúp đỡ người nghèo khổ. Nếu tôi không ra tay giúp thì tức
là tôi không làm đúng như lời mình cầu nguyện. Cũng giống như cây đàn chưa lên
dây đúng cung vậy."
Thánh
Giacôbê đã nói : "Đức tin mà không có việc làm là đức tin chết".
Những việc làm biểu lộ đức tin dễ thấy nhất là những việc bác ái.
Ngày
nay, hai chữ được người ta nói nhiều nhất là "tình yêu". Nhưng hình
như cái mà người ta gọi là tình yêu trong các phim ảnh và bài hát thường chẳng
phải là tình yêu gì cả. Đó chỉ là khát vọng, chiếm hữu và chế ngự. Nó ngược hẳn
với tình yêu.
Một
trong những lý do là ngày nay người ta đã hiểu rõ hơn về tính phức tạp – hay
phức hợp – trong bản chất con người. Từ đó người ta làm gì cũng do bị thúc đẩy
bởi nhiều động cơ. Đàng sau một việc xem ra bất vụ lợi thì cũng có động cơ vụ
lợi.
Bởi
thế, Thánh Phaolô khuyến cáo chúng ta coi chừng những động cơ đàng sau những
việc tốt chúng ta làm. Ngài nói rằng Đức Mến đích thực thì "không ghen
tương, không vênh vang, không tự đắc". Ngài còn nói "Giả như tôi có
đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt,
mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi". (FM)
V. Lời nguyện cho mọi
người
Chủ
tế :
Anh chị em thân mến, hôm nay ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu những lời Kinh thánh
chúng ta vừa nghe. Nhờ Người, chúng ta dâng lên Chúa Cha những lời nguyện xin
tha thiết của chúng ta :
1. Hội thánh được Chúa Giêsu thiết lập để
đem Tin mừng đến cho muôn dân trên khắp hoàn cầu / Chúng ta hiệp lời cầu
xin cho công cuộc rao giảng Tin mừng của Hội thánh / luôn đạt được nhiều
thành quả tốt đẹp.
2. Khát vọng sâu xa nhất của con người ngày
nay / là được sống trong hòa bình và thịnh vượng / Chúng ta hiệp lời
cầu xin cho Chúa / ban hòa bình cho những vùng còn khói lửa chiến tranh.
3. Hiện nay đức tin / đức cậy /
đức mến / cả ba đều tồn tại / nhưng cao trọng hơn cả là đức
mến / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các Kitô hữu / luôn cố gắng sống
trọn vẹn nhân đức quan trọng này.
4. Nhờ bí tích Thánh Tẩy / người Kitô
hữu trở nên anh em với nhau / vì có cùng một niềm tin và một Cha chung
trên trời / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng
ta / biết dẹp bỏ mọi kỳ thị hẹp hòi / những chia rẽ bất hòa / để
tất cả chúng ta nên một trong Chúa.
Chủ
tế :
Lạy Chúa, Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một để cứu chuộc chúng
con. Xin cho chúng con luôn biết vâng nghe lời Người là Đấng hằng sống và hiển
trị muôn đời.
VI. Trong Thánh Lễ
- Trước
kinh Lạy Cha : Chúng ta đang ở trong ngôi Nhà Thờ này như những anh
chị em ruột thịt sum họp trong mái ấm gia đình. Đúng vậy, vì chúng ta đều là
con của cùng một Cha chung trên trời. Giờ đây chúng ta hãy nghĩ đến Cha chúng
ta và hãy cùng nhau thưa chuyện với Ngài qua lời kinh Lạy Cha.
VII. Giải tán
Do
Bí Tích Rửa Tội, chúng ta được chia xẻ sứ mạng ngôn sứ của Chúa Giêsu Kitô.
Chúng ta hãy can đảm thi hành sứ mạng vừa cao đẹp vừa khó khăn ấy. Nguyện xin
ơn sủng Chúa luôn phù giúp anh chị em. Chúc anh chị em ra về bình an.
Lm.
Carolo HỒ BẶC XÁI
Lectio Divina: Chúa Nhật IV Thường Niên (C)
Chúa Nhật, 31 Tháng 1,
2016
Chúa Giêsu liên kết
Kinh Thánh với đời sống
Dân làng Nagiarét
không phục Chúa Giêsu và xua đuổi Người
Lc 4:21-30
1. Lời nguyện
mở đầu
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy sai Thần Khí Chúa đến giúp
chúng con đọc Kinh Thánh với cùng tâm tình mà Chúa đã đọc cho các môn đệ trên
đường Emmau. Trong ánh sáng của Lời Chúa, được viết trong Kinh
Thánh, Chúa đã giúp các môn đệ khám phá ra được sự hiện diện của Thiên Chúa
trong nỗi đau buồn về bản án và cái chết của Chúa. Vì thế, cây thập giá
tưởng như là sự kết thúc của mọi niềm hy vọng, đã trở nên nguồn mạch của sự
sống và sự sống lại.
Xin hãy tạo trong
chúng con sự thinh lặng để chúng con có thể lắng nghe tiếng Chúa trong sự Tác
Tạo và trong Kinh Thánh, trong các sự kiện của đời sống hằng ngày và trong những
người chung quanh, nhất là những người nghèo khó và đau khổ. Nguyện xin
Lời Chúa hướng dẫn chúng con để, giống như hai môn đệ từ Emmau, chúng con cũng
sẽ được hưởng sức mạnh sự phục sinh của Chúa và làm chứng cho những người khác
rằng Chúa đang sống hiện hữu giữa chúng con như nguồn mạch của tình anh em,
công lý và hòa bình. Chúng con cầu xin vì danh Chúa Giêsu, con Đức Maria,
Đấng đã mặc khải cho chúng con về Chúa Cha và đã sai Chúa Thánh Thần đến với
chúng con. Amen.
2. Bài
Đọc
a) Chìa
khóa dẫn đến bài đọc:
Trong Chúa Nhật Thứ Tư
mùa Thường Niên, phần Phụng Vụ trình bày cho chúng ta về cuộc xung đột xảy ra
giữa Chúa Giêsu và dân chúng làng Nagiarét. Điều này xảy ra vào một
ngày Thứ Bảy trong lúc cử hành Lời Chúa tại hội đường cộng đoàn, sau khi Chúa
Giêsu đọc đoạn Kinh Thánh trích từ sách tiên tri Isaia. Chúa Giêsu
trích dẫn lời ngôn sứ Isaia như để giới thiệu chương trình hoạt động của mình
và lập tức bổ sung một lời nhận xét rất ngắn gọn. Thoạt đầu, tất cả
mọi người đều kinh ngạc và vui mừng. Nhưng khi họ nhận ra được tầm
quan trọng của chương trình của Chúa Giêsu liên quan tới đời sống của mình, họ
nổi loạn và muốn giết Chúa. Những loại mâu thuẫn này vẫn còn tồn tại
cả đến ngày nay. Chúng ta chấp nhận người khác, miễn là họ hành động
phù hợp với ý tưởng của chúng ta, nhưng khi họ quyết định đón nhận vào trong
cộng đoàn những người mà chúng ta loại bỏ, thì chúng ta chống
đối. Đây là những gì đã xảy ra tại làng Nagiarét.
Tin Mừng Chúa Nhật
tuần này bắt đầu với câu 21, một lời nhận xét ngắn của Chúa
Giêsu. Chúng tôi mạn phép bao gồm cả lời nhận xét trong các câu 16
đến 20 dẫn trước đó. Điều này cho phép chúng ta có thể đọc văn bản
sách Isaia được trích dẫn bởi Chúa Giêsu và để hiểu rõ hơn về cuộc xung đột, đó
là kết quả của việc đọc văn bản này cùng với lời nhận xét ngắn
gọn. Khi đọc, thiết tưởng chúng ta nên lưu ý hai
điều: “Chúa Giêsu khiến cho lời của ngôn sứ Isaia trở thành hiện
thực bằng cách nào? Dân chúng nảy sinh những phản ứng gì về việc hiện
thực hóa lời của ngôn sứ Isaia?”
b) Phần
phân đoạn văn bản để trợ giúp cho bài đọc:
Lc
4:16: Chúa Giêsu đến Nagiarét và tham gia vào việc hội họp cộng đồng
Lc
4:17-19: Chúa Giêsu đọc sách của tiên tri Isaia
Lc
4:20-21: Chúa Giêsu liên kết Kinh Thánh với đời sống trước mặt dân
làng đang chăm chú lắng nghe
Lc
4:22: Phản ứng mâu thuẫn của công chúng
Lc
4:23-24: Chúa Giêsu chỉ trích phản ứng của dân chúng
Lc
4:25-27: Chúa Giêsu làm sáng tỏ lời Kinh Thánh, trích dẫn lời ngôn
sứ Êlia và Êlisa
Lc
4:28-30: Phản ứng tức giận của những người muốn giết Chúa
Giêsu
c) Tin Mừng:
16 Người đến Nagiarét, nơi Người sinh
trưởng, và theo thói quen của Người, thì ngày nghỉ lễ, Người vào hội đường.
Người đứng dậy để đọc sách. 17 Người ta trao cho Người
sách tiên tri Isaia. Mở sách ra, Người gặp ngay đoạn chép rằng: 18 "Thánh
Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng Tin Mừng
cho người nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm
biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người
bị áp bức, 19 công bố một năm hồng ân của
Chúa".
20 Người cuộn sách lại,
trả cho người giúp việc hội đường, rồi ngồi xuống. Ai nấy trong hội đường đều
chăm chú nhìn Người. 21 Người bắt đầu nói với họ:
"Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe". 22 Mọi
người đều tán thành cho Người và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng
Người. Họ bảo nhau: "Người này không phải là con ông Giuse đó
sao?" 23 Người nói với họ: "Hẳn các ông muốn nói
với Tôi câu tục ngữ này: 'Thầy lang ơi, hãy chữa lấy chính
mình!' Tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông đã làm tại Caphárnaum,
ông cũng hãy làm tại đây, tại quê ông xem nào!" 24 Người
nói tiếp: "Ta bảo thật các ông: không một ngôn sứ nào được chấp
nhận tại quê hương mình. 25 Thật vậy, tôi nói cho các ông
hay: vào thời ông Êlia, khi trời hạn hán suốt ba năm sáu tháng, cả
nước phải đói kém dữ dội, thiếu gì bà góa ở trong nước Israel; 26 thế
mà, ông không được sai đến giúp một bà nào cả, nhưng chỉ được sai đến giúp bà
góa thành Sarépta miền Siđon. 27 Cũng vậy, vào thời ngôn
sứ Êlisa, thiếu gì người phong hủi ở trong nước Israel, nhưng không người nào
được sạch, mà chỉ có ông Naaman, người xứ Syria thôi".
28 Nghe vậy, mọi người
trong hội đường đầy phẫn nộ. 29 Họ đứng dậy, lôi Người ra
khỏi thành – thành này được xây trên núi. Họ kéo Người lên tận đỉnh
núi, để xô Người xuống vực. 30 Nhưng Người băng qua giữa
họ mà đi.
3. Giây phút thinh lặng cầu
nguyện
Để Lời Chúa có thể
thấm nhập và soi sáng đời sống chúng ta.
4. Một vài
câu hỏi gợi ý
Để giúp chúng ta trong
phần suy gẫm cá nhân.
a) Điểm nào
trong bài Tin Mừng đã làm bạn hài lòng nhất hoặc đánh động bạn
nhất? Tại sao?
b) Vào ngày
nào, tại đâu, qua những ai và bằng cách nào mà Chúa Giêsu trình bày chương
trình của mình?
c) Nội dung
chương trình của Chúa Giêsu là gì? Ai là những người bị loại trừ mà
Chúa Giêsu muốn đón chào?
d) Chúa Giêsu
đã hiện thực hóa lời của ngôn sứ Isaia bằng cách nào?
e) Người ta
phản ứng như thế nào? Tại sao?
f) Chương
trình của Chúa Giêsu có thể nào cũng là chương trình của chúng ta
không? Những người đang bị loại trừ mà chúng ta nên đón nhận vào
trong cộng đoàn chúng ta ngày nay là ai?
5. Dành cho
những ai muốn đào sâu vào trong chủ đề
a) Bối cảnh
lịch sử để định vị văn bản:
Trong xã hội Do Thái
thời xưa, một đại gia đình hoặc một dòng họ hoặc cộng đồng,
là căn bản của đời sống xã hội. Nó cung cấp sự bảo vệ cho gia đình
và người thân, nó bảo đảm sự sở hữu đất đai, nó là phương tiện chủ yếu của
truyền thống và sự bảo vệ danh phận của người ta. Nó là phương cách
cụ thể cho tình yêu Thiên Chúa nhập thể trong tình yêu tha nhân. Bảo
vệ gia tộc, cộng đồng, tương đương với việc bảo vệ Giao Ước với Thiên Chúa.
Vào thời Chúa Giêsu,
một chế độ nô lệ đôi đã được đóng dấu trên đời sống của người dân và góp phần
vào sự tan rã của gia tộc, cộng đồng: (i) chế độ
nô lệ chính trị của chính quyền vua Hêrôđê Antipa (từ năm thứ tư trước Công
Nguyên đến năm 39 sau Công Nguyên) và (ii) chế độ nô lệ của các chức sắc tôn
giáo. Bởi vì sự khai thác và đàn áp của chế độ chính trị của vua
Hêrôđê, được hỗ trợ bởi đế chế La Mã, nhiều người đã không có một mái nhà cố
định và bị loại trừ và thất nghiệp (Lc 14:21; Mt 20:3,5-6). Gia
tộc, cộng đồng, đã bị suy yếu. Gia đình và người
thân thuộc đã không giúp đỡ, không bảo vệ. Các chức sắc tôn giáo,
được duy trì bởi các người có thẩm quyền về tôn giáo thời bấy giờ, thay vì củng
cố cộng đồng để họ có thể đón chào những kẻ bị loại trừ, lại đi thêm sức cho
chế độ nô lệ này. Lề Luật Thiên Chúa đã được dùng để hợp thức hóa việc
loại trừ hay gạt ra ngoài lề xã hội của nhiều người: phụ nữ, trẻ em,
người Samaritanô, khách ngoại kiều, người phong cùi, kẻ bị quỷ ám, người thu
thuế, người bệnh tật, người què cụt tàn tật, kẻ bại liệt. Trái với tình huynh
đệ mà Thiên Chúa mơ ước cho tất cả mọi người! Do đó, tình trạng
chính trị kinh tế lẫn hệ thống tư tưởng tôn giáo đã âm mưu với nhau làm suy yếu
cộng đồng địa phương và ngăn cản sự biểu lộ của Vương Quốc Thiên Chúa.
Chúa Giêsu phản ứng
với tình trạng này với dân của Người và trình bày một chương trình mà sẽ thay
đổi nó. Kinh nghiệm của Đức Giêsu về Thiên Chúa là tình yêu của Chúa
Cha, ban cho Người khả năng đánh giá thực tại và nhìn thấy những gì sai trái
với đời sống của dân mình.
b) Lời bình
luận về văn bản:
Lc 4:16: Chúa
Giêsu đến Nagiarét và tham gia vào việc hội họp tại hội đường
Được quyền năng Thần
Khí Chúa thúc đẩy, Đức Giêsu trở về miền Galilêa và bắt đầu rao giảng Tin Mừng
về Vương Quốc Thiên Chúa (Lc 4:14). Người đi đến các làng mạc rao
giảng trong các hội đường và cuối cùng đến làng Nagiarét. Người trở
về cộng đoàn, nơi từ thuở ấu thơ trong ba mươi năm, Người đã tham dự vào các
buổi nhóm họp hằng tuần. Vào ngày Thứ Bảy sau khi đến Nagiarét, Đức
Giêsu, như thường lệ, đi vào hội đường để tham gia vào việc cử hành nghi thức
và đứng lên để đọc.
Lc
4:17-19: Chúa Giêsu đọc một đoạn Kinh Thánh trích từ sách tiên
tri Isaia
Vào thời ấy, có hai
bài đọc trong buổi lễ cử hành ngày Thứ Bảy. Bài đọc thứ nhất liên
quan đến Lề Luật của Thiên Chúa, được trích từ sách Ngũ Kinh và cố
định. Bài thứ hai được trích từ những cuốn sách về lịch sử hoặc sách
các tiên tri, và được chọn bởi người đọc. Người đọc có thể lựa
chọn. Đức Giêsu đã chọn bài trích từ sách tiên tri Isaia để trình
bày bản tóm tắt sứ vụ của Người Tôi Tớ Chúa, và cũng nó cũng phản ảnh tình cảnh
người dân miền Galilêa vào thời bấy giờ. Nhân danh Thiên Chúa, Đức
Giêsu đảm trách nhiệm vụ bảo vệ cuộc sống của dân tộc Ngài, lãnh nhận sứ vụ Tôi
Tớ Chúa, và dùng lời ngôn sứ Isaia, công bố trước tất cả mọi người: “Thánh
Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng Tin Mừng
cho người nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm
biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người
bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Is
61:1-2). Người áp dụng truyền thống cổ xưa của các ngôn sứ và công
bố “năm hồng ân của Chúa”. Lời bày tỏ này tương đương với việc công
bố năm thánh, hoặc là, Chúa Giêsu mời gọi dân chúng của làng mình bắt đầu đổi
mới, viết lại lịch sử từ tận gốc rễ của nó (Đnl 15:1-11; Lv
25:8-17).
Lc
4:20-21: Chúa Giêsu liên kết Kinh Thánh vời đời sống trước mặt
dân làng đang chăm chú lắng nghe
Khi Người đọc xong,
Chúa Giêsu cuốn sách lại, trao cho người giúp việc hội đường và ngồi
xuống. Khi ấy Đức Giêsu chưa phải là người điều hợp của cộng đồng,
Người là một tín hữu bình thường và nên chỉ tham dự vào việc cử hành nghi thức
như tất cả những người khác. Người đã trẩy đi xa khỏi cộng đồng
trong nhiều tuần, sau đó đã tham gia hoạt động của Gioan Tiền Hô và đã nhận
lãnh phép rửa bởi Gioan trong sông Giođan (Lc 3:21-22). Hơn thế nữa,
Người đã trải qua hơn bốn mươi ngày trong sa mạc, suy gẫm về sứ vụ của mình (Lc
4:1-2). Ngày Thứ Bảy sau khi trở về với cộng đồng, Chúa Giêsu được
mời đọc sách. Tất cả mọi người đều chăm chú và tò
mò: “Ông ta sẽ nói gì?” Lời nhận xét của Chúa Giêsu thì
ngắn gọn, thực sự rất ngắn gọn. Người hiện thực hóa văn bản, liên
kết nó với đời sống dân chúng nói rằng: “Hôm nay ứng
nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”.
Lc 4:22: Phản
ứng mâu thuẫn của dân chúng
Phản ứng của dân chúng
thật là mâu thuẫn. Thoạt đầu, thái độ của họ là của những người chăm
chú, kinh ngạc và tán tụng. Sau đó, ngay lập tức, lại có phản ứng
tiêu cực. Họ nói: “Người này không phải là con ông Giuse
đó sao!” Tại sao họ lại cảm thấy chướng tai gai mắt như
thế? Bởi vì Đức Giêsu nói về việc đón tiếp người nghèo khó, kẻ mù
lòa, người bị giam cầm và áp bức. Họ không chấp nhận đề nghị của
Người. Và như thế, chỉ khi Chúa Giêsu trình bày dự án của mình để
chào đón những kẻ bị loại trừ, thì chính Người lại bị loại trừ!
Nhưng cũng có một động
cơ khác. Điều quan trọng cần lưu ý đến các chi tiết về lời trích dẫn
mà Chúa Giêsu trích từ Cựu Ước. Trong lời nhận xét ở các câu Lc
3:4-6 vào ngày Chúa Nhật thứ hai Mùa Vọng, Luca có đưa ra một lời trích dẫn từ
sách tiên tri Isaia dài hơn để cho thấy rằng việc mở cửa cho các dân ngoại đã
được báo trước bởi các ngôn sứ. Ở đây chúng ta có điều tương tự như
thế. Đức Giêsu trích dẫn lời từ sách Isaia cho đến chỗ nói rằng: “công
bố năm hồng ân của Chúa”, và bỏ ra phần còn lại của câu nói rằng “và
một ngày báo phục của Thiên Chúa chúng ta, Người sai tôi đi an ủi tất cả những
kẻ khóc than” (Is 61:2b). Dân chúng làng Nagiarét thách
thức sự thật Chúa Giêsu đã bỏ bớt phần minh chứng. Họ muốn Ngày sắp
đến của Vương Quốc Nước Trời phải là ngày báo phục lại những kẻ đã áp bức người
dân. Do đó, những ai khóc than sẽ được hồi phục lại quyền của
họ. Dù sao chăng nữa, sự trông đợi, Nước Thiên Chúa sắp đến sẽ không thay
đổi bộ máy bất công. Đức Giêsu bác bỏ lối suy nghĩ này, Người từ
chối việc trả thù. Kinh nghiệm của Người về Thiên Chúa, Chúa Cha, đã
giúp Người hiểu rõ hơn về ý nghĩa chính xác của những lời tiên
tri. Phản ứng của Người, không giống như của người dân làng Nagiarét,
cho chúng ta thấy rằng hình ảnh cũ về Thiên Chúa như một vị quan tòa nghiêm
khắc và hay báo thù thì mạnh mẽ hơn là hình ảnh Thiên Chúa của Tin Mừng, một
Chúa Cha yêu thương luôn đón chào những kẻ bị loại trừ.
Lc
4:23-24: Chúa Giêsu chỉ trích phản ứng của người dân
Đức Giêsu diễn giải
phản ứng của người dân và xem đó như là một hình thức ganh tị: “Thày
lang ơi, hãy chữa lấy mình! Tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông
đã làm tại Cápharnaum, ông cũng hãy làm tại đây, tại quê ông xem nào!” Danh
tiếng Chúa Giêsu đã lan tràn khắp cả miền Galilêa (Lc 4:14) và dân làng
Nagiarét đã không được hài lòng rằng Chúa Giêsu, một người con từ miền đất của
họ, đã làm những điều tốt đẹp nơi miền đất người khác mà không làm tại đất nhà
mình. Nhưng có một lý do sâu xa hơn cho phản ứng này. Ngay cả
khi Chúa Giêsu đã làm tại Nagiarét những việc Người đã làm tại Cápharnaum, họ
vẫn không chịu tin Người. Họ biết Chúa Giêsu: “Ông ta là
ai mà dạy dỗ chúng ta? Người ấy không phải là con ông Giuse đó sao?”
(Lc 4:22). “Ông này không phải là bác thợ mộc sao?” (Xem Mc
6:3-4). Ngày nay cũng vậy, điều này xảy ra quá thường
xuyên: khi một giáo dân rao giảng trong nhà thờ, nhiều người sẽ
không chấp nhận điều đó. Họ bỏ đi và nói: “Ông đó hoặc bà đó
cũng như chúng ta thôi: họ biết gì mà nói!” Họ không thể tin
rằng Thiên Chúa có thể nói qua những người bình thường nhất. Thánh Máccô
thêm rằng Chúa Giêsu đau lòng vì sự cứng lòng của dân Người (Mc 6:6).
Lc 4:23-27: Chúa
Giêsu làm sáng tỏ lời Kinh Thánh, trích dẫn lời ngôn sứ Êlia và Êlisa
Để xác nhận rằng sứ vụ
của Người thực sự là việc đón chào những kẻ bị loại trừ, Chúa Giêsu dùng hai
đoạn Kinh Thánh nổi tiếng, câu chuyện của ngôn sứ Êlia và của
Êlisa. Cả hai cho thấy tâm lý khép kín của người dân Nagiarét, và
phê bình họ. Trong thời tiên tri Êlia, có nhiều bà góa trong Israel,
nhưng tiên tri Êlia đã được sai đến với một bà góa dân ngoại vùng Sarépta (1 V
17:7-16). Vào thời tiên tri Êlisa, cũng có nhiều người phong cùi
trong Israel, thế mà tiên tri Êlisa đã được sai đến với một dân ngoại người
Syria (2 V 5:14). Một lần nữa, mối quan tâm của Luca cho thấy rằng
sự cởi mở ra với dân ngoại đến từ chính Chúa Giêsu. Đức Giêsu cũng
đã phải đối mặt với những khó khăn giống như các cộng đoàn trong thời Luca đã gặp.
Lc
4:28-30: Phản ứng tức giận của những người muốn giết Chúa Giêsu
Việc đề cập đến hai
đoạn Kinh Thánh này tạo ra sự căm phẫn hơn trong dân chúng. Cộng
đồng Nagiarét thậm chí còn muốn giết Chúa Giêsu. Người vẫn giữ bình
tĩnh. Sự giận dữ của người khác sẽ không khiến cho Chúa phân tâm
khỏi mục đích của mình. Luca cho thấy để khắc phục được trạng thái
tâm lý đặc quyền và đóng cửa đối với người khác thì khó khăn như thế
nào. Điều tương tự cũng xảy ra vào ngày nay. Nhiều người
Công Giáo trong chúng ta lớn lên với một não trạng khiến chúng ta tin rằng mình
thì tốt lành hơn những người khác và người khác phải trở nên giống chúng ta để
được cứu rỗi. Chúa Giêsu không bao giờ nghĩ theo cách này.
c) Phần phụ
chú:
§ Ý nghĩa của Năm Thánh:
Vào năm 2000, Đức
Thánh Cha Gioan Phaolô II đã mời gọi người Công Giáo cử hành Năm
Thánh. Việc cử hành những ngày quan trọng là một phần của đời
sống. Điều này cho phép chúng ta tái khám phá và làm sống lại nhiệt tình
ban đầu của chúng ta. Trong Kinh Thánh, “Năm Thánh” là một quy luật
quan trọng. Lúc đầu, đã có sắc lệnh là mỗi năm thứ bảy, đất bán hoặc
cho thuê phải được trả về với gia tộc đầu tiên. Mọi người có thể
quay trở về với tài sản của mình. Điều này ngăn chặn việc kinh tế bị
ứ đọng và bảo đảm đời sống cho các gia đình. Trong Năm Thánh, đất
đai được bán lại, nô lệ được chuộc lại, các trái nợ được hủy bỏ (xem Đnl
15:1-18). Việc cử hành Năm Thánh vào mỗi bảy năm không phải là dễ
dàng (xem Gr 34:8-16). Sau thời gian lưu đày, tục lệ cử hành Năm
Thánh mỗi 50 năm bắt đầu, đó là, mỗi bảy lần của bảy năm (Lv
25:8-17). Mục đích của Năm Thánh đã và vẫn còn là để khẳng định các
quyền hạn của người nghèo khó, đón chào những kẻ bị loại trừ và tái hòa nhập họ
vào trong xã hội. Năm Thánh là một công cụ pháp lý để trở lại ý thức
sâu sắc về Lề Luật Thiên Chúa. Đó là dịp để cho của cải được luân
lưu, để khám phá và sửa chữa các lỗi lầm và bắt đầu mọi thứ một lần
nữa. Chúa Giêsu bắt đầu việc rao giảng của Người bằng cách công bố
Năm Thánh, “Năm Hồng Ân của Chúa”.
6. Cầu Nguyện
với Thánh Vịnh 72 (71)
“Người sẽ giải thoát kẻ nghèo khó đang
khóc than!”
Tâu Thượng Đế, xin ban quyền bính Ngài cho vị Tân Vương,
trao công lý Ngài vào tay Thái Tử,
trao công lý Ngài vào tay Thái Tử,
để Tân Vương xét xử dân Ngài theo công lý,
và bênh vực quyền lợi kẻ nghèo hèn.
và bênh vực quyền lợi kẻ nghèo hèn.
Núi đem lại cảnh hoà bình trăm họ,
đồi rước về nền công lý vạn dân.
đồi rước về nền công lý vạn dân.
Người sẽ bảo toàn quyền lợi dân cùng khổ,
ra tay cứu độ kẻ khó nghèo,
đập tan lũ cường hào ác bá.
ra tay cứu độ kẻ khó nghèo,
đập tan lũ cường hào ác bá.
Nguyện chúc Người tuổi thọ sánh vầng ô,
như bóng nguyệt đến muôn đời muôn kiếp!
như bóng nguyệt đến muôn đời muôn kiếp!
Mong Người xuống tựa mưa sa nội cỏ,
ơn vũ lộ thấm nhuần cả đất đai.
ơn vũ lộ thấm nhuần cả đất đai.
Triều đại Người, đua nở hoa công lý
và thái bình thịnh trị tới ngày nao tuế nguyệt chẳng còn.
và thái bình thịnh trị tới ngày nao tuế nguyệt chẳng còn.
Người làm bá chủ từ biển này qua biển nọ,
từ Sông Cả đến tận cùng cõi đất.
từ Sông Cả đến tận cùng cõi đất.
Dân vùng sa mạc khúm núm quy hàng,
tất cả đối phương nhục nhằn cắn cỏ.
tất cả đối phương nhục nhằn cắn cỏ.
Từ Tácsít và hải đảo xa xăm,
hàng vương giả sẽ về triều cống.
Cả những vua Ả-rập, Sơ-va,
cũng đều tới tiến dâng lễ vật.
hàng vương giả sẽ về triều cống.
Cả những vua Ả-rập, Sơ-va,
cũng đều tới tiến dâng lễ vật.
Mọi quân vương phủ phục trước bệ rồng,
muôn dân nước thảy đều phụng sự.
muôn dân nước thảy đều phụng sự.
Người giải thoát bần dân kêu khổ
và kẻ khốn cùng không chỗ tựa nương,
và kẻ khốn cùng không chỗ tựa nương,
chạnh lòng thương ai bé nhỏ khó nghèo.
Mạng sống dân nghèo, Người ra tay tế độ,
Mạng sống dân nghèo, Người ra tay tế độ,
giải thoát cho khỏi áp bức bạo tàn,
từng giọt máu họ, Người đều coi là quý.
từng giọt máu họ, Người đều coi là quý.
Tân Vương vạn vạn tuế!
Thiên hạ sẽ đem vàng Ả-rập tiến dâng lên,
và cầu xin cho Người luôn mãi,
ngày lại ngày chúc phúc cho Người.
Thiên hạ sẽ đem vàng Ả-rập tiến dâng lên,
và cầu xin cho Người luôn mãi,
ngày lại ngày chúc phúc cho Người.
Mong cho xứ sở đầy dư gạo thóc,
đỉnh non cao sóng lúa rì rào,
trổ bông vàng đẹp tựa núi Li-băng,
thâu lượm được nhiều như cỏ dại.
đỉnh non cao sóng lúa rì rào,
trổ bông vàng đẹp tựa núi Li-băng,
thâu lượm được nhiều như cỏ dại.
Danh thơm Người sẽ trường tồn vạn kỷ,
nức tiếng gần xa dưới ánh mặt trời.
Ước gì mọi sắc tộc trần gian, nhờ Người được chúc lành,
và muôn dân thiên hạ ngợi khen Người có phúc.
nức tiếng gần xa dưới ánh mặt trời.
Ước gì mọi sắc tộc trần gian, nhờ Người được chúc lành,
và muôn dân thiên hạ ngợi khen Người có phúc.
Chúc tụng ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa Israel,
chỉ có Ngài làm nên những công trình kỳ diệu.
chỉ có Ngài làm nên những công trình kỳ diệu.
Muôn muôn đời xin chúc tụng danh Chúa hiển vinh,
ước gì vinh quang Chúa chiếu toả khắp hoàn cầu!
Amen! Amen!
ước gì vinh quang Chúa chiếu toả khắp hoàn cầu!
Amen! Amen!
7. Lời Nguyện
Kết
Lạy Chúa Giêsu, chúng
con xin cảm tạ Chúa về Lời Chúa đã giúp chúng con hiểu rõ hơn ý muốn của Chúa
Cha. Nguyện xin Thần Khí Chúa soi sáng các việc làm của chúng con và
ban cho chúng con sức mạnh để thực thi Lời Chúa đã mặc khải cho chúng
con. Nguyện xin cho chúng con, được trở nên giống như Đức Maria,
thân mẫu Chúa, không những chỉ lắng nghe mà còn thực hành Lời
Chúa. Chúa là Đấng hằng sống hằng trị cùng với Đức Chúa Cha trong sự
hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét