Trang

Chủ Nhật, 14 tháng 2, 2016

14-02-2016 : (phần II) CHÚA NHẬT I MÙA CHAY năm C

14/02/2016
Chúa Nhật tuần 1 Mùa Chay năm C.
(phần II)


Phụng vụ Lời Chúa: Chúa Nhật I Mùa Chay - Năm C
CHÚA NHẬT I MÙA CHAY NĂM C
(Đnl 26,4-10; Rm 10,8-13; Lc 4,1-13)
CHỦ ĐỀ: NIỀM TIN VÀO THIÊN CHÚA
“Ngươi phải bái lạy Đức Chúa
là Thiên Chúa của ngươi
và phải thờ phượng
một mình Người mà thôi”

(Lc 4,8)
Mùa Chay là thời gian thuận tiện để các Kitô hữu đặt trọng tâm đời sống vào việc sám hối, thể hiện qua việc cầu nguyện, ăn chay, và bố thí. Đó là ba tập tục đạo đức truyền thống tạo nên thế “chân kiềng” vững chắc giúp tín hữu sống các chiều kích của đời sống Kitô giáo. Ba chiều kích đó được đặc biệt nhấn mạnh trong Mùa Chay Thánh này.
Các bài đọc Chúa Nhật I hôm nay đề cập tới niềm tin vào Thiên Chúa. Niềm tin này được dân Dothái cảm nghiệm cách sâu sắc trong lịch sử qua những can thiệp cụ thể của Người. Sự can thiệp quan trọng nhất của Thiên Chúa trong lịch sử nhân loại đó là ơn cứu độ mà Thiên Chúa đã hứa tự ngàn xưa. Lời hứa ấy được thực hiện qua Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa. Về phía nhân loại, ai tin vào Người sẽ được ơn cứu độ. Đức tin đóng vai trò rất quan trọng, và Mùa Chay là mùa chúng ta bước đi trong sa mạc để thanh luyện đức tin vào Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô và cũng là mùa để đức tin của chúng ta được đơm hoa kết trái trong đời sống.
I. CÁC BÀI ĐỌC
1. BÀI ĐỌC I (Đnl 26,4-10)
Bài đọc I trích sách Đệ Nhị Luật kêu gọi Dân Dothái biểu lộ lòng biết ơn Thiên Chúa qua việc dâng lên Người các sản phẩm đầu mùa; bởi vì chính Người là Đấng giải thoát họ khỏi ách nô lệ Aicập và cũng là Đấng đã ban cho họ Đất Hứa, là “đất tràn trề sữa và mật”. Ở đất Aicập, người Dothái bị áp bức và Thiên Chúa đã lắng nghe tiếng kêu van của họ: “Người Aicập đã ngược đãi, hành hạ chúng tôi và đặt ách nô lệ lên vai chúng tôi. Bấy giờ chúng tôi đã kêu lên cùng Đức Chúa, Thiên Chúa của cha ông chúng tôi; Người đã nghe tiếng chúng tôi”. Biến cố giải thoát khỏi ách nô lệ là dấu chỉ tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa dành cho dân Dothái. Thiên Chúa là Đấng trung tín, và người sẽ giải thoát những ai tin tưởng vào Người. Dân Dothái cảm nhận tình yêu thương và lòng thương xót này và nhận ra những hồng ân mà bây giờ họ đang được hưởng trong Đất Hứa. Họ đáp trả lại những hồng ân đó bằng những của lễ đầu mùa như là lòng tri ân Thiên Chúa.
2. BÀI ĐỌC II (Rm 10,8-13)
Đức tin đem lại ơn cứu độ cho tất cả mọi người: “Nếu miệng bạn tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa, và lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ được cứu độ”. Đây là điều mà thánh Phaolô nhắn nhủ các tín hữu, dù họ là Hylạp, Dothái hay một dân tộc nào khác: “Tất cả những ai kêu cầu danh Đức Chúa sẽ được cứu thoát”. Tin vào quyền năng của Thiên Chúa và sống niềm tin của mình bằng cả con người thì sẽ được đón nhận ơn cứu độ mà Thiên Chúa hứa ban. Về phía Thiên Chúa, để cứu độ con người, Thiên Chúa đã ban Con Một của Người cho nhân loại, và Người Con đó đã đến gánh lấy tội của con người bằng hiến tế trên thập giá. Về phía nhân loại, để đạt tới ơn cứu độ, con người cần phải đón nhận và tin vào Đức Giêsu Kitô.
3. BÀI TIN MỪNG (Lc 4,1-13)
Đoạn văn này thường được đặt tựa “Đức Giêsu chịu cám dỗ trong sa mạc” để đưa ra những bài học áp dụng cụ thể về ăn chay, vượt qua cám dỗ trong Mùa Chay. Đoạn văn này không quan tâm nhiều đến việc quỷ dữ có thể cám dỗ Đức Giêsu phạm loại tội nào, hay phải đương đầu với những thứ cám dỗ nào, cho bằng phác thảo ra một chân dung Đức Giêsu là Con Thiên Chúa làm người: “Người không phải là Ðấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, chỉ trừ tội lỗi” (Hr 4,15). Quả thật, Đức Giêsu đã trải qua những cung bậc của cuộc sống con người và nhất là đã sống kinh nghiệm của chính dân Israel. Tuy nhiên, trong khi dân Israel chịu thử thách trong sa mạc, họ đã sa ngã; ngược lại, Đức Giêsu cũng đã chịu thử thách trong sa mạc nhưng Người đã vượt qua vì luôn luôn tín thác vào Thiên Chúa.
Về bối cảnh, trước khi bắt đầu sứ vụ rao giảng, Đức Giêsu được Thánh Thần dẫn vào trong hoang địa 40 ngày và chịu ma quỷ cám dỗ. Con số 40 gợi nhớ đến kinh nghiệm của ông Môsê và ông Êlia đến Núi Thánh để gặp gỡ Thiên Chúa. Con số 40 cũng gợi nhớ đến biến cố dân Dothái bước đi trong sa mạc 40 năm để tiến về Đất Hứa. Trong hành trình này họ chịu nhiều thử thách để niềm tin được thanh luyện. Sau 40 ngày ăn chay, Đức Giêsu thấy đói và ma quỷ đã lợi dụng cơ hội này để cám dỗ Người trong ba khía cạnh, được diễn tả bằng ba cơn cám dỗ:
- Trong cơn cám dỗ thứ nhất, ma quỷ đã dùng chính tước hiệu “Con Thiên Chúa” để cám dỗ Người: “Nếu ông là Con Thiên Chúa thì truyền cho hòn đá này hóa bánh đi”. Ma quỷ muốn Đức Giêsu dùng chính quyền năng như là “Con Thiên Chúa” để làm những phép lạ đem lại lợi ích cho cá nhân Người. Tuy nhiên, Người đến trần gian không phải cho riêng mình, mà để thi hành thánh ý Thiên Chúa Cha và vì kế hoạch cứu độ con người: “Nhưng đừng theo ý con, mà là ý của Cha được thành sự” (Lc22,42).
- Trong cơn cám dỗ thứ hai, ma quỷ chỉ cho Đức Giêsu thấy vinh hoa thế gian và nói: “Tôi sẽ cho ông toàn quyền cai trị cùng với vinh hoa lợi lộc của các nước này, vì quyền hành ấy đã được trao cho tôi, và tôi muốn cho ai tùy ý. Vậy ông bái lạy tôi, thì tất cả sẽ thuộc về ông”. Trong lời cám dỗ này, chúng ta thấy một sự lừa lọc của ma quỷ khi tự cho rằng nó có quyền trên vũ trụ này; nhưng thực sự chỉ có một mình Thiên Chúa mới có quyền này và Đức Giêsu đến thế gian để thống trị vũ trụ bằng tình yêu và sự thật. Đức Giêsu đã khẳng định chân lý: “Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi và phải thờ phượng một mình Người mà thôi”.
- Trong cám dỗ thứ ba, ma quỷ dùng đoạn Tv 91,11-12: “bởi chưng Người truyền cho thiên sứ giữ gìn bạn trên khắp nẻo đường, và thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng cho bạn khỏi vấp chân vào đá”, để xúi giục Đức Giêsu gieo mình trên nóc Đền Thờ xuống. Đây là mưu mô cám dỗ của ma quỷ với mục đích để ép buộc Thiên Chúa thực hiện ý đồ của mình vì sự phô trương cá nhân. Nhưng Đức Giêsu trả lời: “Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi”. Với các câu trả lời của Đức Giêsu cho thấy rằng Người luôn tìm kiếm thánh ý Thiên Chúa, tin vào quyền năng của Thiên Chúa và củng cố sự hiệp nhất với Thiên Chúa.
II. GỢI Ý MỤC VỤ
1. “Bấy giờ chúng tôi đã kêu lên cùng Đức Chúa, Thiên Chúa của cha ông chúng tôi; Người đã nghe tiếng chúng tôi”. Dân Dothái đã cảm nghiệm được sự can thiệp đầy lòng thương xót của Thiên Chúa trong đời sống của họ và họ đáp trả bằng việc dâng của lễ đầu mùa lên Người như tỏ lòng biết ơn. Trong cuộc sống tôi nhận được nhiều hồng ân của Thiên Chúa, nhờ vào tình yêu và lòng thương xót của Người. Vậy, tôi đã quảng đại đáp trả lòng thương xót của Thiên Chúa chưa? Tôi đã biết sống “thương xót như Chúa Cha”?  Đâu là những hành động cụ thể mà tôi thể hiện lòng tri ân Thiên Chúa trong cuộc sống?
2. Nếu miệng bạn tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa, và lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ được cứu độ. Tôi có thực sự sống những điều mà tôi tuyên xưng niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô? Tôi có thực sự sống tín thác vào Người khi vui, lúc buồn, cũng như khi gặp nguy khó? Tôi có cảm nghiệm Đức Giêsu như là chỗ nương tựa cho đời tôi?
3. Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi và phải thờ phượng một mình Người mà thôi”. Tôi có đặt Thiên Chúa ở vị trí quan trọng và tối thượng trong cuộc sống của tôi? Hay tôi còn có nhiều vị thần khác đang chi phối cuộc sống tôi?
4. Dung mạo lòng thương xót của Chúa Cha chính là Đức Kitô Giêsu” (Misericordiae Vultus,1). Quả thật, Đức Giêsu Kitô đã mặc khải trọn vẹn lòng thương xót của Thiên Chúa bằng lời nói, hành động và bằng chính bản thân Người. Khi giữ các tập tục đạo đức hay làm việc bố thí trong Mùa Chay, tôi có noi theo gương Đức Giêsu để tìm kiếm và thi hành thánh ý Thiên Chúa hầu thể hiện lòng tương xót của Người cho nhân loại biết, hay ngược lại, tôi muốn mượn Thiên Chúa để làm nổi bật chân dung của tôi?
III. LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Anh chị em thân mến! Mùa Chay là thời gian Hội Thánh mời gọi chúng ta tích cực sám hối, canh tân đời sống và gia tăng việc lành để chuẩn bị cử hành đại lễ Phục Sinh. Với niềm tin tưởng cậy trông vào sự trợ giúp của Thiên Chúa, chúng ta cùng khiêm tốn dâng lời cầu xin:
1. Chúa Giêsu được Thánh Thần dẫn vào hoang địa và ở đó suốt bốn mươi ngày. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các thành phần trong Hội Thánh cũng được Chúa Thánh Thần hướng dẫn, tích cực sống Mùa Chay Thánh này qua việc cầu nguyện, hãm mình và thực thi bác ái.
2. “Ngươi phải thờ lạy Chúa là Thiên Chúa ngươi và chỉ phụng thờ một mình Người.” Chúng ta cùng cầu nguyện cho các nhà cầm quyền, cho hết mọi dân tộc, và những ai đang khao khát tìm kiếm chân lý, được gặp gỡ Chúa và tin nhận Người là cùng đích của cuộc đời.
3. “Người ta sống không chỉ bởi cơm bánh, mà còn bởi lời Thiên Chúa nữa.” Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi kitô hữu biết yêu mến, lắng nghe và thực hành Lời Chúa trong mọi hoàn cảnh sống; cùng hăng say loan báo Tin Mừng cứu độ cho mọi người.
4. “Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi.” Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đòan chúng ta, được thêm lòng tin - cậy - kính mến Chúa, biết phó thác trọn vẹn cuộc đời mình cho tình thương quan phòng của Người.
Chủ tế: Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, xin nhận lời chúng con tha thiết cầu nguyện; và xin ban Thánh Thần để Ngài hướng dẫn chúng con tích cực sống mùa Chay thánh này theo gương Đức Giêsu. Người hằng sống và hiển trị muôn đời. Amen.


SỢI CHỈ ĐỎ
CHÚA NHẬT I Mùa Chay
Năm C
CHỦ ĐỀ :
VÀO SA MẠC

"Suốt bốn mươi ngày,
Người được Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa
và chịu quỷ cám dỗ"
(Lc 4,2)
Sợi chỉ đỏ :
1. Bài đọc I (Đnl 26,4-10) : Thiên Chúa đã yêu thương giải thoát dân Israel khỏi kiếp nô lệ Ai cập và đưa họ vào Đất Hứa.
2. Đáp ca (Tv 90) : Bài học rút ra từ lịch sử ấy : ai nương tựa vào Thiên Chúa thì sẽ được Ngài che chở an toàn trong mọi tình huống.
3. Tin Mừng (Lc 4,1-13) : Chúa Giêsu thực hiện bài học ấy : Vì biết nương tựa vào Thiên Chúa nên Ngài đã chiến thắng các cơn cám dỗ.
4. Bài đọc II (Rm 10,8-13) : Thánh Phaolô dạy tín hữu Rôma sống bài học đó : "Mọi kẻ tin vào Ngài sẽ không thất vọng… Tất cả những ai kêu cầu danh Đức Chúa sẽ được cứu thoát".
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Ai trong chúng ta cũng đều gặp những lúc gian nan khổ sở. Những lúc ấy chúng ta bị cám dỗ bỏ Chúa để tìm những nơi nương tựa khác. Ngày xưa dân Israel và chính Chúa Giêsu cũng bị cám dỗ như vậy. Nhưng Israel thì đã sa ngã, còn Chúa Giêsu thì chiến thắng cám dỗ. Tại sao ?
Lời Chúa hôm nay sẽ cho chúng ta lời giải đáp.
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy cầu xin Chúa giúp chúng ta đừng noi gương dân Israel xưa, nhưng biết noi gương Chúa Giêsu.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
- Chúng ta cứ sa đi ngã lại mãi trong tội. Phải chăng vì chúng ta chưa thực lòng sám hối ?
- Chúng ta có biết rằng phạm tội là để mình bị trói buộc trong xiềng xích của Satan không ?
- Chúng ta có ý thức rằng phạm tội là phụ bạc với tình yêu của Chúa Giêsu, Đấng đã chịu chết vì tội chúng ta không ?
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I : Đnl 26,4-10
Môsê dạy cho dân do thái biết phải có tâm tình gì khi họ dâng của đầu mùa lên Thiên Chúa : đó là tâm tình biết ơn.
Nhìn lại lịch sử, ban đầu tổ tiên họ chỉ là những kẻ phiêu bạt tứ cố vô thân sống nhờ đất Ai cập, làm nô lệ rất khổ sở cho dân Ai cập ; Chúa đã thương giải thoát họ khỏi kiếp nô lệ ấy và đưa họ vào Đất hứa, một mảnh đất chảy sữa và mật, nhờ đó mà họ mới có cuộc sống sung túc. Vì thế, hàng năm họ phải biết ơn Ngài và lấy một phần hoa lợi của mình dâng lên Ngài.
2. Đáp ca : Tv 90
Đây là bài ca biểu lộ lòng cậy trông phó thác vào Thiên Chúa : Những ai biết nương tựa Đấng Tối Cao thì sẽ được Ngài che chở an toàn trong mọi tình huống.
3. Tin Mừng : Lc 4,1-13
Thánh Luca trình bày Chúa Giêsu như dân Israel mới. Vì thế, muốn hiểu hết ý đoạn Tin Mừng này, chúng ta phải nhớ lại giai đoạn Israel ở trong sa mạc (và như thế, đoạn Tin Mừng được coi như nối tiếp bài đọc I) : sau khi dân Israel được Thiên Chúa cứu khỏi kiếp nô lệ Ai cập, họ đã đi trong sa mạc trong một thời gian dài và đã gặp nhiều cám dỗ : a/ cám dỗ trở lại Ai cập để có bánh ăn ; b/ cám dỗ thờ tượng con bê vàng ; c/ cám dỗ thử thách Thiên Chúa. Vì không nhớ tình thương của Chúa (như Bài đọc I khuyên) và không biết phó thác nơi Thiên Chúa, họ đã sa ngã trong tất cả các cám dỗ ấy.
Chúa Giêsu chính là Israel mới : Ngài cũng sống trong sa mạc một thời gian dài (40 ngày), cũng bị những loại cám dỗ như dân Israel ngày xưa, nhưng Ngài đã chiến thắng tất cả. Đó là nhờ Ngài luôn tin tưởng phó thác vào Thiên Chúa.
4. Bài đọc II : Rm 10,8-13
Thánh Phaolô lặp lại điều mà Tv 90 (Đáp ca) tuyên xưng : "Mọi kẻ tin vào Ngài sẽ không thất vọng… Tất cả những ai kêu cầu danh Đức Chúa sẽ được cứu thoát".
IV. GỢI Ý GIẢNG
1. Định hướng Mùa Chay
Thời trước người ta sống Mùa Chay rất nhiệm nhặt : ăn chay kiêng thịt tất cả mọi ngày Thứ Sáu, hy sinh hãm mình rất nhiều trong suốt "mùa chay cả", từ bỏ tất cả mọi cuộc vui chơi v.v. Thời nay, hầu hết những điều trên đã được huỷ bỏ hoặc giảm nhẹ tới mức tối thiểu. Phải chăng Giáo Hội đang suy đồi ?
Thực ra, căn bản vấn đề là ý thức. Nếu không ý thức ý nghĩa sâu xa thì cho dù tuân thủ rất nhiều hình thức nhiệm nhặt bên ngoài thì cũng vô ích. Các bài đọc hôm nay giúp chúng ta ý thức về ý nghĩa sâu sắc của cuộc sống người tín hữu :
- Ý thức rằng tất cả mọi sự chúng ta đang hưởng đều là do Chúa ban, như lời Môsê nói với dân Israel trong bài đọc I "Người đã đưa chúng tôi vào đây, ban cho chúng tôi đất này, đất tràn trề sữa và mật. Và giờ đây, Lạy Chúa, này con xin dâng sản phẩm đầu mùa của đất đai mà Ngài đã ban cho con".
- Ý thức về sự che chở hữu hiệu của Thiên Chúa đối với những ai biết tin tưởng nương tựa vào Ngài (Đáp ca : "Kẻ gắn bó cùng Ta sẽ được ơn giải thoát, người nhận biết danh Ta sẽ được phù trì")
- Ý thức rằng điều quan trọng nhất trong đời không phải là cơm bánh mà là Lời Chúa (Bài Tin Mừng)
Nếu chúng ta thực sự ý thức những điều trên thì chúng ta sẽ không ngại thực hiện những việc ăn chay, kiêng thịt, hy sinh hãm mình, cầu nguyện và chiến đấu với các cám dỗ.
2. Những cám dỗ trong đời
Chuyện dân Israel bị cám dỗ 40 năm và chuyện Chúa Giêsu chịu cám dỗ 40 ngày xem ra chỉ là chuyện đời xưa, chẳng liên can gì đến chúng ta ngày nay. Thực ra ngày nay chúng ta cũng gặp những cám dỗ ấy, nhưng dưới những hình thức khác thôi :
- Phải chăng chúng ta cũng bận tâm quá đáng đến việc ăn uống, sinh nhai ?
- Phải chăng chúng ta rất ham vinh hoa địa vị ở đời ?
- Phải chăng chúng ta không nỗ lực với hết khả năng mình mà cứ đòi Thiên Chúa làm phép lạ giúp mình ?
3. Vào sa mạc
Vào sa mạc là việc cần thiết đầu tiên phải làm trong Mùa Chay. Bởi đó bài Tin Mừng Chúa Nhựt I Mùa Chay năm nào cũng nói về việc Chúa Giêsu vào sa mạc (Năm A : Mc ; B : Mt ; C : Lc).
a/ Ý nghĩa của sa mạc
- Sa mạc là nơi a/ hoang vắng ; b/ tĩnh lặng
- Hoang vắng và tĩnh lặng thì buồn và chán. Tuy nhiên hoang vắng và tĩnh lặng lại sinh ra nhiều hiệu quả tốt :
- Cảm nghiệm của những người đã từng ở sa mạc : thấy vũ trụ bao la và đẹp tuyệt vời (nhất là những lúc mặt trời mọc và lặn) ; thấy được quyền năng Thiên Chúa ; thấy được con người thực của mình ; cũng cảm được tình đồng loại tha thiết (rất hiếu khách khi thỉnh thoảng tình cờ gặp được một người giữa sa mạc)
- Bởi thế Thiên Chúa thích đưa người ta vào sa mạc : Bài đọc I : Thiên Chúa để cho dân do thái ở sa mạc 40 năm sa mạc để họ cảm nghiệm tình thương của Ngài, đồng thời để thử thách xem họ có trung thành với tình thương ấy hay không ; Bài Tin Mừng : Chúa Giêsu vào sa mạc 40 ngày để cầu nguyện và cũng chịu thử thách.
b/ Trong Mùa Chay chúng ta cũng vào sa mạc. Nhưng vào sa mạc để làm gì ?
- Mùa chay, một thời gian cầu nguyện : Theo bố cục của Tin Mừng Lc, trước khi đi rao giảng, Chúa Giêsu đã vào ở trong sa mạc và lưu lại đó 40 đêm ngày. Để làm chi ? Không phải chỉ để ăn chay, mà còn làm một việc quan trọng hơn nhiều, đó là cầu nguyện xem Ngài sẽ thi hành sứ mạng Messia như thế nào.
Ngày nay chúng ta cũng có 40 ngày Mùa Chay, để noi gương Chúa Giêsu mà cầu nguyện.
Thực ra chúng ta phải cầu nguyện luôn. Nhưng thỉnh thoảng cần có một thời gian để cầu nguyện chuyên cần và sốt sắng hơn. Đó chính là thời gian này.
- Mùa Chay, một thời gian chiến đấu : Chúa Giêsu sống trong sa mạc 40 ngày chiến đấu với những cơn cám dỗ của Satan.
Thực ra ma quỷ luôn cám dỗ chúng ta (1 Pr 5,8 : "Ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mối để cắn xé"). Bình thường chúng ta không để ý cho nên dễ bị sa cám dỗ. Trong Mùa Chay, chúng ta hãy noi gương Chúa Giêsu, tích cực chiến đấu với những khuynh hướng xấu, những thói quen tội lỗi và những cám dỗ.
4. Cú nhẩy ngoạn mục
Vua nước Thục có tính tham lam. Vua Huệ Vương nước Tần muốn xâm chiếm nước Thục nhưng vì khe núi hiểm trở, không thể đem quân sang đánh. Huệ Vương sai lấy đá tạc hình con trâu để gần địa giới nước Thục, mỗi ngày bỏ vàng sau đuôi con trâu và phao tin đồn rằng : "Trâu đãi ra vàng".
Tiếng đồn ấy đến tai vua Thục. Ông liền sai xẻ núi lấp khe và cho năm người lực sĩ vào rừng kéo con trâu về.
Huệ Vương sẵn lối đi, đem quân tiến đến cướp được nước Thục. Vua Thục vừa mất nước, vừa hại cả mình, để lại trò cười cho thiên hạ. Thế chẳng phải là tham chút lợi nhỏ mà để thiệt mất cái lợi to ư ?
*
Vua Thục vì tham vàng mà mất nước, và số vàng kia cũng lọt vào tay quân thù. Thiên hạ cười chê ông dại khờ. Nhưng thật ra thì ai cũng đã hơn một lần khờ dại như ông. Ai cũng đã không ít lần bị cám dỗ giống ông, nếu không phải là vàng thì cũng là của cải, sắc dục, danh vọng, quyền uy.
Bị cám dỗ là thân phận của con người. Chúa Giêsu đã từng bị cám dỗ, vì Người muốn chia sẻ trọn vẹn kiếp người, Người muốn nên đồng số phận với con người, và Người đã thắng cơn cám dỗ để nêu gương cho con người.
Cám dỗ thứ nhất là cám dỗ về cái đói. Cơn cám dỗ về Manna (Xh 16) mà dân Chúa đã bị thử thách trong hoang địa : Đó cũng là thử thách từng ngày của mỗi người chúng ta. Nếu chúng ta chỉ tìm thoả mãn những khao khát của thể xác, những nỗi thèm thuồng vật chất đang cào cấu trong ta, thì chúng ta đã thất bại ngay trong cơn cám dỗ đầu tiên. "Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh" (Lc 4,4). Vâng, con người còn có những giá trị cao quí khác cần phát huy, đừng hạ thấp mình xuống mức độ sơ đẳng nhất của : cơm, áo, gạo, tiền.
Cám dỗ thứ hai là cám dỗ về quyền hành thế gian. Cám dỗ thờ ngẫu tượng, bò vàng (Xh 32,42) của dân Ítraen nơi hoang địa. Không chỉ hôm nay mà rất nhiều lần trong cuộc đời, Đức Gìêsu đã bị cám dỗ này tấn công. Dân chúng luôn kéo Người vào cơn cám dỗ trở nên một Đấng Cứu Thế mang tính chính trị, một vị vua trần gian đầy quyền lực vinh quang. Nhưng Người đã nhất mực khước từ. Người muốn trở nên "tôi tớ" của Thiên Chúa (Ga 13,1-20). Cơn cám dỗ về quyền hành cũng là cơn cám dỗ của tất cả mọi người. Ai trong chúng ta cũng muốn thống trị kẻ khác, muốn áp đặt ý kiến của mình trên anh em.
Đây cũng là cơn cám dỗ về sự nghi ngờ Thiên Chúa. Vì Người thường hay vắng mặt, nên chúng ta dễ chạy theo những vị thần giả hiệu, chúng có tên là của cải, sắc đẹp, kiến thức, tài năng... Chúa Giêsu nhắc cho chúng ta lời Kinh Thánh : "Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người" (Lc 4,8).
Cám dỗ thứ ba là cám dỗ đòi kiểm chứng, đòi xem những dấu lạ điềm thiêng (Xh 17), đòi thấy những cú nhảy đẹp mắt, những pha ngoạn mục : Đó là cơn cám dỗ trên nóc đền thờ Giêrusalem. Cũng chính nơi đây, Chúa Giêsu sẽ chịu một cơn thử thách hết sức nặng nề : đó là cơn cám dỗ muốn thoát cái chết. "Nếu có thể được xin tha cho con khỏi uống chén này" (Lc 22,42). Dường như Chúa Cha "đã bỏ rơi" Người. Cuối cùng thì Chúa Giêsu đã không dùng quyền năng của mình để trốn tránh thân phận con người phải chết. Người đã từ chối nhảy một cú đẹp mắt, cũng không xuống khỏi thập giá một cách ngoạn mục. Người tin tưởng vào tình yêu của Cha, Người tuyệt đối trung thành và trọn vẹn vâng theo ý Cha.
Chúa Giêsu đã chiến đấu với các cơn cám dỗ và Người đã hoàn toàn chiến thắng, để nêu gương cho chúng ta trong những cơn thử thách. Cám dỗ nào cũng ngọt ngào hấp dẫn, thử thách nào cũng đòi phải chọn lựa. Điều quan trọng là chúng ta có nhận ra cái đắng đót chua cay trong cái vỏ ngọt ngào hấp dẫn đó không ! Chúng ta có dám chọn theo Chúa hơn là theo ma quỉ ? Chọn yêu anh em hơn là yêu chính mình ? Chọn điều thiện hơn là cái ác ?
*
Lạy Chúa, chúng con sẽ trưởng thành hơn sau mỗi lần chiến thắng, sẽ kinh nghiệm nhiều hơn sau mỗi cơn thử thách. Nhưng xin Chúa đừng để chúng con thất vọng sau mỗi lần vấp ngã, đừng bao giờ để chúng con bỏ cuộc sau những lần thất bại.
Xin cho chúng con luôn tin tưởng chỗi dậy tiếp tục chiến đấu cho dù phải hy minh mạng sống, vì chính Chúa Giêsu đã sẵn lòng chịu chết để trung tín với Chúa Cha.
Xin ban thêm sức mạnh để chúng con chiến thắng các cơn cám dỗ nhờ ăn chay và cầu nguyện. Amen. (TP)
5. Cám dỗ của Chúa Giêsu và của chúng ta
Một cuốn phim đã gây xôn xao dư luận một thời, nhất là vào năm 1989, đó là phim "Cơn cám dỗ cuối cùng của Chúa" (The last temptation of Christ, phỏng theo quyển tiểu thuyết cùng tên, của nhà văn Hy lạp Nikos Kazantzakis). Cuốn phim (và quyển tiểu thuyết) mô tả lúc Chúa Giêsu bị đóng đinh trên thánh giá. Ngài đã ngất đi và thấy mình rời khỏi thánh giá, rời bỏ sứ mạng cứu thế để sống một cuộc sống bình thường. Ngài đi tìm lại nàng Mađalêna, cưới nàng làm vợ. Sau đó lại tìm đến với hai chị em Matta và Maria ở làng Bêtania và cũng cưới luôn hai chị em này làm vợ. Ngài có rất nhiều con và sống rất hạnh phúc…
Báo chí và các đài phát thanh đưa tin rằng khi cuốn phim được trình bày chiếu lần đấu, những người có đạo đã đập phá rạp chiếu bóng tan tành, đến nỗi lần chiếu sau phải chiếu ở một rạp đặc biệt cô lập bởi chung quanh toàn là nước để khỏi bị đập phá lần nữa. Nếu tác giả mà viết như thế về Hồi giáo thì chắc chắn ông cũng sẽ bị mang cùng một số phận với Salman Ruside, người đã bị giáo chủ Hồi giáo Khômêni kêu gọi tất cả mọi tín đồ Hồi giáo trên khắp thế giới hễ gặp mặt tác giả là có bổn phận phải giết ngay, lý do là Salman Rusdie đã viết một quyển sách có những điều bị cho là xúc phạm đến Hồi giáo, quyển sách mang tựa đề "Những vần thơ ác quỷ" (the satanic verses).
Thực ra, nếu chúng ta được đọc quyển "Cám dỗ cuối cùng của Chúa" của Nikos Kazantzakis, thì chúng ta sẽ thấy chẳng có gì xúc phạm cả. Tuy tác giả có nói Chúa Giêsu rời thập giá và cưới 3 người vợ, có nhiều con, nhưng đó chỉ là một cơn cám dỗ của Chúa thôi. Cuối cùng Chúa đã lắc đầu không theo cám dỗ đó. Ngài tỉnh dậy vẫn thấy mình đang bị treo trên thánh giá, và Ngài hô lên một tiếng kêu chiến thắng "Thế là đã hoàn tất", rồi Ngài tắt thở. Trong đoạn mở đầu, Nikos Kazantzakis cũng nói rõ quan điểm của ông khi viết quyển truyện này : Ông tin Chúa Giêsu vừa là Chúa vừa là người, và ông muốn nhìn Ngài dưới khía cạnh người. Ông muốn tưởng tượng những cám dỗ và những chiến đấu vô cùng ác liệt mà con người Giêsu đã phải đương đầu, và đã anh dũng chiến thắng như thế nào, để càng thấy rõ Chúa Giêsu là mẫu mực cho con người chúng ta hơn, để càng cảm phục Ngài hơn, và để con người chúng ta can đảm hơn trong khi chiến đấu với những cơn cám dỗ của chúng ta. Ông đã tâm sự rằng "Trong khi viết… tôi đã cảm động đến phát khóc. Tôi chưa bao giờ cảm thấy máu của Chúa rơi từng giọt vào tim tôi với sự ngọt ngào như vậy, với nỗi đớn đau như vậy".
Chúa Giêsu cũng là người như chúng ta. Mà hễ là người thì phải có tự do. Mà tự do nghĩa là có quyền lựa chọn. Mà đã nói lựa chọn thì tức là có thể chọn đúng và có thể chọn sai. Chính ở kẻ hở này mà cám dỗ len vào, nó xúi giục ta bỏ cái tốt để chọn cái xấu. Ai mà chọn cái xấu tức là sa ngã đầu hàng cám dỗ, còn ai vẫn cương quyết chọn cái tốt tức là kẻ chiến thắng, khi đó cám dỗ chẳng những không làm hại gì được người đó mà càng làm cho người đó thêm công nghiệp.
Chúa chịu cám dỗ vì chúng ta : Trước hết, Ngài chịu cám dỗ để nhắc chúng ta nhớ rằng chung quanh chúng ta và chính trong bản thân chúng ta luôn đầy dẫy cám dỗ, vì thế chúng ta cần phải đề cao cảnh giác ; Thứ hai, Chúa chịu cám dỗ và đã chiến thắng cám dỗ để làm gương cho chúng ta noi theo khi chúng ta phải đương đầu với những cám dỗ của chúng ta : Cũng như Chúa Giêsu, chúng ta chỉ có thể thắng được cám dỗ nếu chúng ta không cậy dựa vào sự khôn ngoan của chúng ta, mà biết cậy dựa vào sự khôn ngoan của Lời Chúa ; chúng ta chỉ thắng cám dỗ nếu chúng ta không chìu theo ý muốn riêng của mình mà luôn tìm làm theo ý muốn của Thiên Chúa.
6. Biết mình
Một Rabbi nổi tiếng kia muốn tìm hiểu tâm tư con người nên làm một thí nghiệm như sau. Ông gọi ba người tình cờ đi ngang qua và đặt cho họ một câu hỏi : "Giả như bạn lượm được một túi đầy vàng thì bạn sẽ làm sao ?"
Người thứ nhất đáp : "Tôi sẽ trả lại cho người đánh rơi nó". Vị Rabbi nhận định : "Đồ ngốc !"
Người thứ hai đáp : "Tôi sẽ giữ lấy mà xài. Dại gì mà không xài của quý từ trời rơi xuống như thế". Rabbi kết : "Đồ khùng !".
Người thứ ba : "Tôi cũng chẳng biết tôi sẽ làm sao nữa, bởi vì nếu khi đó tôi không chống lại nổi cám dỗ của ma quỷ trong tôi thì sao ? Tuy nhiên nếu khi đó có ơn Chúa khuyến khích thì tôi sẽ trả lại túi vàng cho người đánh mất". Rabbi khen : "Tuyệt lắm. Bạn mới thật là người khôn ngoan".
Tại sao vị Rabbi nói người thứ nhất là ngốc ? Vì người này hoàn toàn không biết chính mình khi tưởng rằng mình đủ vững mạnh chiến thắng cám dỗ tham tiền. Chẳng ai đủ mạnh để không bị sa ngã bao giờ. Người ta không sa ngã vì người ta yếu đâu, mà sa ngã vì mình yếu mà tưởng mình mạnh.
Tại sao vị Rabbi nói người thứ hai là khùng ? Vì người này chẳng cần biết đến lương tâm gì cả, vừa thấy tiền là không chút áy náy tính chiếm đoạt luôn. Đối với hạng người như thế, cám dỗ không phải là một mối nguy mà là một cơ hội để tìm tư lợi trên chính sự thiệt thòi của người khác.
Và tại sao vị Rabbi khen người thứ ba là khôn ngoan thật ? Vì người này biết mình. Anh biết mình cũng yếu đuối như mọi người khác. Anh hy vọng mình sẽ chiến thắng cám dỗ tham lam. Nhưng anh ý thức rằng điều này sẽ rất khó nếu không được ơn Chúa giúp. (FM)
7. Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh
Chắc nhiều người trong chúng ta, nhất là các người trẻ, biết tên Chàng Ca Sĩ nổi tiếng thế giới Elvis Presley.
Chàng rất giàu : một mình có 8 chiếc xe hơi, 6 xe gắn máy, 2 máy bay, 16 máy truyền hình, một ngôi biệt thự rất rộng và nhiều tài khoản ngân hàng. Trên tất cả những thứ đó, chàng còn có, còn có biết bao đạo quân những người hâm mô coi chàng là thần tượng.
Thế nhưng Elvis Presley không cảm thấy hạnh phúc. Có lần chàng thú nhận : "Càng nhiều tiền thì càng nhức đầu". Mẹ chàng thì không mong gì hơn là con trai mình có giờ về thăm gia đình. Nhưng mong ước đơn giản như thế mà cũng không được.
Elvis Presley là một bằng chứng cho lời Chúa Giêsu nói : "Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh".
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế : Anh chị em thân mến, vì yêu thương, Thiên Chúa đã ban cho chúng ta mùa chay thánh này để thanh tẩy tâm hồn mà đón mừng đại lễ Vượt qua. Tin tưởng vào ơn trợ giúp của Chúa, chúng ta cùng khiêm tốn nguyện xin :
1. Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các vị mục tử / biết dùng mọi phương thế thích hợp / để giúp người tín hữu học hỏi và sống lời Chúa.
2. Tranh giành quyền lực gây ra biết bao thảm họa cho con người / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi người / biết lấy tinh thần bao dung mà đối xử với nhau.
3. Ai đặt niềm tin vào Thiên Chúa sẽ không phải thất vọng / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các Kitô hữu / biết luôn tin tưởng vào tình thương / quyền năng / và sự quan phòng kỳ diệu của Chúa.
4. Mùa Chay thánh nhắc nhở chúng ta hãm mình ép xác / để thông phần vào cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết cố gắng sống trọn vẹn tinh thần khắc khổ của mùa Chay.
Chủ tế : Lạy Chúa, mùa Chay là thời gian thuận tiện để chúng con đổi mới đời sống. Xin Chúa cho chúng con là những kẻ tội lỗi, biết thành tâm sám hối vì những lỗi lầm đã phạm, đồng thời tích cực làm nhiều việc lành phúc đức để xứng đáng lãnh nhận ơn tha thứ của Chúa. Chúng con cầu xin
Lm. Carolo HỒ BẶC XÁI

Lectio Divina: Chúa Nhật I Mùa Chay (C)
Chúa Nhật, 14 Tháng 2, 2016
Chúa Giêsu chịu cám dỗ
Chiến thắng bằng cầu nguyện và Kinh Thánh
Lc 4:1-13


1.  Bài Đọc

a)  Lời nguyện mở đầu:  

Lạy Chúa, vào lúc bắt đầu mùa Chay này, một lần nữa Chúa mời gọi con suy niệm về câu chuyện Chúa chịu cám dỗ, để con có thể khám phá ra tâm điểm của cuộc chiến đấu tâm hồn, và hơn hết, để con có được kinh nghiệm về việc chiến thắng tội lỗi.
Lạy Chúa Thánh Thần, “xin hãy đến viếng thăm tâm trí chúng con” bởi vì thường xuyên nhiều tư tưởng đã sinh sôi nảy nở trong tâm trí chúng con và chúng làm cho chúng con cảm thấy mình có khả năng làm huyên náo với nhiều âm thanh.  Nguyện xin ngọn lửa tình yêu cũng thanh tẩy các giác quan và tâm hồn chúng con để chúng có thể trở nên ngoan ngoãn và sẵn sàng cho tiếng nói của Lời Chúa.  Xin hãy soi sáng chúng con (accende lumen sensibus, infunde amorem cordibus – xin hãy thắp sáng các giác quan, xin hãy đổ đầy tình yêu vào trong tâm hồn chúng con) để cho các giác quan chúng con được thanh tẩy bởi Chúa, xin hãy cho chúng sẵn sàng đối thoại cùng Chúa.  Nếu ngọn lửa tình yêu Chúa rực cháy trong lòng chúng con, trên sự khô cằn của chúng con, nó có thể làm tràn ngập với sự sống đích thật, là sự viên mãn của niềm hân hoan.

b)  Phúc Âm
1 Đức Giêsu được đầy Thánh Thần, từ sông Giođan trở về. 2 Suốt bốn mươi ngày, Người được Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa và chịu quỷ cám dỗ. Trong những ngày ấy, Người không ăn gì cả, và khi hết thời gian đó, thì Người thấy đói. 3 Bấy giờ, quỷ nói với Người: "Nếu ông là Con Thiên Chúa thì truyền cho hòn đá này hoá bánh đi! " 4 Nhưng Đức Giêsu đáp lại: "Đã có lời chép rằng: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh." 5 Sau đó, quỷ đem Đức Giêsu lên cao, và trong giây lát, chỉ cho Người thấy tất cả các nước thiên hạ. 6 Rồi nó nói với Người: "Tôi sẽ cho ông toàn quyền cai trị cùng với vinh hoa lợi lộc của các nước này, vì quyền hành ấy đã được trao cho tôi, và tôi muốn cho ai tuỳ ý. 7 Vậy nếu ông bái lạy tôi, thì tất cả sẽ thuộc về ông." 8 Đức Giêsu đáp lại: "Đã có lời chép rằng: Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi." 9 Quỷ lại đem Đức Giêsu đến Giêrusalem và đặt Người trên nóc Đền Thờ, rồi nói với Người: "Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì đứng đây mà gieo mình xuống đi! 10 Vì đã có lời chép rằng: Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ gìn giữ bạn. 11 Lại còn chép rằng: Thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá." 12 Bấy giờ Đức Giêsu đáp lại: "Đã có lời rằng: Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi." 13 Sau khi đã xoay hết cách để cám dỗ Người, quỷ bỏ đi, chờ đợi thời cơ. 
c)  Giây phút thinh lặng cầu nguyện:

Để lắng nghe trong im lặng thì cần thiết cho linh hồn, cho thần trí, cho tri giác và cũng như sự im lặng bên ngoài, với việc chăm chú lắng nghe những gì Lời Chúa có ý muốn thông tri.

2.  Suy Gẫm

a)  Ý chính của bài đọc:

Với sự tinh tế của người kể chuyện, Luca đề cập trong đoạn 4:1-44 một số khía cạnh thừa tác vụ của Chúa Giêsu sau khi Người chịu phép rửa, trong số đó có những cám dỗ của ma quỷ.  Trong thực tế, ông nói rằng Đức Giêsu “Được tràn đầy Chúa Thánh Thần, rời bỏ vùng sông Giođan và được Thánh Thần đưa vào hoang địa ở đó suốt bốn mươi ngày” (Lc 4:1-2).  Phân cảnh này của cuộc đời Đức Giêsu là phần mở đầu thừa tác vụ của Người, nhưng nó cũng có thể được hiểu như là thời điểm chuyển tiếp từ sứ vụ của Gioan Tẩy Giả sang sứ vụ của Đức Giêsu. Trong Tin Mừng Máccô, việc thuật lại về những cám dỗ thì khái lược hơn.  Tin Mừng Mátthêu nói rằng Đức Giêsu “được Thần Khí dẫn vào hoang địa, để chịu quỷ cám dỗ” (Mt 4:1), những chữ cuối này bổ túc cho kinh nghiệm của những cám dỗ để tạo ảnh hưởng cùng lúc thuộc thiên đàng và thuộc ma quỷ.  Câu chuyện kể của Luca sửa đổi văn bản của Mátthêu theo cách để cho thấy rằng Đức Giêsu “được tràn đầy Chúa Thánh Thần”, tự mình rời bỏ vùng sông Giođan và được Thánh Thần đưa vào hoang địa bốn mươi ngày, ở đó “Người bị ma quỷ cám dỗ” (4:2).  Ý nghĩa mà Luca muốn đưa ra là những sự cám dỗ của Chúa Giêsu là những điều mà ma quỷ khởi xướng chứ không do Chúa Thánh Thần sắp xếp (S. Brown).  Như thể Luca muốn làm tỏ rõ sự khác biệt giữa bản thân ma quỷ với bản thân Chúa Thánh Thần.

Một yếu tố khác đáng được lưu ý là thứ tự những cám dỗ mà Luca sắp xếp là: hoang địa – phong cảnh các nước trong thiên hạ – góc tường cao nhất của đền thờ Giêrusalem.  Trong Tin Mừng Mátthêu, thay vào đó, thứ tự lại khác: hoang địa – góc tường cao nhất – núi cao.  Những nhà chú giải Kinh Thánh thảo luận về việc sắp xếp ban đầu, nhưng họ đã không thành công trong việc tìm ra một câu trả lời đồng thuận.  Sự khác biệt có thể được giải thích bắt đầu với sự cám dỗ lần thứ ba (điểm tột đỉnh):  đối với Mátthêu, “ngọn núi” là đỉnh cao của sự cám dỗ bởi vì trong sách Tin Mừng của ông, ông đặt tất cả mọi quan tâm của mình vào chủ đề núi (chúng ta chỉ cần phải nhớ Bài Giảng Trên Núi, bài giảng dạy của Chúa Giêsu như là “Môisen mới”); thay vào đó, đối với Luca, cuộc cám dỗ cuối cùng xảy ra trên nóc đền thờ Giêrusalem bởi vì một trong những quan tâm lớn nhất của Tin Mừng của ông là thành phố Giêrusalem (Đức Giêsu trong câu chuyện kể của Luca thì đang trên đường hướng về Giêrusalem, nơi ơn cứu độ nhất định được hoàn thành) (Fitzmyer).         

Người đọc một cách chính đáng có thể tự hỏi mình câu hỏi:  Trong Tin Mừng Luca, cũng giống như trong Tin Mừng Mátthêu, có thể có những nhân chứng cho những cám dỗ của Chúa Giêsu hay không?  Câu trả lời chắc chắn là không.  Từ câu chuyện kể của Luca, có vẻ rõ ràng rằng Chúa Giêsu và ma quỷ đã mặt đối mặt với nhau, không một ai khác.  Những câu trả lời của Chúa Giêsu nói với ma quỷ được trích ra từ Kinh Thánh, chúng là những lời trích dẫn từ Cựu Ước.  Đức Giêsu phải đối mặt với những cám dỗ, và đặc biệt là về việc thờ phượng mà ma quỷ toan tính từ chính Chúa Giêsu, trông cậy vào Lời Chúa như là bánh hằng sống, như là sự bảo vệ từ Thiên Chúa.  Lòng trông cậy vào Lời Chúa nói trong Sách Đệ Nhị Luật, được các nhà chú giải Kinh Thánh xem như là bài suy gẫm sâu xa về Lề Luật Môisen, cho thấy ý định của thánh sử Luca là nhắc lại bài học cuộc đời của Chúa Giêsu với chương trình của Thiên Chúa muốn cứu rỗi nhân loại.

Những sự cám dỗ này có xảy ra trong lịch sử không?  Tại sao có một số người, trong số các tín hữu và người ngoại đạo, cho rằng những sự cám dỗ như thế chỉ là sản phẩm tưởng tượng của Chúa Giêsu, một câu chuyện sáng tác?  Những câu hỏi như vậy rất là quan trọng trong một bối cảnh như của chúng ta đi tìm kiếm dấu vết các câu chuyện trong Tin Mừng, từ nội dung lịch sử đến đức tin của nó.  Một cách chắc chắn, không thể đưa ra một lời giải thích văn chương và ngây thơ, cũng không thể nghĩ rằng những chuyện này có lẽ đã xảy ra trong một cách khác thường.  Lời diễn giải của Dupont dường như cho chúng ta một câu trả lời có thể đủ để chấp nhận được:  “Đức Giêsu nói về kinh nghiệm mà Người đã trải qua, nhưng được diễn giải sang một ngôn ngữ tượng trưng, được thích nghi để đánh động tâm trí của người nghe” (Les tentationes, 128).  Hơn là một sự thật bề ngoài, sự cám dỗ được coi như là kinh nghiệm cụ thể trong cuộc sống của Đức Giêsu. Đối với tôi, dường như đây là lý do chính đã hướng dẫn Luca và các thánh sử khác trong việc chuyển tải những cảnh đó.  Quan điểm của những người cho rằng sự cám dỗ của Chúa Giêsu là hư cấu hoặc được sáng tác là thiếu căn bản; cũng chẳng có thể nào đồng ý với ý kiến của Dupont, khi ông nói rằng đây chỉ là “cuộc đối thoại thuần túy tâm linh giữa Chúa Giêsu và ma quỷ” (Dupont, 125).  Nhìn vào Tân Ước (Ga 6:26-34; 7:1-4; Dt 4:15; 5:2; 2:17a), rõ ràng là những cám dỗ là một sự thật hiển nhiên trong đời sống của Chúa Giêsu.  Lời giải thích của R. E Brown thì thật là thú vị và có thể được chia sẻ như sau:  “Mátthêu và Luca sẽ trở thành bất công đối với tính chất xác thực lịch sử bằng cách bi kịch hóa cảnh cám dỗ, và bằng cách che dấu sự cám dỗ thực sự bằng cách đặt để lời gây hấn này trên môi miệng Người” (Tin Mừng theo thánh Gioan, 308).  Trong sự tổng hợp, chúng ta có thể nói rằng lịch sử của những cám dỗ của Chúa Giêsu hoặc nguồn gốc trong những kinh nghiệm này của Chúa Giêsu đã được mô tả với một “ngôn ngữ bóng bảy” (Dupont) hay là “được bi thảm hóa” (R.E. Brown).  Thật là cần thiết để phân biệt nội dung (cuộc cám dỗ trong kinh nghiệm của Chúa Giêsu) từ cái vỏ chứa của nó (ngôn ngữ bóng bảy hay được bi thảm hóa).  Chắc chắn rằng hai lời giải thích này còn chính xác hơn những lời giải thích chúng theo một cảm quan văn học khéo léo.

Ngoài ra, Luca với những cảnh này, có ý định nhắc nhở chúng ta rằng những cám dỗ được gửi đến với Chúa Giêsu qua một yếu tố bên ngoài.  Chúng không phải là kết quả của một cuộc khủng hoảng tâm lý hay là bởi vì Người có một xung đột cá nhân với một ai đó.  Nói đúng hơn, sự cám dỗ dẫn đưa trở lại “những cám dỗ” mà Chúa Giêsu có kinh nghiệm trong thừa tác vụ của Người:  sự thù địch, chống đối, chối bỏ.  Những “cám dỗ” như thế thì có thật và cụ thể trong cuộc sống của Người. Người đã không dựa vào quyền năng thiêng liêng của mình để giải quyết chúng. Những thử thách này là một hình thức của “ma quỷ cám dỗ” (Fitsmeyer), một lời xúi giục để sử dụng quyền năng thiêng liêng của Người để hóa đá thành bánh và chứng tỏ bản thân trong những cách lập dị.

Sự cám dỗ kết thúc với câu nói này:  “Sau khi làm đủ cách cám dỗ, ma quỷ rút lui để chờ dịp khác” (4:13).  Do đó, ba cảnh có những cám dỗ thì được coi như là sự biểu hiện của tất cả các cám dỗ hoặc thử thách mà Chúa Giêsu phải đối mặt. Nhưng điều căn bản là Đức Giêsu, dù rằng Người là Con Thiên Chúa, vẫn phải chịu đối mặt và chiến thắng “cám dỗ”, và hơn thế nữa:   Người đã chịu thử thách về lòng trung thành của Người với Chúa Cha và đã được chứng thực như thế.

Một nghiệm xét cuối cùng liên quan đến sự cám dỗ lần thứ ba.  Trong hai cám dỗ đầu, ma quỷ kích động Chúa Giêsu dùng mối quan hệ Cha-Con thuộc thần tính của Người để phủ nhận sự hữu hạn của loài người:  Người không tùy thuộc vào bánh như tất cả các phàm nhân; sau đó đòi hỏi Người một đấng toàn năng ảo tưởng. Trong cả hai trường hợp này, Chúa Giêsu không trả lời cho câu nói:  Tôi không muốn!  Nhưng kêu cầu đến Lề Luật Của Thiên Chúa, Cha của Người:  “Có lời chép rằng… có lời nói rằng…”  Một bài học tuyệt vời.  Nhưng ma quỷ không chịu bỏ cuộc và lại đưa ra lời khiêu khích thứ ba, mạnh mẽ hơn cả:  cứu Người khỏi chết.  Trong một lời, gieo mình từ nóc tường cao của đền thờ có nghĩa là một cái chết chắc chắn.  Ma quỷ trích dẫn lời Kinh Thánh, Thánh Vịnh 91, để dụ dỗ Chúa Giêsu dùng phép thuật và sự ngoạn mục của sự che chở của Thiên Chúa, và trong trường hợp cuối cùng, dẫn đến sự phủ nhận cái chết.  Đoạn Tin Mừng của Luca đưa ra một lời cảnh báo mạnh mẽ:  việc sử dụng sai lầm Ngôi Lời của Chúa, có thể là dịp cám dỗ. Trong ý nghĩa nào?  Cách tôi liên kết chính mình với Kinh Thánh bị đặt trong tình trạng khủng hoảng, đặc biệt là khi tôi sử dụng nó chỉ để giảng đạo đức cho người khác là những kẻ đang gặp khó khăn hay trong tình trạng khủng hoảng.  Chúng tôi đề cập đến một số bài giảng dạy tinh thần giả định được trình bày cho những kẻ đang gặp khó khăn:  “Bạn đang đau khổ ư?  Chẳng có điều gì khác bạn có thể làm được ngoại trừ cầu nguyện và tất cả mọi việc sẽ được giải quyết”.  Điều này có nghĩa là bỏ qua nỗi thống khổ triền miên mà một người gánh chịu và thường xuyên tùy thuộc vào dữ kiện sinh hóa hay là khó khăn tâm lý xã hội, hoặc đặt mình trước Thiên Chúa một cách nhầm lẫn.  Nó sẽ mạch lạc hơn nếu nói:  Hãy cầu nguyện và xin Chúa hướng dẫn bạn trong việc cầu viện đến việc dàn xếp loài người qua một vị thông thái hay một người bạn hiểu biết và khôn ngoan để họ có thể giúp bạn làm dịu đi hay chữa lành nỗi thống khổ của bạn.  Người ta không thể đề nghị những câu nói trích từ Kinh Thánh, trong một cách kỳ diệu, cho những người khác, mà bỏ qua việc sử dụng việc hòa giải của con người.  “Sự cám dỗ thường xuyên là đem cuốn Thánh Kinh ra làm sách đạo đức của chính mình, thay vì lắng nghe những lời giảng dạy đạo đức của Kinh Thánh (X. Thévenot).

Trong thời gian này của Mùa Chay, tôi được mời gọi tiến gần đến Lời Chúa với thái độ sau đây:  chuyên cần không mệt mỏi và cầu nguyện Lời Chúa, đọc nó với sự liên kết liên tục hiệp nhất với các truyền thống tốt đẹp của Giáo Hội và trong sự đối thoại với các vấn đề của nhân loại ngày nay.

3.  Cầu Nguyện

a)  Thánh Vịnh 119

Hạnh phúc thay ai sống đời hoàn thiện,
biết noi theo luật pháp CHÚA TRỜI
Hạnh phúc thay kẻ tuân hành ý Chúa,
hết lòng hết dạ kiếm tìm Người.
Chúng ta hãy đổi mới bản thân trong Chúa Thánh Thần
Và khoác lên con người mới
Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta,
Được tạo ra theo ý Thiên Chúa Cha
Trong công lý và trong sự thiêng liêng đích thực. (Thánh Phaolô)

Họ không làm điều ác,
nhưng cứ đường lối Chúa mà đi.
Vâng lạy Chúa, Ngài đã ban huấn lệnh,
truyền chúng con tuân giữ vẹn toàn.
Chúng ta hãy sống lệ thuộc vào Đức Giêsu Kitô
và trung tín phục vụ Người
với một tâm hồn trong sạch cùng một lương tâm ngay lành.  (Luật dòng Cát Minh)

Ước mong sao con hằng vững bước
theo thánh chỉ Ngài ban.
Để con không xấu hổ
khi nhìn lại các mệnh lệnh của Ngài.
Chúng ta hãy sống lệ thuộc vào Đức Giêsu Kitô
và trung tín phục vụ Người
với một tâm hồn trong sạch cùng một lương tâm ngay lành.  (Luật dòng Cát Minh)

Con thành tâm dâng lời cảm tạ
vì được biết những quyết định công minh.
Thánh chỉ Ngài, con xin tuân giữ,
xin Ngài đừng nỡ bỏ rơi con.
Chúng ta hãy đổi mới bản thân trong Chúa Thánh Thần
Và khoác lên con người mới
Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta,
Được tạo ra theo ý Thiên Chúa Cha
Trong công lý và trong sự thiêng liêng đích thực. (Thánh Phaolô)

b)  Lời nguyện kết

Lạy Chúa, chúng con tìm kiếm Chúa và chúng con ước ao được diện kiến Chúa, nguyện xin cho chúng con một ngày nào đó,
Tấm màn che sẽ được tháo gỡ, để chúng con có thể chiêm ngưỡng thánh nhan Ngài.
Chúng con tìm kiếm Chúa trong Kinh Thánh được nói với chúng con về Chúa và qua bức màn của trí tuệ, kết quả của việc tìm kiếm người.
Chúng con tìm kiếm Chúa trong những khuôn mặt rạng rỡ của anh chị em chúng con, trong những dấu tích của cuộc Thương Khó Chúa, trong thân thể của những người khổ đau.
Mỗi một tạo vật được đóng ấn của dấu tích Chúa, mọi việc mặc khải ánh sáng vẻ đẹp vô hình của Chúa.
Chúa được mặc khải trong sự phục vụ tha nhân, Chúa tỏ mình ra với nhân loại bằng tình yêu trung thành không bao giờ suy giảm.
Không phải vì mắt trần mà là tâm trí có viễn cảnh về Chúa, với lòng đơn sơ và chân thật chúng con cố gắng thưa chuyện với Ngài.

4.  Chiêm Niệm
   
Để nối dài việc chiêm niệm, chúng tôi đề nghị lời suy gẫm của Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI:
“Mùa Chay là thời gian đặc biệt dành cho cuộc hành hương nội tâm hướng về Đấng là cội nguồn của lòng thương xót.  Đó là cuộc hành hương, trong đó chính Ngài cùng đồng hành với chúng ta qua sa mạc của sự nghèo đói, hỗ trợ chúng ta trên con đường hướng về niềm vui mãnh liệt của Lễ Phục Sinh.  Ngay cả trong “thung lũng đen tối” mà tác giả Thánh Vịnh nói đến (Tv 23:4), trong khi bị cám dỗ cho thấy rằng chúng ta bị phân tán hoặc là đề nghị một hy vọng hão huyền trong công việc ở tay chúng ta, Thiên Chúa chăm sóc chúng ta và hỗ trợ chúng ta.  […] Mùa Chay muốn dẫn dắt chúng ta trong quan điểm về sự vinh quang của Đức Kitô trên mọi sự dữ áp chế loài người.  Trong việc tìm đến với Thầy Chí Thánh, trong việc chúng ta quy hướng về Người, trong kinh nghiệm về Lòng Thương Xót của Người, chúng ta khám phá ra “cái nhìn” xuyên thấu vào sự sâu thẳm của chúng ta và có thể khuyến khích mỗi người chúng ta”.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét