Cuộc ly khai của Giáo Hội Anh Giáo
Cuộc ly khai của Giáo Hội Tin Lành hay Giáo Hội Cải Cách
do Martin Luther khởi xướng kéo dài chưa được bao lâu, thì năm 1534 lại xảy ra
một vụ ly khai mới: đó là vụ ly khai của Anh Giáo, do vua Enricô VIII khởi xướng.
Vua Enricô VIII sinh năm 1491
là hoàng tử thứ hai con vua Enricô VII, và là vị vua thứ hai thuộc triều đại
nhà Tudor. Chỉ có ba trong số 6 người anh em của Enricô sống sót là Arturo
hoàng tử vùng Galles, Marguerita hoàng hậu Êcốt và Maria hoàng hậu Pháp. Năm
1494 Enrricô trở thành công tước York. Năm 1501 Enricô hiện diện trong đám cưới
của anh cả là Arturô với Caterina Aragona, công chúa Tây Ban Nha, khi đó hai
người mới 15 và 16 tuổi. Nhưng Arturo chết ít lâu sau đó vì bị nhiễm trùng, và
Enricô mới 11 tuổi trở thành người nối ngôi cha.
Vì muốn kết thúc một giao ước
hôn nhân giữa Anh quốc và Tây Ban Nha, vua Enricô VII giàn xếp hôn nhân
giữa con mình và con dâu là Caterina Aragona. Nhưng để được như thế cần phải có
phép chuẩn của ĐGH Giulio II, mặc dù hôn nhân trước chưa hoàn thành, nhưng cả
hai bên đều muốn có phép chuẩn của ĐGH để loại trừ mọi nghi ngờ liên quan tới sự
hợp pháp của hôn nhân. Vì bị hoàng hậu Isabella, mẹ của Caterina thúc giục, ĐGH
Giulio II công bố sắc chỉ ban phép chuẩn. Nhưng năm 1505 vua Enricô VII không hứng
thú đối với liên minh với Tây Ban Nha nên hôn nhân đã không được cử hành trong
các thời điểm dự định. Khi vua cha qua đời năm 1509, Enricô lên ngôi lúc mới 18
tuổi với tên gọi là Enricô VIII. Nhà vua bắt đầu cải tổ guồng máy cai trị, bằng
cách giảm thiểu quyền lợi của các người thượng lưu có chức lớn, và dựa trên sự ủng
hộ của giới quyền quý tỉnh nhỏ, tức các đại điền chủ, là những người tuy không
thuộc giai cấp thượng lưu, nhưng có các tước hiệu và quyền lợi đặc biệt của giới
thượng lưu. Chín tuần sau, do sự thúc bách của triều đình Tây Ban Nha Enricô
VIII thành hôn với Caterina, đã được đính hôn với mình trước đó. ĐC William
Warham, TGM Canterbury, nghi ngờ sự hợp pháp của hôn nhân, mặc dù đã có phép
chuẩn trước đó và các lời thề lập đi lập lại của Caterina là hôn nhân trước với
hoàng tử Arturô đã không bao giờ hoàn thành, vì hai người đã không ăn ở với
nhau. Tuy nhiên, lễ nghi đội triều thiên đăng quang hai người đã được cử
hành ngày 24 tháng 6 cùng năm.
Là người cao lớn đẹp trai, rất
thể thao, vui vẻ và hào hiệp, được định nghĩa là “hoàng tử đẹp nhất của Kitô
giáo” vua Enricô VIII có một nền văn hóa nhân bản rộng rãi, hiểu biết thông thạo
các thứ tiếng Latinh, Tây Ban Nha và Pháp, lại ưa thích thần học, vì đã nhận được
nền giáo dục tôn giáo từ bé, và là con trai thứ hai nên đã được chỉ định làm
giáo sĩ. Ngoài ra nhà vua cũng có tài âm nhạc. Ban đầu nhà vua chống lại phong
trào Cải Cách do Luther khởi xướng nên được ban tước hiệu là “ông hoàng bảo vệ
Giáo Hội”.
Nhưng vấn đề nỗi dõi tông đường
nảy sinh và theo đuổi nhà vua suốt đời. Hoàng hậu Caterina mang thai lần đầu
tiên một người con trai nhưng chết năm 1510; đứa con trai thứ hai sinh năm 1511
chết sau hai tháng. Trong hai năm đầu của triều đại quyền bính được thi hành bởi
ĐC Richard Foxe, Giám Mục Winchester và ĐC William Warham. Từ năm 1511 trở đi
quyền bính nằm trong tay ĐHY Thomas Wolsey, là người có ảnh hưởng lớn trên nhà
vua. Vua Enricô VIII gia nhập Liên Minh Thánh, do ĐGH Giulio II phát động nhằm
loại trừ chính sách bành trướng của vua Louis XII của Pháp. Thuộc Liên Minh
cũng có hoàng đế Massimiliano I và vua Ferdinando II vua Tây Ban Nha. Năm 1514
vua Ferdinando II bỏ Liên Minh và giải hoà với Pháp. Biến cố vua François I lên
ngôi khiến cho hai nước Anh và Pháp lại có các lập trường đối nghịch
nhau. Năm 1516 hoàng hậu Caterina sinh công chúa Maria khiến cho vua Enricô
VIII hy vọng mình sẽ có con trai nối ngôi. Năm 1516 vua Ferdinando II qua đời
và người cháu là Carlo V lên ngôi cũng là cháu của hoàng hậu Caterina. Năm 1519
vua Massimiliano I cũng qua đời. Các ông Hoàng bầu vua Carlo V làm hoàng đế của
Đế quốc Roma thánh. Sự cạnh tranh giữa vua François I của Pháp và hoàng đế
Carlo V của Tây Ban Nha khiến cho vua Enricô VIII trở thành kim của cán cân
chính trị Âu châu. Cả hai bên đều tìm liên minh với Anh quốc, nhưng sau năm
1521 ảnh hưởng của Anh suy giảm bên Âu châu, vua Enricô VIII liên minh với
hoàng đế Carlo V trong chiến tranh với Pháp.
Vua Enricô VIII đợi mãi
mà không có con trai nên lo sợ cho triều đại của mình, vì dân Anh không muốn bị
cai trị bởi một hoàng hậu. Cho tới nay chỉ có công chúa Maria là sống sót. Truớc
đó nhà vua cũng đã có nhiều người yêu trong đó có Maria Bolena và Elizabeth
Blount. Con trai của bà Elizabeth là Henry Fitzroy chết năm 17 tuổi. Trong khi
có người nói là hai con của bà Bolena là Caterine Carey và Henry Carey rất giống
nhà vua là con của vua Enricô VIII, nhưng nhà vua không làm gì để thừa nhận
chúng như con riêng của mình.
Năm 1526 sức khỏe của hoàng hậu
Caterina suy giảm và bà bắt đầu vào thời kỳ tắt kinh, nhà vua bắt đầu ve vãn em
gái của Maria Bolena là Anna Bolena, được giáo dục bên Pháp, đã là mỹ nữ của
hoàng hậu Caterina và đã lấy Henry Percey Phó quận công Northumberland. Vua
Enricô muốn có hoàng tử kế vị nên nghĩ với việc xin huỷ bỏ hôn nhân với hoàng hậu
Caterina dựa trên hôn nhân trước của hoàng hậu với người anh đã chết. ĐHY
Wolsey và ĐTGM William Warham bắt đầu cho điều tra, nhưng nhận thấy khó mà qua
mặt giáo luật. Năm 1527 Vua Enricô yêu cầu thẳng lên Toà Thánh. Viên bí thư của
nhà vua là William Knight cho rằng sắc chỉ của ĐGH Giulio II đã có được là nhờ
một sự đánh lừa, vì thế nên không có giá trị. Do đó nhà vua cho rằng phép chuẩn
này không có giá trị và hôn nhân với hoàng hậu Caterina cũng không có giá trị
Năm 1527 vua Enricô cũng xin ĐGH Clemente VII ban phép chuẩn cho nhà vua thành
hôn với bà Anna Bolena. Nhưng câu chuyện lại liên quan tới lợi lộc của hoàng
gia Tây Ban Nha, vì Carlo V, hoàng đế của Đế quốc Roma thánh, là cháu của hoàng
hậu Caterina. Ảnh hưởng của hoàng đế khiến cho ĐGH Clemente VII từ chối lời xin
của vua Enricô VIII, không huỷ bỏ sắc chỉ của ĐGH Giulio II. Vì thật ra ĐGH
Clemente cũng lo sợ gia đình của hoàng hậu Caterina và hoàng đế Carlo V nổi giận
với mình.
Tuy nhiên, lương tâm bối rối
hợp với sức quyến rũ của bà Anna Bolena khiến cho vua Enrico VIII nhất quyết loại
trừ hoàng hậu Caterina. Và đây là lý do làm nảy sinh ra Anh giáo, khi vua
Enricô VIII bẻ gẫy liên hệ với Giáo Hội Công Giáo Roma, không thừa nhận quyền của
ĐGH nữa, và tuyên bố mình là giáo chủ tối cao của Giáo Hội tại Anh.
Năm 1529 quốc hội Anh nhóm họp
để thảo luận việc huỷ bỏ hôn nhân cũ, quy tụ mọi người ước mong có một cuộc cải
cách nhưng đã không có sự đồng thuận liên quan tới hình thức thực hiện. Nhiều
người chống lại đặc quyền của hàng giáo sĩ có thể triệu vời giáo dân ra trước
toà án đạo. Có người chịu ảnh hưởng của phong trào cải cách của Luther chống lại
thần học công giáo. Cũng có những người ủng hộ quyền tối thượng của nhà vua
trên Giáo Hội của Anh quốc. Thomas More thay thế ĐHY Wolsey vừa muốn có cải
cách vừa muốn có các luật lệ mới chống lại lạc giáo.
Thủ tướng mới của vua Enricô
VIII là Thomas Cromwell, dân biểu quốc hội và là người theo Tin Lành, biết phải
lèo lái quốc hội ra sao để nhà vua có quyền tối thượng trên Giáo Hội. Năm 1530
khi một uỷ ban gồm các nhà luật pháp và giáo sĩ cho biết không thể cho phép
ĐTGM hành động chống lại một lệnh cấm của ĐGH, nhà vua bắt đầu bách hại giới
giáo sĩ. Sau khi kết án ĐHY Wolsey, vua Enricô tố cáo hàng giáo sĩ “tội vâng lời
các thế lực nước ngoài” với mục đích bắt ép họ phải đồng ý huỷ bỏ hôn nhân cũ của
ông với hoàng hậu Caterina. Đây là luật có từ năm 1392. Sau khi tố cáo các vị
bênh vực hoàng hậu Caterina nhà vua trải dài việc tố cáo chống lại tất cả hàng
giáo sĩ và bắt phải nộp 100.000 bảng Anh trong hội nghị của hàng giáo sĩ nhóm tại
Canterbury để được nhà vua tha tội. Hàng giáo sĩ chấp nhận bắt đầu trả vào ngày
24 tháng giêng năm 1531, nhưng xin được kéo dài trong vòng 5 năm. Nhà vua từ chối.
Khi đó hàng giáo sĩ yêu cầu có các bảo đảm trước khi nộp tiền, nhà vua từ chối
mọi điều kiện, nhưng chấp nhận cho kéo dài việc trả tiền trong 5 năm và thêm
vào 5 khoản mà hàng giáo sĩ Anh phải chấp nhận: Thứ nhất hàng giáo sĩ thừa nhận
vua như người bảo hộ duy nhất và là thủ lãnh tối cao của Giáo Hội và hàng giáo
sĩ Anh quốc. Thứ hai, nhà vua có nhiệm vụ tinh thần. Thứ ba, các đặc ân của
Giáo Hội bị hủy bỏ, nếu vi phạm các quyền lợi của nhà vua và luật lề của
vương quốc. Thứ tư, vua tha tội cho hàng giáo sĩ vi phạm luật cấm vâng lời các
thế lực và nhân vật nước ngoài. Thứ năm, cả các giáo dân cũng được tha tội này.
Trong quốc hội ĐC John Fischer, đã là người ủng hộ hoàng hậu Caterina và hàng
giáo sĩ, thêm vào khoản thứ nhất các lời này: “Nếu lời Chúa cho phép”. Trong hội
nghị ĐTGM William Warham mở đầu cuộc thảo luận, nhưng khi thấy mọi người đều
thinh lặng, thì nói: “Ai thinh lặng là đồng ý”. Hội nghị chấp nhận 5 khoản do
nhà vua đưa ra và nộp tiền phạt ngày mùng 3 tháng 3 năm 1531. Không ai dám phản
đối vì sợ bị kết án là phản bội và bị tử hình.
Việc ly khai với quyền bính của
ĐGH xảy ra từ từ. Năm 1532 thủ tướng Cromwell đưa ra trước quốc hội một thỉnh cầu
gọi là “Yêu cầu chống lại Trật tự của thánh lễ” kê khai ra 9 lời than phiền chống
lại Giáo Hội bao gồm cả việc lạm dụng quyền bính và quyền ra luật mà không có sự
đồng ý của Hội nghị giáo sĩ.
Ngày mùng 10 tháng 5 năm 1532
nhà vua yêu cầu Giáo Hội khước từ quyền ra luật. Hàng giáo sĩ ký nhận ngày 15
tháng 5. Qua đó Giáo Hội thừa nhận quyền tối thượng của nhà vua trên Giáo Hội,
và không có quyền ra luật mà không có phép của nhà vua. Đây đã là hành động
huỷ bỏ hoàn toàn chủ thể làm luật của Giáo Hội. Việc quy phục này được quốc hội
chấp nhận năm 1534 và năm 1536. Sự kiện này khiến cho Thomas More là một vị
quan công giáo, từ chức, nhường chính trường cho Cromwell làm chủ.
Tiếp theo đó là một loạt các
luật quốc hội. Luật “Giữ lại các lợi tức hàng năm vô điều kiện” cấm hàng giáo
sĩ trả hơn 5% lợi tức cho Giáo Hội Roma. Nó đã gây ra các phản đối mạnh mẽ, và
nhà vua phải hiện diện ba lần và với sự đe đọa của quốc hội nó mới được bỏ phiếu
thông qua. Luật này cũng đe dọa rằng nếu các nhà thờ chính toà từ chối việc chỉ
định các Giám Mục từ phía nhà vua, thì sẽ có nguy cơ bị tố cáo là thuộc các quyền
bính nước ngoài và bị trừng phạt.
“Luật hạn chế các lời kháng
án” cấm không được kêu về Roma liên quan tới các vấn đề giáo hội. Luật khẳng định
rằng: “Vương quốc Anh là một đế quốc, như được chấp nhận trên thế giới và nó được
cai trị bởi một thủ lãnh tối cao, là nhà vua, có tước hiệu và hàng vương giả của
triều thiên hoàng đế của đất nước, một ngoại giao đoàn, một tổng thể cá nhân
thuộc mọi điều kiện và tầng lớp, nhân danh tinh thần tu đức và tinh thần đời,
có bổn phận vâng phục nhà vua một cách tự nhiên và khiêm tốn, sau Thiên Chúa”.
Ngoài ra, luật cũng nhấn mạnh rằng Anh quốc là một quốc gia độc lập trên tất cả
mọi phương diện.
Sau cùng năm 1534 vua Enricô
VIII ban hành “Luật về quyền tối thượng” khiến cho nhà vua trở thành “Thủ lãnh
tối cao của Giáo Hội Anh, loại trừ tất cả mọi thói quen, tập tục, luật lệ, quyền
bính hay các điều luật đến từ nước ngoài. Tuớc hiệu này sẽ được hoàng hậu
Elíabeth I đổi thành “Thống đốc tối cao của Giáo Hội Anh”.
Sau một tuần trăng mật tại
Pháp vua Enricô VIII và bà Anna Bolena thành hôn vào tháng giêng năm 1533 tại
nhà thờ chính toà Wesminster. Lễ thành hôn được dễ dàng vì cái chết của ĐTGM
Warham, là người chống lại hôn nhân của nhà vua. ĐTGM Thomas Cranmer lên thay
thế và là người đồng ý huỷ bỏ hôn nhân trước của nhà vua với hoàng hậu
Caterina. Ba tháng sau hoàng hậu Anna sinh một công chúa sau này sẽ là hoàng hậu
Elisabeth I. Tháng 7 năm 1533 ĐGH Clemente VII ra vạ tuyệt thông cho nhà vua và
ĐTGM Cranmer. Ngày 17 tháng 12 năm 1538 nhà vua bị ĐGH Paolo III ra vạ tuyệt
thông lần thứ hai. Vạ tuyệt thông này cũng sẽ được ra cho hoàng hậu Elisabeth
I, khi tình hình cuộc ly giáo không thể cứu vãn được nữa. Trong cùng năm
1533 “Luật các của đầu mùa và thuế thập phân” khiến cho mọi tiền thuế của Giáo
Hội trả cho ĐGH chạy vào quỹ của nhà vua. Nó liên quan tới “đồng tiền thánh
Phêrô và các khoản tha” mà giới điền chủ đóng góp cho ĐGH. Luật này nhấn mạnh rằng
“Anh quốc không có thủ lãnh nào khác ngoài Thiên Chúa và Đức vua và triều thiên
hoàng đế của vua Enricô đã được bảo toàn khỏi các vụ tiếm quyền và các thuế
khóa bất công và ít bác ái của Đức Giáo Hoàng.”
Để tránh tất cả mọi chống đối
các điều này năm 1534 Quốc hội bỏ phiếu “Luật phản bội” coi việc khước từ quyền
tối thượng của nhà vua là phản bội có thể bị tử hình. Sau cùng năm 1536 Quốc hội
bỏ phiếu “Luật chống lại quyền bính của Đức Giáo Hoàng” huỷ bỏ phần còn lại của
quyền giáo hoàng, nghĩa là quyền đưa ra một phán quyết liên quan tới Thánh Kinh
trên nước Anh.
Việc bẻ gẫy với Giáo Hội Roma
vẫn chưa đích thật là một cuộc Cải Cách nảy sinh với việc phổ biến các tư tưởng
mới. Các ý kiến của Martin Luther và các đồ đệ đã được biết tới và thảo luận
nhiều bên Anh quốc, nơi khuynh hướng thần học triệt để vẫn luôn hiện diện. Nó
đuợc biểu hiện với phong trào Lollardi, gồm những người được gợi hứng từ các
bút tích của John Wycliff, dịch giả Thánh Kinh, nhấn mạnh quyền ưu tiên của
Thánh Kinh. Tuy bị đàn áp nhưng phong trào này vẫn tồn tại và tìm cách thay đổi
Giáo Hội bằng cách dành chỗ nhất cho Lời Chúa và chỉ coi bí tích Thánh Thể là một
nghi lễ tưởng niệm đơn sơ. Họ bi ảnh hưởng bởi các tư tưởng của Luther chủ
trương chỉ có Thánh Kinh và việc công chính hóa nhờ đức tin chứ không nhờ các
hành động tốt. Người ta cũng chỉ nhận ba bí tích Rửa Tội, Thánh Thể và Giải Tội.
Năm 1536 và 1538 đã có nhiều điều khác được thêm vào trong đó có việc huỷ bỏ
nhiều ngày lễ bị coi như dịp cho các thói xấu và sự lười biếng phát triển. Các
dâng cúng và đốt nến trước các hình tượng, cũng như các cuộc hành hương đều bị
cấm cản. Trong nhiều trường hợp các ảnh tượng bị đập phá hay đốt cháy, viện cớ
chúng diễn tả một niềm tin mê tín dị đoan; tín hữu chỉ đuợc mua các sách Thánh
Kinh bằng tiếng Latinh hay bằng tiếng Anh.
Năm 1534 Cromwell viếng thăm
các đan viện để lượng định gia tài tôn giáo trước khi tịch thu. Viện cớ các đan
viện là nơi các đan sĩ nam nữ có cuộc sống tính dục vô luân và các hoạt động
tài chánh bất hợp pháp, ông hủy bỏ và tịch thu các đan viện và đất đai phụ thuộc.
Vào thời đó Giáo Hội sở hữu từ một phần năm tới một phần ba đất đai trên toàn
nước. Năm 1536 triều đình huỷ bỏ các đan viện nhỏ trước. Nhà vua đã sử dụng số
tiền có được để xây các chiến lũy phòng thủ chống các cuộc xâm lăng. Tất cả đất
đai của các tu viện thuộc nhà vua. Nhưng dân chúng nổi loạn chống lại hành động
này của triều đình và tấn công quan quân. Năm 1539 cả các đan viện lớn cũng bị
huỷ bỏ. Nhiều đan viện chịu trận, nhiều đan viện khác tìm cách trả tiền để sống
còn. Đan sĩ các đan viện bị đóng cửa tìm tới các đan viện lớn hơn còn mở cửa. Một
số khác trở thành linh mục triều. Những người chống đối bị giết. Việc huỷ bỏ
quyền của ĐGH đã gây ra các bất đồng và bạo lực. Các vụ đập phá tượng ảnh
thánh, các cãi vã phản đối và hành động bạo lực xảy ra hàng ngày, nhưng đều bị
dấu nhẹm nhà vua. Năm 1538 khi biết chuyện, vua Enricô VIII ra luật cấm tranh
luận liên quan tới Thánh Thể, và cấm các linh mục lập gia đình, nếu không sẽ bị
xử tử. Năm 1539 quốc hội bỏ phiếu “Sáu Khoản” xác nhận kinh tin kính công giáo,
việc truyền phép, luật độc thân linh mục, tầm quan trọng của việc xưng tội
riêng, và các hình phạt cho tất cả nhũng ai từ chối các điều này. Với “Luật tiến
tới đích thật của tôn giáo” ban hành năm 1543 vua Enrricô hạn chế quyền đọc
Thánh Kinh cho giới quyền quý.
Năm 1547 vua Enricô VIII qua
đời, vua Eduardo VI lên ngôi khi mới 9 tuổi và là một thiếu niên đuợc giáo dục
trong niềm tin Tin Lành. Dưới quyền nhiếp chính của người bác là Edwart Seymour
các luật lệ chống lại tượng ảnh được áp dụng triệt để. Tất cả mọi thứ tuợng ảnh,
thánh tích, kể cả các kính mầu trong các nhà thờ đều bị đập phá, làm hư hại,
các thánh giá, các lan can, các cửa sắt đều bị phả huỷ, các chuông nhà thờ bị gỡ
bỏ. Các phẩm phục thánh bị bán hay đốt cháy. Các bình xin tiền bị nung chảy hay
bán đi. Luật độc thân linh mục bị hủy bỏ. Cấm các cuộc rước kiệu; huỷ bỏ ngày
thứ tư lễ tro và Chúa Nhật lễ lá. Hủy bỏ các hội hát lễ mồ. Năm 1550 các bàn thờ
bằng đá được thay thế bằng các bàn thờ bằng gỗ thường. Năm 1551 chức giám mục
được rập khuôn với việc chỉ định các mục sư. Cuộc cải cách từ đó tiến rất
nhanh.
Sau đây là vài nét chính yếu
về Giáo Hội Anh giáo. Thứ nhất, Thánh Kinh là nền tảng đức tin kitô chứa đựng tất
cả những gì cần thiết cho ơn cứu rỗi. Thứ hai Kinh Tin Kính là chứa đựng những
điều cần thiết và đủ cho việc trình bầy giáo lý kitô. Thứ ba, các bí tích Rửa Tội
và Thánh thể là các phương thế bề ngoài hữu hình và đích thật của ơn thánh
Chúa. Thứ tư, việc kế vị các tông đồ liên tục và được các giáo hội chính thống
và công giáo cổ thừa nhận. Thứ năm, nhà vua là thủ lãnh của Giáo Hội. Thứ sáu,
tuy khước từ quyền tối thượng của Đức Giáo Hoàng người kế vị thánh Phêrô, nhưng
Anh giáo vẫn duy trì hàng giáo phẩm, có Giám Mục, linh mục và phó tế, nhưng
không có luật buộc độc thân. Thứ bẩy, phụng vụ anh giáo rất giống phụng vụ công
giáo. Liên quan tới Đức Maria Anh Giáo không chập nhận các tín điều Đức Mẹ Vô
nhiễm nguyên tội và Hồn xác lên trời.
Các Giáo Hội Anh giáo quy tụ
trong tổ chức Liên hiệp anh giáo và nhóm họp trong Hội nghị Lambeth do
ĐTGM Canterbury chủ tọa. Từ khi phụ nữ được phép làm linh mục có nhiều Giám Mục
và linh mục Anh giáo xin tái gia nhập Giáo Hội Công Giáo.
Vào thế kỷ XVIII sau cuộc
cách mạng tại Hoa Kỳ các Giáo Hội Anh Giáo Hoa Kỳ và Canada trở thành các
Giáo Hội tự trị có các Giám Mục riêng và các cơ cấu tự quản. Nó trở thành kiểu
mẫu của các Giáo Hội Anh Giáo bên Phi châu, Australia và vùng Thái Bình Dương.
Giáo Hội Anh Giáo bị chia rẽ trầm trọng, sau khi một phụ nữ và một người đồng
tính luyến ái được phong chức Giám Mục. Sự kiện này khiến cho các Giáo Hội Anh
Giáo Phi châu phản đối rất mạnh mẽ và làm cho viễn tượng tìm về hiệp nhất gặp
thêm chướng ngại. Một trong những lý do là vi Anh giáo không có một quyền bính
trung ương, cũng giống như Giáo Hội Chính Thống.
Vào đầu thế kỷ XX các Giáo Hội
Kitô cảm thấy nhu cầu đại kết nên thành lập Hội Đồng đai kết các Giáo Hội Kitô
quy tụ 349 Giáo Hội thành viên gồm mọi khuynh hướng chính thống, tin lành, anh
giáo và nhiều cộng đoàn kitô khác. Giáo Hội Công Giáo không là thành viên,
nhưng hiện diện trong các uỷ ban đối thoại thần học. Phong trào đại kết đã được
đẩy mạnh sau Công Đồng Chung Vaticăng II, đặc biệt dưới triều đại của ĐGH Gioan
Phaolô II với tông thư “Ut unum sint Để chúng nên một”. Cuộc đối thoại song
phương của Giáo Hội Công Giáo với các Giáo Hội Kitô anh em vẫn tiếp tục trong
tình bác ái và chân lý, nhưng còn nhiều khó khăn cần được vượt thắng trước khi
tìm lại được sự hiệp nhất trọn vẹn.
(Linh Tiến Khải,
RadioVaticana 25.01.2016)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét