07/02/2016
Chúa Nhật tuần 5 thường niên năm C
(phần I)
Bài Ðọc
I: Is 6, 1-2a, 3-8
"Này
tôi đây, xin hãy sai tôi".
Trích
sách Tiên tri Isaia.
Năm
vua Ozias băng hà, tôi nhìn thấy Chúa ngự trên ngai cao, và đuôi áo của Người
bao phủ đền thờ. Các Thần Sốt Mến đứng trước mặt Người, và luân phiên tung hô rằng:
"Thánh, Thánh, Thánh! Chúa là Thiên Chúa các đạo binh, toàn thể địa cầu đầy
vinh quang Chúa". Các nền nhà đều rung chuyển trước tiếng tung hô, và nhà
cửa đều đầy khói.
Lúc bấy
giờ tôi mới nói: "Vô phúc cho tôi! Tôi chết mất, vì lưỡi tôi nhơ bẩn, tôi ở
giữa một dân tộc mà lưỡi họ đều nhơ nhớp, mắt tôi đã trông thấy Ðức Vua, Người
là Chúa các đạo binh". Nhưng lúc đó có một trong các Thần Sốt Mến bay đến
tôi, tay cầm cục than cháy đỏ mà ngài đã dùng cặp lửa gắp ở bàn thờ. Ngài đặt
than lửa vào miệng tôi và nói: "Hãy nhìn xem, than lửa này đã chạm đến lưỡi
ngươi, lỗi của ngươi được xoá bỏ, và tội của ngươi được thứ tha". Và tôi
nghe tiếng Chúa phán bảo: "Ta sẽ sai ai đi? Và ai sẽ đi cho chúng
ta?" Tôi liền thưa: "Này con đây, xin hãy sai con".
Ðó là
lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 137, 1-2a. 2bc-3.4-5. 7c-8
Ðáp: Lạy Chúa, trước mặt các thiên thần,
con đàn ca mừng Chúa (c. 1c).
Xướng:
1) Lạy Chúa, con sẽ ca tụng Chúa hết lòng, vì Chúa đã nghe lời miệng con xin;
trước mặt các thiên thần, con đàn ca mừng Chúa, con sấp mình thờ lạy bên thánh
điện Ngài. - Ðáp.
2) Và
con sẽ ca tụng uy danh Chúa, vì lòng nhân hậu và trung thành của Chúa. Khi con
kêu cầu, Chúa nhậm lời con, Chúa đã ban cho tâm hồn con nhiều sức mạnh. - Ðáp.
3) Lạy
Chúa, các vua địa cầu sẽ ca ngợi Chúa, khi họ nghe những lời miệng Chúa phán
ra; và họ sẽ ca ngợi đường lối của Chúa: "Thực, vinh quang của Chúa lớn
lao!" - Ðáp.
4)
Tay hữu Chúa khiến con được sống an lành. Chúa sẽ hoàn tất cho con những điều
đã khởi sự. Lạy Chúa, lòng nhân hậu Chúa tồn tại muôn đời, xin đừng bỏ rơi công
cuộc tay Ngài. - Ðáp.
Bài Ðọc
II: 1 Cr 15, 1-11 (bài
dài)
"Chúa
hiện ra với Giacôbê, rồi với tất cả các Tông đồ".
Trích
thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh
em thân mến, tôi xin nhắc lại cho anh em Tin Mừng mà tôi đã rao giảng cho anh
em, và anh em đã lãnh nhận và đang tin theo, nhờ đó anh em được cứu độ, nếu anh
em tuân giữ lời lẽ tôi đã rao giảng cho anh em, bằng không anh em đã tin cách
vô ích. Tôi đã rao truyền cho anh em trước tiên điều mà chính tôi đã nhận lãnh:
đó là Ðức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng theo như lời Thánh Kinh. Người
được mai táng và ngày thứ ba Người đã sống lại đúng theo như lời Thánh Kinh.
Người đã hiện ra với ông Kêpha, rồi với mười một vị. Sau đó, Người đã hiện ra với
hơn năm trăm anh em trong một lúc; nhiều người trong số anh em đó hãy còn sống
tới nay, nhưng có vài người đã chết. Thế rồi Người hiện ra với Giacôbê, rồi với
tất cả các Tông đồ. Sau cùng, Người cũng hiện ra với chính tôi như với đứa con
đẻ non. Tôi vốn là kẻ hèn mọn nhất trong các tông đồ, và không xứng đáng được gọi
là tông đồ, vì tôi đã bắt bớ Hội Thánh của Thiên Chúa. Nhưng nay tôi là người
thế nào, là nhờ ơn của Thiên Chúa, và ơn của Người không vô ích nơi tôi, nhưng
tôi đã chịu khó nhọc nhiều hơn tất cả các Ðấng: song không phải tôi, nhưng là
ơn của Thiên Chúa ở với tôi. Dù tôi, dù là các Ðấng, chúng tôi đều rao giảng
như thế cả, và anh em cũng đã tin như vậy.
Ðó là
lời Chúa.
Hoặc đọc
bài vắn này: 1 Cr 15, 3-8. 11
"Chúa
hiện ra với Giacôbê, rồi với tất cả các Tông đồ".
Trích
thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh
em thân mến, tôi đã rao truyền cho anh em trước tiên điều mà chính tôi đã nhận
lãnh: đó là Ðức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng theo như lời Thánh Kinh.
Người được mai táng và ngày thứ ba Người đã sống lại đúng theo như lời Thánh
Kinh. Người đã hiện ra với ông Kêpha, rồi với mười một vị. Sau đó, Người đã hiện
ra với hơn năm trăm anh em trong một lúc; nhiều người trong số anh em đó hãy
còn sống tới nay, nhưng có vài người đã chết. Thế rồi Người hiện ra với
Giacôbê, rồi với tất cả các Tông đồ. Sau cùng, Người cũng hiện ra với chính tôi
như với đứa con đẻ non. Dù tôi, dù là các Ðấng, chúng tôi đều rao giảng như thế
cả, và anh em cũng đã tin như vậy.
Ðó là
lời Chúa.
Alleluia:
Alleluia,
alleluia! - Lạy Chúa, xin hãy mở lòng chúng con, để chúng con lắng nghe lời Con
của Chúa. - Alleluia.
Phúc
Âm: Lc 5, 1-11
"Các
ông đã từ bỏ mọi sự mà đi theo Người".
Tin Mừng
Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy,
dân chúng chen nhau lại gần Ðức Giêsu để nghe lời Thiên Chúa, lúc đó Người đứng
ở bờ hồ Giênêsarét. Người trông thấy hai chiếc thuyền đậu gần bờ; những người
đánh cá đã ra khỏi thuyền và họ đang giặt lưới. Người xuống một chiếc thuyền,
thuyền đó của ông Simon, và Người xin ông đưa ra khỏi bờ một chút. Rồi Người ngồi
trên thuyền, giảng dạy dân chúng. Vừa giảng xong, Người bảo ông Simon rằng:
"Hãy đẩy thuyền ra chỗ nước sâu, và thả lưới bắt cá". Ông Simon thưa
Người rằng: "Thưa Thầy, chúng con đã cực nhọc suốt đêm mà không được gì hết;
nhưng vì lời Thầy, con sẽ thả lưới". Các ông đã thả lưới và bắt được rất
nhiều cá; lưới các ông hầu như bị rách. Bấy giờ các ông làm hiệu cho các bạn đồng
nghiệp ở thuyền bên cạnh đến giúp đỡ các ông. Những người này tới, họ đổ cá đầy
hai chiếc thuyền, đến nỗi những thuyền chở nặng gần chìm.
Thấy
thế, ông Simon sụp lạy dưới chân Chúa Giêsu và thưa Người rằng: "Lạy Chúa,
xin Chúa hãy tránh xa con, vì con là người tội lỗi". Ông kinh ngạc và tất
cả mọi người ở đó với ông cũng kinh ngạc trước mẻ cá mà các ông vừa mới bắt được;
cả ông Giacôbê và Gioan, con ông Giêbêđê, bạn đồng nghiệp với ông Simon cũng thế.
Nhưng Chúa Giêsu phán bảo ông Simon rằng: "Ðừng sợ hãi: từ đây con sẽ là kẻ
chinh phục người ta". Bấy giờ các ông đưa thuyền vào bờ, và đã từ bỏ mọi sự
mà đi theo Người.
Ðó là
lời Chúa.
Suy Niệm:
Chúa Gọi Các Tông Ðồ
Tiếp
tục chương trình của những Chúa nhật mở đầu mùa Thường Niên day dỗ chúng ta về
những bước đầu trong cuộc đời truyền đạo của Chúa Giêsu, bài Tin Mừng Luca hôm
nay nói đến việc Chúa chọn những tông đồ đầu tiên. Bài Cựu Ước được dùng để báo
trước vấn đề này là đoạn sách Isaia kể lại việc Chúa gọi nhà tiên tri. Các tông
đồ ngày nay ở trong Hội Thánh tiếp nối công việc của những người được Chúa chọn
trong Cựu Ước cũng như Tân Ước.
Thế
nên bài Thánh Thư nói họ phải rao giảng giáo lý nào cho trung thành với truyền
thống. Như vậy, Chúa nhật hôm nay đáng gọi là ngày ơn gọi. Chúng ta xem Chúa đã
gọi chúng ta như thế nào để chúng ta biết phải sống thế nào cho xứng đáng với
ơn gọi ấy.
1.
Chúa Gọi Isaia
Chúng
ta đều biết những câu đầu chương VI sách Isaia. Nhà tiên tri kể lại ơn gọi của
mình. Năm ấy Ôzya, vị vua thứ 10 của Israen mới thăng hà. Ðó là điềm không tốt
cho quốc gia này. Vì Ôzya, cũng có tên là Azarias, là một vị vua đạo đức. Dưới
triều đại ông, Israen không những thái bình, mà còn ghi vào lịch sử một số chiến
thắng. Ông thăng hà, có nghĩa là thời vận Israen bắt đầu thay đổi. Sách Isaia
nói đến thế lực của Assyria phương bắc đang dần dần kéo xuống gần bờ cõi
Israen. Người ta run sợ trước kỵ binh và tên nỏ. Nhưng chính những lúc ấy, Chúa
lại tỏ ra thương dân lạ lùng. Người sai đến cho họ những người sẽ nói nhân danh
Người.
Isaia
được ơn gọi vào năm ấy, năm 740 trước Ðức Giêsu ra đời. Ông đang ở trong đền thờ.
Bỗng dưng ông thấy Chúa hiện ra ngự trên ngai, có áo choàng phủ khắp đền thờ. Lại
có những Sêraphim chầu hầu. Và có tiếng tung hô: "Thánh, thánh, thánh,
Chúa các đạo binh, khắp đất đầy tràn vinh quang Người". Rồi mộng cửa rung
rinh, nhà nghi ngút khói.
Có thật
Isaia đã thấy như vậy không? Hay đây là những nét tả đầy tính cách thần học? Dù
sao quang cảnh này cũng có nhiều ý nghĩa. Trung thành với truyền thống không
bao giờ dám mô tả chính Thiên Chúa, - vì mắt phàm thấy sao được long nhan Người?
ở đây tác giả nói đến những sự chung quanh Thiên Chúa hơn là diễn tả chính Người.
Việc Người ngự trên ngai và có áo choàng trải khắp đền thờ chứng tỏ Người là vị
hoàng đế cao cả, làm cho những kẻ đang sợ danh tướng của vua Assyria đến, được
an tâm bình tĩnh lại. Và việc có các Sêraphim chầu hầu quanh ngai còn nói lên
hơn nữa rằng Chúa trổi vượt hơn các thần dân xâm lược. Là vì ở Assyria người ta
sợ hãi sùng bái các Sêraphim, đang khi ở đây chúng chỉ đáng bậc tôi tớ.
Và
khác với thần thánh ở Assyria chỉ là những ngẫu tượng kính nhi viễn chi, tức là
phải sợ hãi tôn thờ để khỏi bị oán trả, Thiên Chúa của Isaia trải vinh quang
Người khắp cả mặt đất. Và tuy là Ðấng Thánh và ngàn trùng chí thánh, siêu việt
ngàn lần đối với tạo vật... Người là Ðấng Thiên Chúa ở liền với các đạo quân của
dân Người, và Người can thiệp vào lịch sử để mặt đất đầy vinh quang Người.
Hôm
nay Người hiện ra với Isaia khác nào hôm Người ngự xuống trên núi Sinai: Có đất
động và mây khói phủ đầy.
Tự
nhiên Isaia phải sợ. Nhưng đây là một sự sợ tinh thần, khác hẳn sự sợ nô lệ.
Isaia thấy Ðấng Thánh chiếu cố đến mình. Ông thấy mình bất xứng. Sự sợ của ông
nói lên ý thức tội lỗi của con người ở giữa dân tội lỗi. Ông cầu cứu ơn cứu độ.
Và ông đã được nhận lời. Vị thần sứ đã gắp một cục than hồng trên bàn thờ hương
đi đến thanh tẩy môi miệng ông để xóa tội lỗi và biến môi miệng ấy nên xứng
đáng cho việc rao giảng Lời Chúa.
Viết
lại những dòng chữ này, Isaia khẳng định những quan điểm thần học sâu xa của
ông. Mọi người đều là phàm nhân và tội lỗi, không thể cáng đáng những công việc
thánh thiện, trước khi được thanh tẩy bằng chính ơn của Chúa, chứ không phải bằng
nỗ lực và sự nghiệp của mình.
Có thể
vì ý thức đã được thanh tẩy, Isaia chấp nhận ngay đề nghị của Chúa để đi làm
tiên tri. Nhưng cũng có thể vì đứng trước một vị hoàng đế cao cả đến nỗi các
Sêraphim cũng phải ngoan ngoãn chầu hầu, ai mà dám không mau lẹ thi hành ý muốn
của Người.
Dù
sao Isaia cũng đã hân hoan lãnh nhận sứ mạng tiên tri vì tất cả quang cảnh ông
vừa thấy đầy khích lệ cứu độ. Israen không còn phải lo quân xâm lược nữa. Thiên
Chúa là hoàng đế cao cả, siêu việt vượt hẳn vua chúa Assyria. Người điều khiển
cả các Sêraphim của nước ấy. Người thánh thiện thật nhưng không ở xa dân. Người
sẽ làm cho mặt đất đầy vinh quang Người. Và trước hết Người sẽ thanh tẩy, xóa bỏ
tội lỗi cho chúng ta, để chúng ta nên tông đồ tiên tri rao giảng tin mừng cho
các dân tộc.
Như vậy,
bài sách Isaia rất nhiều ý nghĩa. Tuy nhiên phụng vụ hôm nay cũng chỉ dùng để
đưa chúng ta vào bài Tin Mừng. Vì ở đây sẽ có những sự thực cụ thể hơn và nhất
là có tầm mức phổ cập và luôn luôn hiện đại. Chúng ta hãy xem.
2.
Chúa Gọi Các Tông Ðồ
Thánh
Luca không xác định hôm ấy là ngày nào. Có lẽ tính cách "không có thời
gian" rõ rệt này thuận lợi hơn để nói đến những công việc luôn có giá trị
hiện đại.
Tác
giả thoạt tiên cho chúng ta thấy một quang cảnh khác hẳn với những gì Isaia đã
nhìn thấy. Ở đây là bờ hồ Giênêzaret chứ không phải là tại đền thờ Giêrusalem.
Quang cảnh cởi mở này hợp với tinh thần truyền giáo và công giáo của sách Phúc
âm Luca hơn. Nhưng tuy ở trên bờ hồ, Ðức Giêsu vẫn không thiếu vẻ oai phong cao
cả, vì quần chúng xán lại bên Người và chăm chú muốn nghe Lời Người dạy dỗ...
Người thấy có hai chiếc thuyền bỏ neo gần đó. Không một người nào ở trên hai
chiếc thuyền ấy vì những người đánh cá đã xuống cả rồi và đang giặt lưới.
Ðó là
hình ảnh những cái ngai đang còn trống. Ðức Giêsu lên chiếc thuyền thuộc về
Phêrô và truyền đẩy ra xa bờ một chút. Rồi Người ngồi xuống phán dạy quần chúng
đang đứng trên bờ.
Rõ
ràng Luca muốn cho những bức họa có phần oai phong như lại sống động. Một Ðức
Giêsu ngồi một mình trên thuyền nhìn xuống quần chúng dưới bờ mà phán dạy họ những
điều cao cả, cũng có Ðấng "Thánh" đang can thiệp vào thế gian. Chúng
ta có thể nói Chúa trong điện thờ mà Isaia đã nhìn thấy, nay đang ở giữa loài
người. Người ở gần chúng ta mà vẫn không mất vẻ siêu vời, Người muốn đem tinh
thần và sức mạnh thần linh của Người vào thế gian.
Người
bảo Phêrô: "Hãy chèo ra khơi thả lưới mà bắt cá". Làm sao ông có thể
không vâng lời? Chúng ta có thể thấy ông đã tức khắc sửa soạn hành trang. Nhưng
đồng thời ông đã thành thật thưa: Ðêm vừa rồi ông không bắt được gì cả, nhưng
Thầy đã dạy, ông xin làm theo. Phản ứng của ông rất thành khẩn. Nó vừa nói lên
đức vâng lời và niềm tin tưởng, lại vừa báo trước và làm nổi bật phép lạ sắp xảy
ra. Cả đêm đã đánh không được cá, huống nữa là lúc này, trời đã sáng.
Thế
mà vì lệnh truyền, lưới của Phêrô đã đầy cá, sắp nứt ra rồi. Ông không kéo nổi
và phải gọi đồng bạn ở cái thuyền kia đến giúp.
Từ
trước đến giờ, Luca chỉ nói đến Giêsu và Phêrô. Tác giả muốn đề cao vai trò của
vị tông đồ này ở trong Hội Thánh. Phêrô được ưu tiên trong cái nhìn của Chúa.
Sau đó ông mới gọi đồng bạn là Gioan và Giacôbê ở thuyền kia đến giúp.
Thấy
mẻ cá lạ lùng này, họ đâm kinh sợ con người đã truyền lệnh cho họ. Phêrô liền bắt
chước Isaia, quỳ mọp xuống trước mặt Người, xưng thú thân phận tội lỗi chẳng
dám đứng trước long nhan. Nhưng Chúa ôn tồn bảo: "Ðừng sợ, từ nay hãy đi
lưới các linh hồn". Người đã gọi các tông đồ một cách cụ thể hơn Chúa gọi
Isaia ngày trước. Các ông sẽ đi làm công việc của các ông vừa làm, nhưng trên
bình diện khác. Và công việc của các ông đã được báo trước sẽ kết quả lạ lùng
như các ông vừa thấy cá đua nhau chạy vào lưới các ông.
Chúng
ta hãy tạ ơn Chúa. Người đã làm những việc cao cả trong cuộc đời của Isaia.
Nhưng nơi các tông đồ của đạo mới, Người còn tỏ ra uy quyền và mạnh hơn biết
bao. Không những nơi Ðức Kitô, Thiên Chúa đã đến với loài người và ở giữa chúng
ta, cụ thể hơn khi Người bày tỏ vinh quang cho Isaia nơi đền thánh, Người còn gọi
Phêrô và các tông đồ để Hội Thánh làm cho vinh quang của Người trải ra trên khắp
địa cầu.
Tác
giả Luca thật ra đã muốn nói lên những điều ấy trong đoạn Tin Mừng hôm nay. Người
viết lại câu chuyện Chúa gọi Phêrô sau khi Ðức Giêsu đã phục sinh và lên trời.
Khi ấy đã là thời đại của Hội Thánh. Do đó câu chuyện Người kể nhất thiết phải
mang các tính chất Kitô học và Giáo hội học. Ðức Giêsu đã là vua và là Chúa. Hội
Thánh đã có Phêrô đứng đầu. Và công cuộc truyền giáo của các tông đồ đang mang
lại nhiều kết quả. Nhưng tất cả đã khởi sự ngay khi Ðức Kitô còn tại thế.
Ðưa
các hình ảnh về phục sinh đặt lên khoảng thời gian Ðức Giêsu mới xuất thân giảng
đạo, tác giả Luca khiến chúng ta tin tưởng nhiều hơn về Hội Thánh hiện nay. Bề
ngoài đời sống Hội Thánh như không có gì lạ lùng, nhưng cũng như cuộc đời trần
gian của Chúa Cứu Thế, đây chẳng phải là lúc đang chứa chấp nhiều thành quả
phong phú trong tương lai sao? Gioan chỉ kể chuyện về mẻ cá lạ sau phục sinh,
Luca đặt lên trước phục sinh để đảm bảo thành công rực rỡ cho ơn gọi của các
tông đồ và của Hội Thánh. Ta sẽ sống ơn gọi này thế nào?
3.
Thi Hành Sứ Mạng Kitô Giáo
Muốn
hiểu đoạn thư Phaolô hôm nay, chúng ta cần biết rằng nhiều người trong cộng
đoàn Côrintô hồi ấy không tin lắm vào mầu nhiệm xác thịt sau này sẽ sống lại. Họ
sống trong nền văn minh Hy Lạp vốn coi rẻ thân xác. Nhiều lý thuyết thời ấy
quan niệm thân thế là tù ngục giam hãm linh hồn. Người ta phải mong có ngày ra
khỏi chốn tối tăm ấy để được lên nơi tinh thần... Nhiều khi chúng ta không mặc
nhiên nghĩ như vậy sao?
Nhưng
đó là suy nghĩ rất tai hại, sai hẳn với tin mừng cứu độ. Thánh Phaolô nhắc lại
cho người Côrintô biết: Nếu nghĩ như vậy thì đã theo đạo một cách vô ích. Chúng
ta không những tin Chúa đã chịu chết, mà đặc biệt hơn, chúng ta tin Người đã sống
lại. Có phục sinh, Người mới ban ơn cứu độ, chứ nếu cứ chết mãi thì hỏi Người cứu
được ai? Tin điều Chúa sống lại vì thế là nền tảng và khởi điểm của đức tin
trong Hội Thánh. Hội Thánh nắm vững niềm tin này vì mầu nhiệm Tử nạn Phục sinh
phù hợp với Sách Thánh; vì Phêrô và đoàn 12 tông đồ đã được nhìn thấy Chúa sống
lại; vì cả cộng đoàn tín hữu đã được xem thấy Chúa Phục sinh hiện ra.
Cuối
cùng chính Phaolô cũng được Người tỏ mình ra ở trên đường Ðamas. Nhưng dù là
Phaolô, Giacôbê, hay Phêrô, mọi tông đồ trong Hội Thánh chỉ có một giáo lý. Ðó
là Ðức Giêsu đã chết vì tội lỗi của chúng ta như lời Sách Thánh dạy và Người
cũng đã sống lại theo như lời Kinh Thánh nói, để chúng ta có đức tin và được ơn
cứu độ.
Thành
ra ơn gọi của chúng ta là niềm tin vào Ðức Giêsu tử nạn phục sinh. Ðó là Tin Mừng
cứu độ mọi người. Nó phải hướng dẫn đời sống chúng ta. Chúng ta không được bi
quan về tương lai, như thể sẽ có sự chết mãi mãi. Ngược lại chúng ta phải lạc
quan mạnh mẽ vì sẽ có sự sống lại cho ngay cả thân xác yếu đuối này. Sống niềm
tin này một cách cụ thể, chúng ta sẽ trung thành tiếp nối truyền thống của Hội
Thánh không những từ thời các tông đồ mà có thể nói ngay từ thời các tiên tri.
Isaia trong bài đọc một hôm nay chẳng hạn đã nhìn thấy ơn gọi của mình rất lạc
quan trong tình hình đáng run sợ của đất nước. Luca khẳng định ơn gọi của các
tông đồ nhất định đem lại thành công như mẻ cá lạ lùng. Phaolô kêu gọi chúng ta
hãy nhớ mình là tín hữu khi tuyên xưng Ðức Giêsu Kitô chịu chết và sống lại.
Người Công Giáo phải lạc quan phấn khởi. Dân Chúa phải rao truyền mầu nhiệm
Chúa Phục Sinh.
Ở nhà
thờ này, chúng ta vẫn làm như thế. Khi cử hành thánh lễ chúng ta hân hoan tuyên
xưng việc Chúa chịu chết và sống lại. Chúng ta tin rằng thánh lễ ban sự sống mới
cho tâm hồn. Thế thì chúng ta hãy ra về đi vào xã hội với niềm tin mạnh mẽ và
ơn phục sinh mà Thánh Thể đã đặt vào lòng ta để đổi mới cuộc đời, xây dựng xã hội
tốt đẹp hơn, nhìn thấy tương lai hấp dẫn lạ thường. Xin Chúa thêm niềm tin cho
chúng ta.
(Trích
dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của
Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Chủ Nhật
V Thường Niên, Năm C
Bài đọc: Isa 6:1-2a, 3-8; I Cor 15:1-11; Lk 5:1-11.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thiên Chúa mời gọi
con người cộng tác với Ngài để mang ơn cứu độ cho mọi người.
Thiên
Chúa là Đấng quan phòng mọi sự cách kỳ diệu và khôn ngoan. Ngài có thể làm tất
cả; nhưng lại muốn dùng con người để mang ơn cứu độ đến cho mọi người. Ngài gọi
mỗi người trong những hoàn cảnh khác nhau, và trao sứ vụ mang ơn cứu độ đến cho
tha nhân bằng những cách thức khác nhau. Người được gọi phải có một kinh nghiệm
sâu xa với Thiên Chúa trước khi đáp trả lời mời gọi của Ngài. Họ phải cảm nhận
được tình yêu của Thiên Chúa dành cho họ, sự bất toàn của bản thân, sự thánh
thiện của Thiên Chúa, sự quan trọng và thúc bách của ơn cứu độ.
Các
Bài Đọc hôm nay dẫn chứng việc Thiên Chúa gọi một số nhân vật để cộng tác với
Ngài trong việc loan truyền ơn cứu độ đến cho muôn người. Trong Bài Đọc I,
Thiên Chúa gọi Isaiah đang khi ông tham dự phụng vụ thánh trong Đền Thờ. Ông được
nhìn thấy sự thánh thiện và vinh quang của Thiên Chúa cũng như nhận ra sự ô uế
của mình; nhưng sứ thần của Thiên Chúa đã thanh tẩy ông bằng than hồng, trước
khi ông tình nguyện để được sai đến với con cái nhà Israel. Trong Bài Đọc II,
Phaolô tường thuật lại sự kiện ông được Đức Kitô gọi và trao sứ vụ rao giảng
Tin Mừng. Ông được gọi làm tông đồ khi đang trên đường bắt bớ các tín hữu tại
Damascus; nhưng Đức Kitô đã hiện ra với ông và làm ông bị ngã ngựa và bị mù.
Sau đó Ngài sai người đến mở mắt, huấn luyện, và trao cho ông sứ vụ mang Tin Mừng.
Phaolô cảm nhận được tình yêu Thiên Chúa và sự bất toàn của mình; nhưng ơn
thánh của Thiên Chúa đã lấp đầy những bất toàn và giúp cho sứ vụ của ông được
thành công. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu chuẩn bị tâm hồn Phêrô bằng cách cho ông
chứng kiến cảnh con người khao khát được nghe Tin Mừng và mẻ cá lạ lùng. Phêrô
cảm thấy mình tội lỗi và bất xứng nên xin Đức Kitô tránh xa ông; nhưng Ngài đã
gọi và biến đổi ông thành người chinh phục tha nhân về cho Thiên Chúa.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài
đọc I: Thiên Chúa gọi
Isaiah làm ngôn sứ.
1.1/
Hoàn cảnh của Isaiah: Ông
là công dân của vương quốc Judah, có vợ và ít nhất hai người con. Ông sống
trong một thời kỳ rất khó khăn của đất nước: sự kiện vua Uzziah băng hà chấm dứt
thời huy hoàng của Judah và bắt đầu một thời kỳ gian nan với sự cai trị của các
vua Jotham, Ahaz, và Hezekiah. Ông đã chứng kiến cảnh vương quốc Israel miền Bắc
bị rơi vào tay của quân đội Assyria năm 721 BC, và cảnh suy sụp về đạo nghĩa của
vua quan cũng như dân trong xứ Judah sẽ đem đến thảm cảnh cho vương quốc Judah
sau này (587 BC). Trình thuật hôm nay tường thuật một thị kiến xảy ra trong Đền
Thờ và bắt đầu sứ vụ ngôn sứ của Isaiah.
1.2/
Kinh nghiệm của Isaiah: Thiên
Chúa cho ông nhìn thấy sự vinh quang và thánh thiện của Thiên Chúa. Ông kể lại
thị kiến: "Tôi thấy Chúa Thượng ngự trên ngai rất cao; tà áo của Người bao
phủ Đền Thờ. Phía bên trên Người, có các thần Seraphim đứng chầu. Các vị ấy đối
đáp tung hô: "Thánh! Thánh! Chí Thánh! Đức Chúa các đạo binh là Đấng
Thánh! Cả mặt đất rạng ngời vinh quang Chúa!" Tiếng tung hô đó làm cho các
trụ cửa rung chuyển; khắp Đền Thờ khói toả mịt mù." Ba lần tung hô
"Thánh! Thánh! Chí Thánh!" là truyền thống Do-thái diễn tả sự thánh
thiện của Thiên Chúa. Khói tỏa mịt mù nhắc cho ông biết về sự hiện diện của
Thiên Chúa trong Đền Thờ, như con cái Israel từng có kinh nghiệm về "cột
mây" suốt 40 năm trong sa mạc.
Khi
nhận ra sự thánh thiện của Thiên Chúa, ông cũng đồng thời cảm thấy mình ô uế tội
lỗi; nên ông thốt lên: "Khốn thân tôi, tôi chết mất! Vì tôi là một người
môi miệng ô uế, tôi ở giữa một dân môi miệng ô uế, thế mà mắt tôi đã thấy Đức
Vua là Đức Chúa các đạo binh!" Truyền thống Do-thái vẫn tin: không ai nhìn
thấy Thiên Chúa mà còn sống. Trường hợp của Isaiah là một trường hợp đặc biệt,
vì Thiên Chúa đã sai thiên thần đến để thanh tẩy miệng lưỡi của ông, như ông tường
thuật: "Một trong các thần Seraphim bay về phía tôi, tay cầm một hòn than
hồng người đã dùng cặp mà gắp từ trên bàn thờ. Người đưa hòn than ấy chạm vào
miệng tôi và nói: "Đây, cái này đã chạm đến môi ngươi, ngươi đã được tha lỗi
và xá tội.""
1.3/
Isaiah tình nguyện để được sai đi: Quang cảnh Isaiah được chứng kiến là cảnh triều đình của Thiên
Chúa với các thiên thần. Đó là lý do tại sao Thiên Chúa hỏi ý kiến của các
ngài: "Ta sẽ sai ai đây? Ai sẽ đi cho chúng ta?" Ngài không trực tiếp
gọi Isaiah; nhưng Isaiah bị thôi thúc để đáp trả: "Dạ, con đây, xin sai
con đi." Lý do bị thúc đẩy có lẽ vì Isaiah được chứng kiến vinh quang
thánh thiện của Thiên Chúa và được thiên thần sốt mến Seraphim thanh tẩy. Khi
con người cảm nhận được tình yêu và sự tốt lành của Thiên Chúa, họ muốn đáp trả
tình yêu Thiên Chúa bằng cách rao truyền tình yêu này cho mọi người.
2/ Bài
đọc II: Đức Kitô chọn
Phaolô làm tông đồ Dân Ngoại.
2.1/
Hoàn cảnh của Phaolô: Ông
là một người Pharisee nhiệt thành với Lề Luật, sinh sống tại Tarsus, trong tỉnh
bang Cicilia, và hành nghề chế tạo lều. Ông đang trên đường đi Damascus để truy
nã các tín hữu của Đức Kitô. Lý do ông truy nã các tín hữu vì ông tin như bao
người Do-thái khác: chỉ có người Do-thái mới xứng đáng được hưởng ơn cứu độ bằng
cách giữ cẩn thận các luật lệ của tiền nhân để lại. Ông không được nghe trực tiếp
từ Đức Kitô; nhưng qua những lời tố cáo của những người khác, ông nhìn Chúa
Giêsu và các tín hữu như những kẻ thù đe dọa niềm tin của Do-thái Giáo.
Nhưng
biến cố gặp gỡ Đức Kitô trên đường đi Damascus đã thay đổi toàn bộ đời sống của
Phaolô. Ông bị té ngựa bởi một luồng sáng cực mạnh từ trời, bị mù lòa, và được
nghe tiếng Đức Kitô cho biết Ngài chính là Người mà ông đang truy nã. Ngài cũng
cảnh cáo cho ông biết "khốn cho những ai cứ giơ chân đạp mũi nhọn!"
Sau đó, ông được sai tới với Ananiah, môn đệ của Đức Kitô, để được chữa lành và
trao sứ vụ rao giảng Tin Mừng, cách riêng cho Dân Ngoại.
2.2/
Kinh nghiệm của Phaolô: Khi
suy niệm về biến cố ngã ngựa đó, Phaolô cảm thấy mình hoàn toàn không xứng đáng
với tình yêu của Đức Kitô. Thứ nhất, ông là kẻ thù đáng chết của Đức Kitô, vì
ông đang truy tố các tín hữu của Ngài; thế mà Ngài đã không bắt ông phải chết,
lại còn chữa lành sự mù lòa của ông về thể xác cũng như tinh thần. Ngài cho ông
nhìn thấy sự thật về những mầu nhiệm của Thiên Chúa mà trước đó ông đã lầm lẫn.
Thứ đến, Ngài còn ban cho ônh đặc quyền được làm tông-đồ. Phaolô thú nhận:
"tôi là người hèn mọn nhất trong số các Tông Đồ, tôi không đáng được gọi
là Tông Đồ, vì đã ngược đãi Hội Thánh của Thiên Chúa."
Sau cùng, Ngài ban muôn ơn thánh để giúp ông hoàn thành sứ vụ được trao phó:
"tôi có là gì, cũng là nhờ ơn Thiên Chúa, và ơn Người ban cho tôi đã không
vô hiệu; trái lại, tôi đã làm việc nhiều hơn tất cả những vị khác, nhưng không
phải tôi, mà là ơn Thiên Chúa cùng với tôi."
2.3/
Phaolô thực thi sứ vụ tông đồ: Trong
hành trình rao giảng Tin Mừng, Phaolô đã gặp nhiều chống đối từ mọi phía: từ
phía các tín hữu và từ người Do-thái. Các tín hữu không thể tin Phaolô, một người
đang nhiệt thành bắt đạo, có thể trở thành người rao giảng Tin Mừng. Những người
ghen tị tố cáo Phaolô giảng dạy giáo lý sai lạc. Họ nêu lý do vì Phaolô không
thuộc Nhóm Mười Hai nên không thấu hiểu đạo lý của Đức Kitô. Trong trình thuật
hôm nay, Phaolô nêu bật những điều quan trọng mà mọi người phải tin: Đức Kitô
đã chết vì tội lỗi chúng ta và đã sống lại đúng như lời Kinh Thánh. Sau đó, Đức
Kitô đã hiện ra với nhiều người: với ông Kêpha và với Nhóm Mười Hai, với hơn
năm trăm anh em một lượt, trong số ấy phần đông hiện nay còn sống, nhưng một số
đã an nghỉ, và sau cùng với chính ông trên đường đi Damascus. Tất cả đều làm chứng
Đức Kitô đã chết và đã sống lại. Phaolô kết luận: "Tóm lại, dù tôi hay các
vị khác rao giảng, thì chúng tôi đều rao giảng như thế, và anh em đã tin như vậy."
3/
Phúc Âm: Chúa Giêsu gọi
Phêrô trở thành kẻ "lưới người như lưới cá."
3.1/
Hoàn cảnh của Phêrô: Ông là
người quê ở Betsaida và đang hành nghề đánh cá trên Biển Hồ Galilee. Theo trình
thuật của Lucas hôm nay, Chúa Giêsu muốn Phêrô chứng kiến hai điều quan trọng:
(1)
Dân chúng khao khát được nghe Tin Mừng: Vì dân chúng phải chen lấn nhau đến gần
Chúa Giêsu để nghe lời Thiên Chúa, nên Chúa Giêsu xuống một chiếc thuyền, thuyền
đó của ông Simon, và Người xin ông chèo thuyền ra xa bờ một chút. Rồi Người ngồi
xuống, và từ trên thuyền Người giảng dạy đám đông. Phêrô chứng kiến nhu cầu
khao khát được nghe Lời Chúa của dân chúng; nhưng chắc ông không bao giờ dám mơ
tưởng một người ngư phủ như ông có thể trở thành người rao giảng Tin Mừng.
(2)
Chúa Giêsu cho Phêrô bắt được một mẻ cá lạ lùng: Giảng xong, Người bảo ông:
"Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá." Ông Simon đáp: "Thưa
Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng vâng lời Thầy,
tôi sẽ thả lưới." Ông nghĩ với kinh nghiệm của một ngư phủ hành nghề lâu
năm, ông sẽ cho Chúa Giêsu thấy lệnh truyền của Ngài vô ích; nhưng Chúa Giêsu
chứng minh cho Phêrô thấy uy quyền của Thiên Chúa. "Họ đã làm như vậy, và
bắt được rất nhiều cá, đến nỗi hầu như rách cả lưới. Họ làm hiệu cho các bạn
chài trên chiếc thuyền kia đến giúp. Những người này tới, và họ đã đổ lên được
hai thuyền đầy cá, đến gần chìm."
3.2/
Kinh nghiệm của Phêrô: Ông
nhận ra sự bất toàn của mình và uy quyền của Chúa Giêsu. Ngài không chỉ có uy
quyền trong việc giảng dạy Lời Chúa; nhưng còn có uy quyền trên biển cả, mà
ngay cả những ngư phủ kinh nghiệm như ông, đã vất vả suốt đêm mà không bắt được
con cá nào cả. Ông Simon Phêrô sấp mặt dưới chân Đức Giêsu và nói: "Lạy
Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!"
3.3/ Sự
đáp trả của Phêrô: Bấy giờ
Đức Giêsu bảo ông Simon: "Đừng sợ, từ nay anh sẽ là người thu phục người
ta." Ông đưa thuyền vào bờ, rồi bỏ hết mọi sự mà theo Người. Khi gọi ông
theo Ngài, Chúa Giêsu muốn Simon dùng kinh nghiệm ông có sẵn trong nghề đánh cá
để áp dụng vào việc rao giảng Tin Mừng. Đánh cá đòi hỏi sự kiên nhẫn và thói
quen thức khuya dạy sớm; người ngư phủ phải biết giờ nào cá đi tìm mồi và chỉ bắt
cá trong những giờ đó. Việc chinh phục con người về cho Thiên Chúa cũng vậy,
người rao giảng không phải chỉ biết đạo lý Nước Trời, nhưng còn phải biết tâm
lý con người, và phải kiên nhẫn để hoán cải những tâm hồn ngoan cố.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Mỗi
người chúng ta đều đã được Thiên Chúa kêu mời để cộng tác với Ngài trong việc
mang ơn cứu độ đến cho chính mình và cho tha nhân.
-
Chúng ta không xứng đáng với tình yêu, ơn gọi, và ơn cứu độ của Thiên Chúa;
nhưng chúng ta đừng lo lắng, vì Chúa sẽ lấp đầy mọi thiếu thốn của chúng ta với
ơn thánh của Ngài.
-
Chúng ta hãy nhiệt thành đáp trả và cố gắng hết sức để chu toàn sứ vụ được trao
phó. Khó khăn chắc chắn sẽ có; nhưng Thiên Chúa sẽ ban ơn thánh để chúng ta vượt
qua tất cả.
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.
Suy niệm: Ngư
dân giàu kinh nghiệm thường nắm rất rõ về khí hậu, con nước, địa điểm, thời
gian… Thế mà nhiều khi chẳng bắt được gì! Si-mon hôm nay tưởng phải nếm một đêm
trắng tay như thế, nhưng cuối cùng ông được một mẻ cá thật to. Điều thú vị là
thành công này không do kinh nghiệm nghề biển của ông, mà do ông sẵn sàng vâng
lời Đức Giê-su – một bác thợ mộc (có lẽ không biết gì nhiều về chuyện đánh cá!)
Câu chuyện cho thấy rõ: đành rằng kinh nghiệm là một chìa khóa quan trọng của thành công,
nhưng đức tin còn quan trọng hơn kinh nghiệm nhiều. Đức tin
có thể làm nên phép lạ!
Mời Bạn: Đời
Ki-tô hữu là một chuyến ra khơi chài lưới người.
Những kiến thức, kỹ năng, ‘ngón nghề’ có thể rất ích lợi cho chuyến ra khơi
này, và ta được khuyến khích trang bị. Song đừng quên rằng cái ta cần nhất là
đức tin. Thiếu một đức tin đủ mạnh, tất cả kiến thức và kinh nghiệm của ta đều
trở thành thừa. Chính Đức Giê-su xác nhận: “Không có Thầy anh em chẳng làm gì được”
(Ga 15,5).
Chia sẻ: Tại
sao sự vâng phục đức tin lại quan trọng như thế trong đời sống đạo của Ki-tô
hữu?
Sống Lời Chúa: Tập
buông ‘khí giới’ của mình xuống - đó là những chống chế dựa trên kinh nghiệm và
khôn ngoan thuần túy con người - để mau mắn đáp trả các gợi ý của Chúa trong
đức tin.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, Chúa biết rõ lòng tin nơi con yếu nhược. Xin rứt
con ra khỏi thái độ tự mãn và cứng cỏi. Xin cho con biết tin vào tình yêu và
quyền năng của Chúa nhiều hơn. Amen.
Dựa vào Lời Thầy (7.2.2016 – Chúa nhật 5 Thường niên,
năm C)
Suy Niệm
Simon là một giáo dân, có gia đình, có nghề nghiệp.
Cuộc đời ông tưởng như chẳng thể nào đổi thay.
Vậy mà ông ngư phủ bộc trực và ít học này
lại lọt vào cặp mắt của Ðức Giêsu.
Ngài đã từng đến nhà chữa bệnh cho bà mẹ vợ của ông.
Chắc ông cũng đã có lần nghe Ngài giảng
và thấy một số phép lạ Ngài làm.
Ðôi bên đã quen biết nhau qua nhiều mối liên hệ đời thường,
nên Ðức Giêsu rất tự nhiên xuống thuyền của Simon,
và từ thuyền, Ngài giảng cho đám đông lời Thiên Chúa.
Cuộc đời ông tưởng như chẳng thể nào đổi thay.
Vậy mà ông ngư phủ bộc trực và ít học này
lại lọt vào cặp mắt của Ðức Giêsu.
Ngài đã từng đến nhà chữa bệnh cho bà mẹ vợ của ông.
Chắc ông cũng đã có lần nghe Ngài giảng
và thấy một số phép lạ Ngài làm.
Ðôi bên đã quen biết nhau qua nhiều mối liên hệ đời thường,
nên Ðức Giêsu rất tự nhiên xuống thuyền của Simon,
và từ thuyền, Ngài giảng cho đám đông lời Thiên Chúa.
Khi giảng xong, Ngài bảo ông thả lưới chỗ nưóc sâu.
Ðây thật là một thách đố lớn cho Simon.
Kinh nghiệm dân chài cho ông biết nếu đêm không có cá
thì đánh cá ban ngày cũng uổng công.
Vả lại ông và các bạn đã mệt nhoài sau một đêm vất vả.
Lưới đã được giặt và đem phơi…
Nhưng Simon còn có một kinh nghiệm khác,
kinh nghiệm về sức mạnh của Lời Ðức Giêsu.
Lời đầy uy quyền, lời đuổi được ma quỷ, lời chữa cho mẹ vợ ông.
Thế nên, giờ đây ông dám dựa vào lời Thầy mà thả lưới.
Mẻ cá sau đó là lời đáp của Thầy trước niềm tin của ông.
Ðiều mà ông đã vất vả tìm kiếm thì không gặp
Còn khi chẳng cố gắng mấy thì lại được dư tràn.
Tràn trề dư dật là dấu hiệu của bàn tay Thiên Chúa.
Qua mẻ cá kinh khủng, Ðức Giêsu tỏ mình cho ông.
Ngài cho ông gặp Ngài và gặp bản thân mình.
Chính lúc đó ông cảm được khoảng cách giữa mình với Chúa.
Ông thú nhận mình là tội nhân trước mặt Ðấng Thánh.
Nhưng khi ông muốn Ngài tránh xa ông,
thí Ngài lại đến gần ông để trao sứ mạng.
Ngài mở đời ông sang một trang mới:
“Từ nay, anh sẽ bắt sống người ta.”
Không phải bắt để làm chết như bắt cá,
nhưng bắt để đưa vào cuộc sống mới.
Ðây thật là một thách đố lớn cho Simon.
Kinh nghiệm dân chài cho ông biết nếu đêm không có cá
thì đánh cá ban ngày cũng uổng công.
Vả lại ông và các bạn đã mệt nhoài sau một đêm vất vả.
Lưới đã được giặt và đem phơi…
Nhưng Simon còn có một kinh nghiệm khác,
kinh nghiệm về sức mạnh của Lời Ðức Giêsu.
Lời đầy uy quyền, lời đuổi được ma quỷ, lời chữa cho mẹ vợ ông.
Thế nên, giờ đây ông dám dựa vào lời Thầy mà thả lưới.
Mẻ cá sau đó là lời đáp của Thầy trước niềm tin của ông.
Ðiều mà ông đã vất vả tìm kiếm thì không gặp
Còn khi chẳng cố gắng mấy thì lại được dư tràn.
Tràn trề dư dật là dấu hiệu của bàn tay Thiên Chúa.
Qua mẻ cá kinh khủng, Ðức Giêsu tỏ mình cho ông.
Ngài cho ông gặp Ngài và gặp bản thân mình.
Chính lúc đó ông cảm được khoảng cách giữa mình với Chúa.
Ông thú nhận mình là tội nhân trước mặt Ðấng Thánh.
Nhưng khi ông muốn Ngài tránh xa ông,
thí Ngài lại đến gần ông để trao sứ mạng.
Ngài mở đời ông sang một trang mới:
“Từ nay, anh sẽ bắt sống người ta.”
Không phải bắt để làm chết như bắt cá,
nhưng bắt để đưa vào cuộc sống mới.
Simon đã trải qua một chuỗi kinh nghiệm với Ðức Giêsu:
kinh nghiệm quen biết, kinh nghiệm bị thách đố trong niềm tin,
kinh nghiệm thấy Chúa tỏ mình mình chói lòa qua mẻ cá lạ,
kinh nghiệm được gọi và kinh nghiệm đáp trả.
Kinh nghiệm trước dẫn đến kinh nghiệm sau.
Gặp Ðức Giêsu là bước vào một cuộc đối thoại.
Chỉ cần đứt một mắt xích là tương quan đổ vỡ.
Simon cứ lớn dần lên sau mỗi bước của lòng tin.
Tin đòi vượt trên lối suy luận thông thường,
vượt trên kinh nghiệm, vượt trên mệt mỏi của xác thân.
Tin đòi tôi ra khơi buông lưới thêm một lần nữa.
Tin đòi tôi bỏ lại tất cả để theo Chúa.
Bỏ tất cả là đặt tất cả dưới Chúa
và sử dụng tất cả trong Ngài.
kinh nghiệm quen biết, kinh nghiệm bị thách đố trong niềm tin,
kinh nghiệm thấy Chúa tỏ mình mình chói lòa qua mẻ cá lạ,
kinh nghiệm được gọi và kinh nghiệm đáp trả.
Kinh nghiệm trước dẫn đến kinh nghiệm sau.
Gặp Ðức Giêsu là bước vào một cuộc đối thoại.
Chỉ cần đứt một mắt xích là tương quan đổ vỡ.
Simon cứ lớn dần lên sau mỗi bước của lòng tin.
Tin đòi vượt trên lối suy luận thông thường,
vượt trên kinh nghiệm, vượt trên mệt mỏi của xác thân.
Tin đòi tôi ra khơi buông lưới thêm một lần nữa.
Tin đòi tôi bỏ lại tất cả để theo Chúa.
Bỏ tất cả là đặt tất cả dưới Chúa
và sử dụng tất cả trong Ngài.
Hôm nay, Ðức Giêsu vẫn cần các giáo dân cộng tác.
Tôi có dám bước vào chuỗi kinh nghiệm như Simon không?
Tôi có dám bước vào chuỗi kinh nghiệm như Simon không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa,
chúng con không hiểu tại sao Chúa chọn Simon,
một người đánh cá ít học và đã lập gia đình,
để làm vị Giáo Hoàng đầu tiên của Giáo Hội.
chúng con không hiểu tại sao Chúa chọn Simon,
một người đánh cá ít học và đã lập gia đình,
để làm vị Giáo Hoàng đầu tiên của Giáo Hội.
Chúa xây dựng Giáo Hội
trên một tảng đá mong manh,
để ai nấy ngất ngây trước quyền năng của Chúa.
trên một tảng đá mong manh,
để ai nấy ngất ngây trước quyền năng của Chúa.
Hôm nay Chúa cũng gọi chúng con
theo Chúa, sống cho Chúa,
đặt Chúa lên trên mọi sự:
gia đình, sự nghiệp, người yêu.
theo Chúa, sống cho Chúa,
đặt Chúa lên trên mọi sự:
gia đình, sự nghiệp, người yêu.
Chúng con chẳng thể nào từ chối
viện cớ mình kém đức kém tài.
viện cớ mình kém đức kém tài.
Chúa đưa chúng con đi xa hơn,
đến những nơi bất ngờ,
vì Chúa cần chúng con ở đó.
đến những nơi bất ngờ,
vì Chúa cần chúng con ở đó.
Xin cho chúng con một chút liều lĩnh của Simon,
bỏ mái nhà êm ấm để lên đường,
hạnh phúc vì biết mình đang đi sau Chúa. Amen.
bỏ mái nhà êm ấm để lên đường,
hạnh phúc vì biết mình đang đi sau Chúa. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
7 Tháng Hai
Một Lý Tưởng Ðể Ðeo Ðuổi
Một buổi sáng năm 1888, Alfred
Nobel, người phát minh ra chất nổ và từ đó, hái ra tiền như nước, đã thức giấc
trong bàng hoàng sửng sốt: tất cả báo chí trong ngày đều nói đến cái chết của
Alfred Nobel, vua chất nổ. Thật ra, đây chỉ là một lầm lẫn của một ký giả nào
đó. Người anh của Alfred qua đời và ký giả đó tưởng lầm là chính Alfred. Nhưng
dù sao, đây cũng là dịp để Alfred đọc được cảm nghĩ mà người khác đang có về
ông. Trên môi miệng của mọi người, ông chỉ là ông vua của chất nổ, nghĩa là
người làm giàu trên cái chết của không biết bao nhiêu sinh mạng do chất nổ gây
ra. Người ta không hề nhắc đến những nỗ lực của ông nhằm phá vỡ những hàng rào
ngăn cách giữa các dân tộc và các ý thức hệ. Không ai nhắc đến những cố gắng
kiến tạo hòa bình của ông. Alfred Nobel buồn vô cùng về hình ảnh của một nhà
"kinh doanh trên sự chết chóc" mà thiên hạ đang có về mình.
Ông quyết định làm cho thế giới
hiểu được lẽ sống đích thực của ông. Với quyết tâm ấy, ông ngồi xuống bàn làm
việc viết ngay tức khắc chúc thư trong đó ông để lại tất cả tài sản của ông để
thiết lập một trong những giải thưởng lớn nhất thế giới: đó là giải thưởng
Nobel Hòa Bình, nhằm tưởng thưởng tất cả những ai góp phần vào việc xây dựng
Hòa Bình thế giới.
Ngày nay, biệt hiệu của Alfred
Nobel không còn là vua của chất nổ nữa, mà là Hòa Bình.
Có
một lý tưởng để đeo đuổi, có một lẽ sống cho cuộc đời: đó là niềm hạnh phúc lớn
lao nhất của con người trên trần gian. Những ngeời bất hạnh nhất phải chăng
không là những người sống mà không biết tại sao mình sống, sống để làm gì và sẽ
đi về đâu sau cái chết. Bất hạnh hơn nữa đó là những con người chỉ xây dựng
cuộc sống của mình trên những sự chết chóc của người khác. thế giới sẽ không
bao giờ quên những Tần Thủy Hoàng, những Nero, những Hitler, những Stalin, những
Ceaucescu và không biết bao nhiêu những con người ngày nay có kẻ đang thờ trong
lăng tẩm để rồi mai ngày kẻ khác lại khai quật lên.
Người
Kitô hữu là người có lý tưởng để xây dựng, có lẽ sống để đeo đuổi. Họ luôn luôn
sẵn sàng để bày tỏ cho người khác những lý lẽ của niềm tin và hy vọng của họ.
Sự bày tỏ ấy, họ không viết trong một chúc thư bằng giấy mực, mà bằng cả cuộc
sống chứng tá của họ.
Khi
nói về sự rao giảng Tin Mừng, Ðức cố Giáo Hoàng Phaolô VI đã nói như sau:
"Tin Mừng trước tiên phải được công bố bằng một chứng từ. Có chứng từ khi
một người Kitôhay một nhóm người Kitô sống giữa nhân loại, bày tỏ được khả năng
có thể cảm thông, đón tiếp, chia sẻ cuộc sống với người khác hoặc tỏ tình liên
đới với người khác trong mọi cố gắng đối với những gì là cao quí và thiện hảo.
Có chứng từ khi những người Kitô chiếu rọi một cách đơn sơ và bộc phát niềm tin
của họ vào những giá trị vượt lên trên những giá trị thông thường và bày tỏ
niềm hy vọng của họ vào một cái gì mà người ta không thấy hoặc không dám mơ
ước. Với chứng từ không lời ấy, người Kitô làm dấy lên trong tâm hồn của những
ai đang thấy họ sống, những câu hỏi mà con người không thể né tránh được. Ðó
là: Tại sao họ sống như thế? Ðiều gì hoặc ai là người thúc đẩy họ sống như thế?
Tại sao họ sống như thế giữa chúng ta?".
Ðâu
là chúc thư chúng ta muốn để lại cho hậu thế? Ðâu là lời biện minh của chúng ta
trước mặt người đời nếu không phải là một cuộc sống chứng từ cho Nước Trời.
Trích sách Lẽ Sống
SỐNG LỜI CHÚA MỖI NGÀY
NĂM THÁNH LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT
Chúa Nhật, 7 tháng 2 – Chúa Nhật V Thường
Niên
I-sai-a 6,1-2a.3-8 · Thánh Vịnh 137,1-2a.2bc-3.4-5.7c-8 · 1 Cô-rin-tô 15,1-11
Lu-ca 5,1-11
Lưới
Cá và Lưới Người
Họ
đã làm như vậy, và bắt được rất nhiều cá… họ đã đổ lên được hai thuyền đầy cá,
đến gần chìm… Thế là họ đưa thuyền vào bờ, rồi bỏ hết mọi sự mà theo Người. Lu-ca 5,6-7.11
Các con trai tôi là những
ngư dân đầy nhiệt huyết, luôn có mặt trên mặt hồ vào những lúc rãnh rỗi. Chúng
thích câu chuyện này bởi mẻ cá thần kỳ và việc Đức Giêsu gọi những người đánh
cá làm môn đệ đầu tiên.
Khi tôi kể lại đoạn Tin Mừng
này và nhấn mạnh đến việc từ bỏ mọi sự mà theo Đức Giêsu, có người đặt câu hỏi
này làm tôi phải suy nghĩ: “Số cá đầy hai thuyền đó sẽ đi đâu?” Vì thời đó chưa
có kỹ thuật đông lạnh, nên thật có lý khi hỏi làm sao để giải quyết hai chiếc
thuyền đầy cá này? Chắc người ta sẽ cần rất nhiều người, đặc biệt là phụ nữ, để
nấu hết số cá đó trước khi cúng bị hư thối. “Tôi nghĩ rằng chúng đã được đem
cho,”ai đó lên tiếng.Một người khác tiếp lời: “Có lẽ mọi người trong thị trấn
hôm đó đã có được một bữa tối tuyệt vời”.
Patricia Livingston
CẦU NGUYỆN
Lạy
Chúa Giêsu, việc chia sẻ cá có lẽ là khởi đầu của việc chia sẻ Tin Mừng tình
yêu của Chúa, một thứ tình yêu nuôi sống chúng con mãi mãi.
Quyết
tâm : Sẵn sàng chia sẻ trước nhu cầu của người khác.
gh
Phút
tâm tình
Tạ Ơn Cuối Năm
Lm. Phêrô Kiều Công Tùng
Những thời khắc cuối
cùng của Năm Ất Mùi đang trôi qua. Những thời khắc cuối cùng này luôn nhắc nhở
và dành cho mỗi cuộc đời một khoảng lặng để nhìn lại tâm hồn mình, nhìn lại cuộc
sống mình với những gì đã đi qua.
Nhìn lại vô vàn khoảnh
khắc đời mình trong khoảng lặng cuối năm, con người hẳn nhận ra Thiên Chúa luôn
hiện diện, đồng hành và nâng đỡ với trái tim chan chứa tình thương của Ngài. Và
cho dù một năm sống có trải đầy những niềm vui hay nỗi buồn, thành công hay thất
bại, lòng người vẫn mỉm cười, vẫn vững bước trong hạnh phúc và đầy tin tưởng
vì: “Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 135).
Lạy Thiên Chúa giàu lòng thương xót! Cá nhân con, gia đình con, cộng
đoàn chúng con xin dâng lên Chúa lời cảm tạ vì muôn hồng ân Ngài đã thương ban.
Xin cho chúng con luôn biết bám chặt vào lòng thương xót của Chúa giữa cuộc sống
đầy thử thách và bộn bề lo toan, để từng nhịp sống của chúng con luôn ánh lên
niềm tín thác và chiếu tỏa lòng thương xót của Chúa cho tha nhân.
(nguồn
trích: Sống Lời Chúa số 2 – Mùa Thường Niên 1 của Tgp. Sài Gòn)






Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét