25/02/2016
Thứ năm tuần 2 Mùa Chay
BÀI ĐỌC
I: Gr 17, 5-10
"Khốn thay cho kẻ tin tưởng người đời; phúc thay cho người tin tưởng vào Thiên Chúa".
"Khốn thay cho kẻ tin tưởng người đời; phúc thay cho người tin tưởng vào Thiên Chúa".
Trích
sách Tiên tri Giêrêmia.
Đây Chúa phán: "Khốn thay cho kẻ tin tưởng người đời, họ nương tựa vào sức mạnh con người, còn tâm hồn họ thì sống xa Chúa. Họ như cây cỏ trong hoang địa, không cảm thấy khi được hạnh phúc; họ ở những nơi khô cháy trong hoang địa, vùng đất mặn không người ở. Phúc thay cho người tin tưởng vào Thiên Chúa, và Chúa sẽ là niềm cậy trông của họ. Họ sẽ như cây trồng nơi bờ suối, cây đó đâm rễ vào nơi ẩm ướt, không sợ gì khi mùa hè đến, lá vẫn xanh tươi, không lo ngại gì khi nắng hạn mà vẫn sinh hoa kết quả luôn. Lòng người nham hiểm khôn dò, nào ai biết được? Còn Ta, Ta là Chúa, Ta thấu suốt tâm hồn và dò xét tâm can, trả công cho mỗi người tuỳ theo cách sống và hậu quả hành vi của họ". Đó là lời Chúa.
ĐÁP
CA: Tv 1, 1-2. 3. 4 và 6
Đáp:
Phúc thay người đặt niềm tin cậy vào Chúa (Tv 39, 5a).
1) Phúc cho ai không theo mưu toan kẻ gian ác, không đứng trong đường lối những tội nhân, không ngồi chung với những quân nhạo báng, nhưng vui thoả trong lề luật Chúa, và suy ngắm luật Chúa đêm ngày. - Đáp.
2) Họ như cây trồng bên suối nước, trổ sinh
hoa trái đúng mùa; lá cây không bao giờ tàn úa. Tất cả công việc họ làm đều thịnh
đạt. - Đáp.
3) Kẻ gian ác không được như vậy; họ như vỏ trấu
bị gió cuốn đi, vì Chúa canh giữ đường người công chính, và đường kẻ gian ác dẫn
tới diệt vong. - Đáp.
CÂU XƯỚNG
TRƯỚC PHÚC ÂM: Ed 33, 11
Chúa
phán: "Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và
được sống".
PHÚC
ÂM: Lc 16, 19-31
"Con đã
được sự lành, còn Ladarô gặp toàn sự khốn khổ".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng những người biệt phái rằng:
"Có một nhà phú hộ kia vận toàn gấm vóc, lụa là, ngày ngày yến tiệc linh
đình. Lại có một người hành khất tên là Ladarô, nằm bên cổng nhà ông đó, mình đầy
ghẻ chốc, ước được những mụn bánh từ bàn ăn rớt xuống để ăn cho đỡ đói, nhưng
không ai thèm cho. Những con chó đến liếm ghẻ chốc của người ấy. Nhưng xảy ra
là người hành khất đó chết và được các thiên thần đem lên nơi lòng Abraham. Còn
nhà phú hộ kia cũng chết và được đem chôn. Trong hoả ngục, phải chịu cực hình,
nhà phú hộ ngước mắt lên thì thấy đằng xa có Abraham và Ladarô trong lòng Ngài,
liền cất tiếng kêu la rằng:
"Lạy Cha Abraham, xin thương xót tôi và sai Ladarô nhúng đầu ngón tay vào nước để làm mát lưỡi tôi, vì tôi phải quằn quại trong ngọn lửa này. Abraham nói lại: "Hỡi con, suốt đời con, con được toàn sự lành, còn Ladarô gặp toàn sự khốn khổ. Vậy bây giờ Ladarô được an ủi ở chốn này, còn con thì chịu khốn khổ. Vả chăng, giữa các ngươi và chúng tôi đây đã có sẵn một vực thẳm, khiến những kẻ muốn tự đây qua đó, không thể qua được, cũng như không thể từ đó qua đây được".
Người đó lại nói: "Đã vậy, tôi nài xin cha sai
Ladarô đến nhà cha tôi, vì tôi còn năm người anh em nữa, để ông bảo họ, kẻo họ
cũng phải sa vào chốn cực hình này". Abraham đáp rằng: "Chúng đã có
Môsê và các tiên tri, chúng hãy nghe các Ngài". Người đó thưa: "Không
đâu, lạy Cha Abraham! Nhưng nếu có ai trong kẻ chết về với họ, thì ắt họ sẽ hối
cải". Nhưng Abraham bảo người ấy: "Nếu chúng không chịu nghe Môsê và
các tiên tri, thì cho dù kẻ chết sống lại đi nữa, chúng cũng chẳng chịu nghe
đâu". Đó là lời Chúa.
SUY NIỆM : Người giầu có và Ladarô.
Mẹ
Têrêxa Calcutta kể lại rằng một lần nọ đặt chân đến Ethiopi, Mẹ đã ngỏ ý với một
vị Bộ trưởng để xin một khu đất xây bệnh viện cho những người cùng khốn nhất.
Ông Bộ trưởng trả lời: “Thưa bà, việc săn sóc bệnh nhân và người nghèo là trách
nhiệm của chính phủ, không một cá nhân hay đoàn thể nào có thể gánh được công
việc này”. Mẹ liền nói: “Nhưng tôi thấy chính phủ các ông đã không chu toàn được
trách nhiệm ấy; vả, việc săn sóc người nghèo khổ là trách nhiệm của mỗi người”.
Và ông Bộ trưởng đã phải chấp nhận đề nghị của Mẹ.
Câu
trả lời và việc làm của Mẹ Têrêxa là một minh hoạ cho giáo huấn của Chúa Giêsu
về người giầu có và Ladarô nghèo khổ. Quan tâm đến người anh em, nhất là những
người cùng khổ là một bổn phận, một bổn phận mà Chúa Giêsu cũng khẳng định
trong diễn từ về ngày chung thẩm. Nhiều người ngỡ ngàng khi nhận ra rằng số phận
mai hậu của họ gắn liền với một bát nước lã, một chén cơm họ chia sẻ cho một kẻ
vô danh.
Dửng
dưng trước khổ đau của người khác là một tội. Đó là điều Chúa Giêsu muốn nêu bật
qua hình ảnh người giầu có trong Tin mừng hôm nay. Chúa Giêsu không nói đến nguồn
gốc của sự giầu có mà người phú hộ đang hưởng. Ngài cũng không nói đến một hành
động gian ác nào của ông. Thế nhưng, sự dửng dưng đến độ mù loà của ông trước một
người hành khất lê lết trước cửa nhà ông, một thái độ như thế cũng là một tội
ác rồi. Mỗi người đều có trách nhiệm về người anh em, nhất là người nghèo khổ
trong xã hội. Giáo huấn của Chúa Giêsu trong Tin mừng hôm nay có lẽ cũng gợi lại
câu hỏi Thiên Chúa đặt ra cho Cain sau khi Cain giết Abel em mình: “Cain, em
ngươi đâu?”. Cain trả lời: “Tôi có phải là người giữ em tôi đâu”. Câu trả lời ấy
có lẽ cũng là thái độ của chúng ta khi đứng trước nỗi khổ đau của người khác.
Thiên Chúa đã tạo dựng nhân loại như một gia đình, trong đó tất cả chúng ta đều
có bổn phận và trách nhiệm đối với nhau.
Mùa
Chay, mùa trở về với Chúa và cũng là mùa trở về với anh em. Nhận ra mỗi người,
nhất là người cùng khổ như người anh em con cùng một cha, đó là lời mời gọi mà
Cha trên trời luôn ngỏ với chúng ta, và đó cũng là thông hành để chúng ta về gặp
gỡ Cha trên trời.
(Trích
trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Thứ
Năm Tuần II MC
Bài
đọc: Jer 17:5-10; Lk
16:19-31.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phải tin Thiên Chúa hơn tin người đời.
Nếu một
người tin ai hay tin điều gì thì họ sẽ cậy dựa vào điều đó. Ví dụ, nếu một người
tin có tiền mua tiên cũng được, họ sẽ ra sức làm sao cho có nhiều tiền; hay nếu
một người tin có uy quyền sẽ có tất cả, họ sẽ lo làm sao cho được một địa vị
cao trong xã hội. Nhưng nếu một người tin hạnh phúc không lệ thuộc vào những lợi
lộc vật chất, họ sẽ đi tìm những giá trị tinh thần qua những lời khôn ngoan của
bậc thánh hiền.
Các
Bài Đọc hôm nay tập trung trong việc phải tin và cậy dựa vào Thiên Chúa. Trong
Bài Đọc I, tiên tri Jeremiah đưa ra hai mẫu người với hai niềm tin khác nhau.
Tiên tri nói: Phúc thay cho những ai cậy dựa vào Thiên Chúa. Họ như cây trồng
bên suối nước, sẽ luôn sinh hoa kết quả và không bao giờ bị khô héo. Nhưng khốn
thay cho kẻ tin vào sức phàm nhân, hạnh phúc có đến cũng chẳng nhìn ra, và lúc
nào cũng như đang sống trong đồng khô cỏ cháy. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu cũng
đưa ra hai mẫu gương để dạy cho dân một bài học: một người giàu có và Lazarus,
người nghèo khó. Người giàu có dùng tiền bạc của mình để sống phung phí trên sự
nghèo khó của Lazarus. Khi cả hai chết đi, cuộc sống hai người bị đảo ngược:
Lazarus được ngồi trong lòng tổ-phụ Abraham trên trời; trong khi người giàu có
phải chịu cực hình trong lửa đời đời.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài
đọc I: Phải đặt niềm tin
nơi nào cho đúng.
1.1/ Hai
niềm tin: Tục ngữ Việt Nam
có câu: “chọn mặt gởi vàng, chọn người để tin.” Để lập gia đình cũng thế, nếu một
người biết lựa chọn kỹ lưỡng người để kết hôn theo những giá trị tinh thần, cuộc
sống gia đình tương lai sẽ bền vững; nhưng nếu chỉ “vơ bèo vạt tép,” làm sao có
thể ở với nhau suốt đời được? Tương tự như thế trong khi chọn người để ký thác
cả phần hồn lẫn phần xác, con người phải lựa chọn giữa Thiên Chúa, phàm nhân,
hay của cải vật chất. Khi con người chọn tin vào ai, họ sẽ làm quyết định theo
niềm tin của họ. Tiên tri Jeremiah đưa ra hai lựa chọn căn bản và những hậu quả
của chúng.
(1)
Tin ở người đời: “Đáng nguyền rủa thay kẻ tin ở người đời, lấy sức phàm nhân
làm nơi nương tựa, và lòng dạ xa rời Đức Chúa! Người đó sẽ như bụi cây trong
hoang địa chẳng được thấy hạnh phúc bao giờ, hạnh phúc có đến cũng chẳng nhìn
ra, nhưng sẽ ở mãi nơi đồng khô cỏ cháy, trong vùng đất mặn không một bóng người.”
Tiên
tri Jeremiah sống trong thời gian lịch sử mà đa số dân tộc Israel, vua cũng như
dân, quay lưng lại với Thiên Chúa. Hezekiah, Vua Judah đã chọn tin tưởng nơi
Vua Ai-cập hơn là tin tưởng nơi Thiên Chúa. Hậu quả là vương quốc bị rơi vào
tay Vua Babylon và tòan dân bị lưu đày. Điều khờ dại nhất của con người là chọn
những tạo vật của Thiên Chúa làm ra thay vì chọn chính Đấng đã tạo dựng nên mọi
sự. Điều ma quỉ dùng để cám dỗ con người là làm cho con người chỉ chú trọng đến
hậu quả hiện tại tạm thời, mà quên đi quá khứ và không cần nhìn đến tương lai.
(2)
Tin ở Thiên Chúa: “Phúc thay kẻ đặt niềm tin vào Đức Chúa, và có Đức Chúa làm
chỗ nương thân. Người ấy như cây trồng bên dòng nước, đâm rễ sâu vào mạch suối
trong, mùa nóng có đến cũng chẳng sợ gì, lá trên cành vẫn cứ xanh tươi, gặp năm
hạn hán cũng chẳng ngại, và không ngừng trổ sinh hoa trái.”
Khi một
người khôn ngoan sống theo niềm tin của mình, chọn Thiên Chúa là điều quá hiển
nhiên, vì Ngài là nguồn gốc mọi sự. Làm sao một người có uy quyền để bảo vệ một
người như Thiên Chúa? Thánh Polycarp, khi được quyến dũ để bỏ Thiên Chúa, đã khẳng
khái trả lời: “Trong 86 năm tôi đã phục vụ Ngài, Ngài đã không bao giờ gây ra bất
kỳ thiệt hại gì cho tôi: Làm sao tôi có thể xúc phạm đến Vua và Đấng Cứu Chuộc
của tôi?”
1.2/
Thiên Chúa thấu suốt lòng con người: Tin thế nào sẽ sống như vậy; cuộc sống con người biểu tỏ những
gì con người tin. Họ sẽ phải ra trước tòa phán xét để trả lời với Thiên Chúa về
cuộc sống của họ. Khi đó, họ không thể nói họ đã tin Thiên Chúa trong lòng hay
tuyên xưng Ngài bằng miệng lưỡi được, vì đời sống của họ sẽ là bằng chứng tố
cáo họ. Lời tiên tri Jeremiah cũng cảnh cáo những con người hai lòng: “Không gì
nham hiểm và bất trị như lòng người, ai dò thấu được? Ta là Đức Chúa, Ta dò xét
lòng người, thử thách mọi tâm can. Ta sẽ thưởng phạt ai nấy tuỳ theo cách nó sống
và việc nó làm.”
2/
Phúc Âm: Lazarus tin nơi
Thiên Chúa.
2.1/ Ông
nhà giàu tin nơi sự giàu có của mình: Chỉ trong ít lời ngắn ngủi, Thánh sử Lucas đã lột tả được sự bất
công giữa lòai người: một ông nhà giàu kia, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày
yến tiệc linh đình. Lại có một người, vừa nghèo khó lại vừa bệnh tật, tên là
Lazarus, nằm trước cổng ông nhà giàu. Lazarus thèm được những thứ trên bàn ăn của
ông ấy rớt xuống mà ăn cho no. Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh
ta.
Cuộc
đời sau đảo lộn thứ tự của cuộc đời này. Người nghèo này chết, và được thiên thần
đem vào lòng ông Abraham. Ông nhà giàu cũng chết, và người ta đem chôn. Dưới âm
phủ, đang khi chịu cực hình, ông ta ngước mắt lên, thấy tổ phụ Abraham ở tận
đàng xa, và thấy anh Lazarus trong lòng tổ phụ. Ông kêu cứu: "Lạy tổ phụ
Abraham, xin thương xót con, và sai anh Lazarus nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ
trên lưỡi con cho mát; vì ở đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm!”
2.2/
Lazarus tin nơi tình yêu Thiên Chúa: Thiên Chúa dựng nên mọi sự trong trời đất cho mọi người hưởng
dùng. Con người không phải là chủ nhân, mà chỉ là những người quản lý của cải của
Thiên Chúa. Vì thế, con người không được quyền phung phí của cải trong khi những
người nghèo không có của ăn. Nếu họ không san sẻ của cải cho người nghèo, họ sẽ
phải nghe những lời như Abraham nói với người giàu có: "Con ơi, hãy nhớ lại:
suốt đời con, con đã nhận phần phước của con rồi; còn Lazarus suốt một đời chịu
toàn những bất hạnh. Bây giờ, Lazarus được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu
khốn khổ. Hơn nữa, giữa chúng ta đây và các con đã có một vực thẳm lớn, đến nỗi
bên này muốn qua bên các con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây
cũng không được.”
2.3/ Bài
học cho người còn sống: Sống
thế nào sẽ phải lãnh nhận hậu quả như vậy. Nếu chưa biết cách sống, con người
phải tìm tòi học hỏi để biết sống, nhất là qua Kinh Thánh. Việc hóan cải đòi
nhiều nỗ lực và thời gian, chứ không phải khi muốn là được. Người giàu có xin
Abraham sai Lazarus đến nhà để cảnh cáo cho năm người anh em của ông cũng đang
sống bất công như vậy, nhưng Abraham đáp: "Nếu Moses và các ngôn sứ mà họ
còn chẳng chịu nghe, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Chúng ta chỉ có thể lựa chọn một trong hai điều: tin nơi Thiên Chúa hay nơi
phàm nhân. Chúng ta không thể làm tôi hai chủ: “cả Thiên Chúa lẫn tiền tài.”
- Tin
thế nào sẽ sống thế ấy; cuộc sống là biểu tỏ những gì con người tin. Chúng ta
không thể chỉ tin trong lòng hay nơi “chót lưỡi đầu môi.”
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.
25/02/16 THỨ NĂM TUẦN 2
MC
Lc 16,19-31
Lc 16,19-31
Suy niệm: Có
hai điều đặc biệt trong dụ ngôn này: 1/ Người nghèo có tên La-da-rô (nghĩa là "Thiên Chúa giúp"),
lần đầu tiên một nhân vật trong dụ ngôn có tên rõ ràng; 2/ Số phận hạnh phúc
hay trầm luân của con người sau khi chết. Tuy không giải thích tại sao anh
La-da-rô được hạnh phúc trong lòng tổ phụ Áp-ra-ham, nhưng dụ ngôn cho ta hiểu
rằng việc hưởng thụ của cải vật chất cách ích kỷ dẫn người nhà giàu tới chỗ
dửng dưng, vô cảm với người nghèo, cản trở lòng tin vào Thiên Chúa. Ông nhà
giàu không bị phạt vì giàu có, mà vì ông đã làm ngơ trước tình cảnh khốn cùng
của La-da-rô. Tình trạng giàu nghèo đời này không quyết định số phận ta ở đời
sau, nhưng hệ tại ở thái độ và cách thế đón nhận, sẻ chia.
Mời bạn: Đức
tin của bạn được củng cố, phát huy ngày qua ngày nhờ một trí óc và con tim biết
vâng nghe theo Lời Chúa, giáo huấn của Giáo Hội và gương các thánh. Nhờ đó, bạn
dễ dàng thanh thoát "những thú vui thế gian," sức hấp dẫn của tiện
nghi, hưởng thụ, mà quan tâm hơn đến tình yêu đối với tha nhân, nhất là với ai
đang cần sự trợ giúp cụ thể, vật chất cũng như tinh thần.
Sống Lời Chúa: Bên
cạnh bạn có “anh La-da-rô” nghèo khổ nào không? Bạn hãy có một nghĩa cử chia sẻ
bằng vật chất, tinh thần trong tình liên đới của kinh “Thương người có mười bốn mối.”
Cầu nguyện: Lạy Chúa, cám ơn Chúa vì đã dựng nên chúng con, ai cũng nghèo về
một mặt nào đó, ai cũng cần đến người khác… Xin cho con khiêm tốn nhận mình
nghèo để nhận lãnh, can đảm nhận mình giàu để hiến trao. Amen.
(Rabbouni)
Có một vực thẳm
Chúng ta có thể nghèo của cải, nhưng giàu có về
các mặt khác... Hãy tập nhìn xuống để thấy bao người dưới mình. Chia sẻ là lấp
vực thẳm, nâng người khác lên bằng mình.
Suy niệm:
Tài
sản của ba người Mỹ giàu nhất thế giới
còn
lớn hơn tài sản của 48 nước kém phát triển.
Bill
Gates giàu hơn 100 triệu người Mỹ nghèo nhất.
Chỉ
cần 40 tỉ đô la của ông, Liên Hiệp Quốc đủ chi tiêu
cho
giáo dục cơ bản, sức khỏe, nước sạch và vệ sinh
cho
cả thế giới trong một thời gian dài.
Khi
nhìn sự chênh lệch giữa ông nhà giàu và Ladarô,
chúng
ta thấy bức tranh hiện thực của thế giới.
Hố
sâu ngăn cách giữa giàu nghèo ở đô thị,
giữa
đô thị và nông thôn, càng lúc càng lớn.
Có
800 triệu Ladarô đang đói nghèo cùng cực.
Hơn
một tỉ Ladarô bệnh tật không được chăm sóc.
Vẫn
có bao người chết đói mỗi ngày,
vì
không được hưởng gì từ các bàn tiệc rơi xuống.
Ông
nhà giàu trong dụ ngôn có thấy, có biết Ladarô,
nhưng
thấy mà như không thấy có Ladarô trên đời.
Tiện
nghi vật chất đã thành bức tường kín.
Ông
sống an toàn mãn nguyện trong khoảng không gian riêng.
Chính
ông đã tạo ra một vực thẳm ngăn cách.
Không
cần Chúa, cũng chẳng cần biết đến anh em.
Có
thể nói vực thẳm đó lớn dần và kéo dài mãi đến đời sau.
Hỏa
ngục là sự tự cô lập mình không thể đảo ngược được.
Chẳng
ai có thể cho tôi một giọt nước.
Vực
thẳm ngăn cách con người ở đời sau
là
do chính con người đã tạo ra từ đời này.
Ông
nhà giàu bị phạt, không phải vì ông đã bóc lột ai,
nhưng
vì ông không bị sốc chút nào
trước
sự chênh lệch ghê gớm giữa ông và Ladarô.
Từ
sốc mới nẩy sinh thức tỉnh, và dẫn đến hoán cải.
Nhiều
nước giàu vẫn trợ giúp các nước nghèo,
nhưng
không muốn loại bỏ sự bất bình đẳng.
Các
nước nghèo vẫn bị bóc lột về tài nguyên, nhân công,
và
bị nô lệ cho những món nợ không sao trả hết.
Ông
nhà giàu bị phạt không phải vì ông đã nhận nhiều,
nhưng
vì ông đã không san sẻ những gì mình nhận.
Giàu
không phải là một tội, của cải tự nó không xấu.
Có
bao người giàu tốt như Dakêu, Nicôđêmô, Giuse Arimathia.
Nhưng
giàu sang có thể dẫn đến cám dỗ nguy hiểm:
Tích
trữ, tham lam, hà tiện, khép kín, tự mãn, hưởng thụ,
bị
ám ảnh bởi đồng tiền, bị mê hoặc bởi lợi nhuận.
Chúng
ta có thể nghèo của cải, nhưng giàu có về các mặt khác:
giàu
kiến thức chuyên môn, giàu thế lực ảnh hưởng,
giàu
sức khỏe, giàu tình bạn tình yêu, giàu niềm vui, ơn Chúa.
Hãy
tập nhìn xuống để thấy bao người dưới mình.
Chia
sẻ là lấp vực thẳm, nâng người khác lên bằng mình.
Ước
gì chúng ta để cho Lời Chúa hoán cải,
để
thấy trách nhiệm của mình trước những Ladarô
nằm
ngay nơi cửa, trong khu xóm...
Chỉ
cần bớt chút dư thừa, xa xỉ của chúng ta
cũng
đủ làm nhiều người no nê hạnh phúc.
Cầu
nguyện:
Lạy Cha, xin cho con ý thức rằng
tấm
bánh để dành của con thuộc về người đói,
chiếc
áo nằm trong tủ thuộc về người trần trụi,
tiền
bạc con cất giấu thuộc về người thiếu thốn.
Lạy Cha, có bao điều con giữ mà chẳng dùng,
có
bao điều con lãng phí
bên
cạnh những Ladarô túng quẫn,
có
bao điều con hưởng lợi
dựa
trên nỗi đau của người khác,
có
bao điều con định mua sắm dù chẳng có nhu cầu.
Con hiểu rằng nguồn gốc sự bất công
chẳng
ở đâu xa.
Nó
nằm ngay nơi sự khép kín của lòng con.
Con
phải chịu trách nhiệm
về
cảnh nghèo trong xã hội.
Lạy Cha chí nhân,
vũ
trụ, trái đất và tất cả tài nguyên của nó
là
quà tặng Cha cho mọi người có quyền hưởng.
Cha để cho có sự chênh lệch, thiếu hụt,
vì
Cha muốn chúng con san sẻ cho nhau.
Thế
giới còn nhiều người đói nghèo
là
vì chúng con giữ quá điều cần giữ.
Xin dạy chúng con biết cách đầu tư làm giàu,
nhờ sống chia sẻ yêu thương. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
25
Tháng Hai
Chân Phước Sebastian ở Aparicio
(1502 - 1600)
Những con đường và nhịp cầu mà Chân Phước Sebastian xây dựng thì nối liền nhiều
chỗ thật xa cách. Nhịp cầu sau cùng ngài hoàn tất là giúp người ta nhận biết phẩm
giá và cùng đích mà Thiên Chúa đã ban cho loài người.
Cha mẹ của Sebastian là nông dân Tây Ban Nha. Vào năm 31 tuổi, ngài xuống tàu
đi Mễ Tây Cơ, ở đây ngài làm việc đồng áng. Sau đó ngài xây đắp những con đường
để thuận tiện cho việc trao đổi nông nghiệp và thương mãi. Con đường ngài xây từ
Mexico City cho đến Zacatecas dài 466 dặm và phải mất 10 năm mới hoàn tất, và vừa
phải khéo léo thương thuyết với những người thổ dân.
Sau cùng, Sebastian là một điền chủ giàu có. Khi 60 tuổi ngài lập gia đình với
một trinh nữ. Ðộng lực chính mà người trinh nữ kết hôn với ngài có lẽ là số gia
tài kếch sù; phần ngài thì muốn giúp đỡ người con gái nghèo nàn không có của hồi
môn ấy một cuộc đời xứng đáng. Khi người vợ thứ nhất qua đời, ngài lấy một
trinh nữ thứ hai cũng vì lý do như trước; và người vợ thứ hai cũng chết sớm.
Vào năm 72 tuổi, Sebastian phân phát tài sản cho người nghèo rồi gia nhập dòng
Phanxicô với tư cách của một thầy trợ sĩ. Ðược giao cho công việc ẩm thực của
tu viện rộng lớn ở Puebla de los Angeles (100 thành viên) nằm về phía nam của
Mexico City, Thầy Sebastian đã chu toàn bổn phận đi khất thực trong 25 năm.
Lòng bác ái của thầy đối với tất cả mọi người thật xứng với cái tên mà người ta
đã đặt cho ngài, "Thiên Thần của Mễ Tây Cơ."
Thầy Sebastian được phong chân phước năm 1787 và là quan thầy của những người lữ
hành.
Lời Bàn
Theo Quy Luật Thánh Phanxicô, các tu sĩ phải làm việc để có miếng ăn. Nhưng đôi
khi công việc của họ không đủ cung cấp cho nhu cầu; thí dụ, họ chăm sóc người
cùi là những người không có gì để đáp trả. Trong trường hợp ấy, các tu sĩ được
phép đi xin, và luôn nhớ đến điều nhắc nhở của Thánh Phanxicô là hãy làm gương
tốt để khuyến dụ dân chúng. Cuộc đời của Chân Phước Sebastian, dù tuổi già
nhưng vẫn hăng say, chắc chắn đã đưa nhiều người đến gần Thiên Chúa hơn.
Lời Trích
Có lần Thánh Phanxicô nói với các môn sinh:"Giữa thế gian và tu sĩ có một
giao kèo. Tu sĩ phải đem lại cho thế gian gương mẫu tốt lành; và thế gian phải
cung ứng cho các nhu cầu của họ. Khi các tu sĩ hư hỏng đức tin và không còn làm
gương tốt, thế gian sẽ rút tay lại như một sự khiển trách chính đáng" (2
Celano, #70).
Trích từ NguoiTinHuu.com
25
Tháng Hai
Dân Thành Athènes
Ngày
kia, triết gia Esopos người Hy Lạp ngồi bên vệ đường trước cổng thành Ethènes.
Một người khách lạ tình cờ đi qua dừng lại hỏi ông như sau: "Dân thành
Athènes như thế nào?".
Triết
gia bèn trả lời: "Xin ông cho tôi biết ông đến từ đâu và dân tình ở đó như
thế nào?". Người khách lạ nhíu mày cằn nhằn: "Tôi đến từ Argos và dân
Argos toàn là một lũ người láo khoét, trộm cắp, cãi cọ suốt ngày".
Một cách bình thản, triết gia Esopos mỉm cười đáp: "Tôi rất lấy làm buồn để báo cho ông biết rằng rồi ra ông sẽ thấy dân thành Athènes còn tệ hơn thế nữa".
Ngày hôm sau, một người khách lạ khác đi qua và cũng dừng lại đặt một câu hỏi: "Dân thành Athènes như thế nào?". Người khách lạ ấy cũng cho biết mình đến từ Argos là nơi mà ông cho là quê hương yêu dấu mà ông buộc lòng phải rời xa, bởi vì dân chúng Argos là những người rất dễ thương, dễ mến...
Một cách bình thản, triết gia Esopos mỉm cười đáp: "Tôi rất lấy làm buồn để báo cho ông biết rằng rồi ra ông sẽ thấy dân thành Athènes còn tệ hơn thế nữa".
Ngày hôm sau, một người khách lạ khác đi qua và cũng dừng lại đặt một câu hỏi: "Dân thành Athènes như thế nào?". Người khách lạ ấy cũng cho biết mình đến từ Argos là nơi mà ông cho là quê hương yêu dấu mà ông buộc lòng phải rời xa, bởi vì dân chúng Argos là những người rất dễ thương, dễ mến...
Lần
này, triết gia Esopos cũng biểu đồng tình với người khách lạ như sau: "Này
ông bạn đáng mến, tôi rất vui mừng cho ông biết rằng ông sẽ nhận thấy dân thành
Athènes cũng dễ thương dễ mến như thế".
Câu
chuyện mang tính cách ngụ ngôn trên đây muốn nói với chúng ta rằng cách thẩm định
người khác tùy thuộc ở tình cảm của mỗi người. Cùng một con người ấy, cùng một
khung cảnh ấy, nhưng có người ưa, có kẻ chê. Sự khác biệt trong cách thẩm định ấy
thường không nằm trong người khác hoặc cảnh vật khác, mà chính là ở tâm trạng của
mỗi người. Thi sĩ Nguyễn Du đã có lý khi bảo rằng: "Người buồn cảnh có vui
đâu bao giờ".
Người
Kitô chúng ta luôn được mời gọi để có cái nhìn lạc quan về các biến cố và con
người, nghĩa là chúng ta được mời gọi để luôn có cái nhìn tích cực về người
khác và các biến cố. Một thất bại rủi ro xảy đến ư? Người Kitô hãy cố gắng khám
phá ra những đường nét dễ thương dễ mến trong khuôn mặt, trong cách cư xử của
người đó. Chúng ta hãy làm như loài ong: từ giữa bao nhiêu vị đắng cay của cánh
hoa, loài ong chỉ rút ra toàn mật ngọt...
Ðức cố
Giáo Hoàng Gioan 23 đã ghi trong nhật ký của Ngài như sau: "Do bản chất,
tôi vui vẻ và sẵn sàng chỉ thấy những khía cạnh tốt đẹp của sự vật và con người
hơn là phê bình chỉ trích và đưa ra những phán đoán độc hại... Mỗi một cử chỉ
khiếm nhã đối với bất cứ ai, nhất là những người nghèo hèn, thấp kém, hoặc bất
cứ một chỉ trích phá hoại nào, đều làm cho tôi đau lòng".
Lẽ Sống
Lectio Divina: Luca 16:19-31
Thứ Năm, 25 Tháng 2,
2016
Thứ Năm Tuần II Mùa
Chay
1. Lời nguyện
mở đầu
Lạy Chúa là Thiên Chúa
chúng con,
Nhiều người trong
chúng con, cuộc đời chưa bao giờ được khá giả như thế
Vì vậy chúng con đã
trở nên tự mãn và hài lòng, hạnh phúc trong thế giới nhỏ bé của chúng con.
Lạy Chúa, nguyện xin
cho tai chúng con vẫn mở ra để lắng nghe Lời Chúa
Xin cho lòng chúng con
vẫn hướng về Chúa
Và hướng về anh chị em
chúng con.
Xin Chúa đừng để cho
chúng con quên Chúa,
Hoặc đặt để niềm tin
của chúng con vào chính mình.
Xin hãy làm cho chúng
con thao thức vì Chúa,
Chúng con cầu xin nhờ
Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con.
2. Phúc Âm – Luca 16:19-31
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng những người
Biệt Phái rằng: “Có một nhà phú hộ kia vận toàn gấm vóc, lụa là,
ngày ngày yến tiệc linh đình. Lại có một người hành khất tên là
Lagiarô, nằm bên cổng nhà ông đó, mình đầy ghẻ chốc, ước được những mụn bánh từ
bàn ăn rớt xuống để ăn cho đỡ đói, nhưng không ai thèm cho. Những
con chó đến liếm ghẻ chốc của người ấy.
Nhưng xảy ra là người hành khất đó chết
và được các thiên thần đem lên nơi lòng Abraham. Còn nhà phú hộ kia
cũng chết và được đem chôn. Trong hỏa ngục, phải chịu cực hình, nhà
phú hộ ngước mắt lên thì thấy đằng xa có Abraham và Lagiarô trong lòng Ngài,
liền cất tiếng kêu la rằng: “Lạy Cha Abraham, xin thương xót tôi và
sai Lagiarô nhúng đầu ngón tay vào nước để làm mát lưỡi tôi, vì tôi phải quằn
quại trong ngọn lửa này.” Abraham nói lại: “Hỡi con, suốt
đời con, con được toàn sự lành, còn Lagiarô gặp toàn sự khốn khổ. Vậy bây
giờ Lagiarô được an ủi ở chốn này, còn con thì chịu khốn khổ. Vả
chăng, giữa các ngươi và chúng tôi đây đã có sẵn một vực thẳm, khiến những kẻ
muốn tự đây qua đó, không thể qua được, cũng như không thể từ đó qua đây
được.” Người đó lại nói: “Đã vậy, tôi nài xin cha sai
Lagiarô đến nhà cha tôi, vì tôi còn năm người anh em nữa, để ông bảo họ, kẻo họ
cũng phải sa vào chốn cực hình này”. Abraham đáp
rằng: “Chúng đã có Môisen và các tiên tri, chúng hãy nghe các
Ngài”. Người đó thưa: “Không đâu, lạy Cha
Abraham! Nhưng nếu có ai trong kẻ chết về với họ, thì ắt họ sẽ hối
cải”. Nhưng Abraham bảo người ấy: “Nếu chúng không chịu
nghe Môisen và các tiên tri, thì cho dù kẻ chết sống lại đi nữa, chúng cũng
chẳng chịu nghe đâu”.
3. Suy Niệm
- Mỗi khi mà
Chúa Giêsu có điều gì quan trọng cần phải thông tri, Người tạo ra một câu
chuyện và kể dụ ngôn. Bằng cách này, qua việc suy gẫm về một thực
tại vô hình, Người dẫn dắt những ai đang lắng nghe Người khám phá ra lời mời
gọi vô hình của Thiên Chúa, Đấng hiện hữu trong đời sống. Dụ ngôn
được tạo nên để chúng ta nghĩ và suy gẫm. Vì lý do này, điều quan
trọng là phải chú ý, ngay cả đến những chi tiết nhỏ nhặt nhất. Câu
chuyện dụ ngôn trong bài Tin Mừng hôm nay có ba nhân vật. Người hành
khất tên Lagiarô, nhà phú hộ vô danh và Tổ Phụ Abraham. Trong bài dụ
ngôn, ông Abraham đại diện cho tư tưởng của Thiên Chúa. Nhà phú hộ
vô danh đại diện cho hệ thống tư tưởng thống trị thời đó. Lagiarô đại diện
cho tiếng khóc thầm lặng của những người nghèo khó vào thời của Chúa Giêsu và
của tất cả mọi thời đại.
- Lc
16:19-21: Tình cảnh của nhà phú hộ và người hành
khất. Hai thái cực của xã hội. Một mặt, sự giàu có thừa
thãi; còn mặt khác, một người nghèo khó không cơm ăn, không quyền lực, mình đầy
ghẻ chốc, không ai đoái hoài, ngó ngàng tới anh ta, ngoại trừ những con chó đến
liếm ghẻ chốc của người ấy. Vật ngăn cách giữa họ là cánh cổng đóng
kín của nhà phú hộ. Về phần nhà phú hộ, không có sự chấp nhận cũng
chẳng có lòng thương xót đến tình cảnh của người hành khất ngoài cửa nhà ông
ta. Nhưng người hành khất thì có tên và nhà phú hộ thì không
có. Có nghĩa là, người hành khất có tên mình được viết vào trong
sách hằng sống, mà nhà phú hộ thì không. Tên của người hành khất là
Lagiarô. Nó có nghĩa là Thiên Chúa cứu giúp. Và qua người
hành khất, Thiên Chúa giúp cho nhà phú hộ có thể có tên trong sách hằng sống. Nhưng
nhà phú hộ không chấp nhận việc được giúp đỡ bởi người hành khất, bởi vì cánh
cổng nhà ông ta đóng kín. Khởi đầu của bài dụ ngôn này mô tả tình
trạng, là một tấm gương trung thực của những gì đã xảy ra trong thời của Chúa
Giêsu và thời ông Luca. Nó cũng là tấm gương của mọi việc đang xảy
ra hiện nay trên thế giới!
- Lc
16:22: Việc thay đổi mặc khải sự thật ẩn dấu. Người hành
khất chết đi và được các thiên thần đem lên nơi lòng tổ
phụ Abraham. Nhà phú hộ cũng chết và được đem
chôn. Trong bài dụ ngôn, người hành khất chết trước nhà phú
hộ. Đây là một lời báo trước cho nhà phú hộ. Cho đến khi
người hành khất vẫn còn sống và nằm bên cổng, thì vẫn còn cơ hội cứu rỗi cho
nhà phú hộ. Nhưng sau khi người hành khất chết đi, công cụ duy nhất
của ơn cứu rỗi cho nhà phú hộ cũng chết theo. Giờ đây, người hành khất
được ở trong lòng ông Abraham. Lòng ông Abraham là nguồn mạch của sự
sống, từ nơi đó Dân Thiên Chúa được sinh ra. Lagiarô, người hành
khất, là một phần tử của Dân Tộc Abraham, từ nơi ấy anh ta bị loại trừ trước
đó, khi anh ta nằm bên cổng nhà phú hộ. Nhà phú hộ tin tưởng rằng
ông ta là dòng dõi của Abraham thì lại không được tiến về phía vòng tay ôm của
ông Abraham! Lời giới thiệu về bài dụ ngôn kết thúc ở đây. Bây
giờ ý nghĩa của nó bắt đầu được mặc khải, qua ba lời đối thoại giữa nhà phú hộ
và Tổ Phụ Abraham.
- Lc
16:23-26: Lời đối thoại thứ nhất. Trong bài dụ ngôn, Chúa
Giêsu mở ra một cánh cửa ở phía bên kia của đời sống, phía bên Thiên
Chúa. Đó không phải là một thắc mắc về Thiên Đàng. Đó là
một thắc mắc về sự sống mà chỉ có đức tin mới tạo ra được và nhà phú hộ lại
không có đức tin nên không thể cảm nhận được. Chỉ dưới ánh sáng của
cái chết mà ý thức về sự khống chế bị tan rã và xuất hiện cho ông ta giá trị
đích thực của cuộc sống là gì. Về phần Thiên Chúa, không hề có tuyên
truyền lừa dối về tư duy, mọi thứ thay đổi. Nhà phú hộ trông thấy
người hành khất Lagiarô ở trong lòng Tổ Phụ Abraham và yêu cầu được giúp đỡ
trong sự đau khổ của mình. Nhà phú hộ khám phá ra rằng chỉ có Lagiarô
mới có thể là ân nhân của mình. Nhưng, bây giờ thì đã quá
muộn! Nhà phú hộ vô danh trở nên lễ độ, vì ông ta nhận ra ông
Abraham và gọi ông, Tổ Phụ Abraham đáp lại và gọi ông ta là
con. Trong thực tế ngôn từ này của ông Abraham được gửi đến tất cả
những người giàu có còn đang sống. Khi mà họ còn đang sống, họ có
thể là con cái của ông Abraham, nếu họ biết mở cửa cho Lagiarô, người hành
khất, người duy nhất có thể nhân danh Thiên Chúa mà giúp họ. Ơn cứu
rỗi cho người giàu có không ở trong việc Lagiarô có cho ông ta một giọt nước để
làm mát lưỡi ông ta hay không, mà đúng hơn là, ông ta, nhà phú hộ, phải mở cửa
nhà mình cho người nghèo khó để lấp đầy hố sâu to lớn đang hiện hữu.
- Lc
16:27-29: Lời đối thoại thứ hai. Nhà phú hộ nài
nỉ: ““Đã vậy, tôi nài xin cha sai Lagiarô đến nhà cha tôi, vì tôi
còn năm người anh em nữa, để ông bảo họ, kẻo họ cũng phải sa vào chốn cực hình
này”. Nhà phú hộ không muốn anh em mình sẽ phải đến cùng một chỗ đau
khổ. Lagiarô, người hành khất, là người trung gian thực sự duy nhất
giữa Thiên Chúa và người giàu có. Ông ta là người duy nhất bởi chỉ
vì người nghèo mà người giàu phải trả lại những gì họ có, và do đó, tái thiết
lập nền công lý đã bị tổn hại! Nhà phú hộ lo lắng cho các anh em của
mình, nhưng không bao giờ quan tâm đến người nghèo! Câu trả lời của
ông Abraham thì rõ ràng: “Chúng đã có Môisen và các tiên tri, chúng hãy nghe
các Ngài!” Họ có Kinh Thánh! Nhà phú hộ có Kinh
Thánh. Ông ta thuộc nằm lòng nó. Nhưng ông ta không bao
giờ nhận thức được sự thật rằng Kinh Thánh có điều gì đó liên quan đến
người nghèo. Chìa khóa mà nhà phú hộ có để có thể hiểu được Kinh
Thánh là người hành khất đang ngồi bên cổng nhà mình!
- Lc
16:30-31: Lời đối thoại thứ ba. “Không đâu, lạy Cha
Abraham! Nhưng nếu có ai trong kẻ chết về với họ, thì ắt họ sẽ hối
cải!” Nhà phú hộ nhận ra rằng ông ta đã sai lầm, ông ta đã phạm một
lỗi, bởi vì ông ta nói đến ăn năn, một điều gì đó mà ông chưa bao giờ nghe đến
trong đời. Ông ta muốn có một phép lạ, một sự sống
lại! Nhưng kiểu sống lại này không hề có. Sự sống lại duy
nhất là Chúa Giêsu. Đức Giêsu, sống lại từ cõi chết đến với chúng ta trong
con người của những người nghèo khó, những kẻ không có quyền làm người, những
kẻ không có đất đai, những kẻ không có thức ăn, những kẻ không có nhà ở, những
kẻ không có sức khỏe. Trong câu trả lời cuối cùng, ông Abraham đã
minh bạch và quả quyết, mạnh mẽ: “Nếu chúng không chịu nghe Môisen
và các tiên tri, thì cho dù kẻ chết sống lại đi nữa, chúng cũng chẳng chịu nghe
đâu!” Cuộc đối thoại kết thúc theo cách này! Đến đây chấm dứt
bài dụ ngôn!
- Chìa khóa
để hiểu được ý nghĩa của Kinh Thánh là người nghèo khó Lagiarô, đang ngồi trước
cổng nhà! Thiên Chúa tự giới thiệu mình trong con người của kẻ nghèo
khó, ngồi tại cửa nhà chúng ta, để giúp chúng ta lấp đầy hố sâu to lớn mà người
giàu có đã tạo ra. Lagiarô cũng là Chúa Giêsu, kẻ nghèo khó và là
Đấng Cứu Thế tôi tớ, Đấng đã không được chấp nhận, nhưng Đấng mà cái chết đã
hoàn toàn thay đổi mọi thứ từ gốc rễ. Và mọi việc thay đổi trong ánh
sáng của cái chết của người nghèo khó. Thậm chí nếu nhà phú hộ nghĩ
rằng ông ta có tôn giáo và đức tin, trong thực tế, thì ông ta đã không ở cùng
với Thiên Chúa, vì ông đã không mở cửa cho người nghèo khó, như ông Giakêu đã
làm (Lc 19:1-10).
4. Một vài
câu hỏi gợi ý cho việc suy gẫm cá nhân
- Tôi cư xử
với người nghèo khó ra sao? Họ có tên gọi cho chúng ta
không? Trong thái độ mà tôi có trước mặt họ, tôi đã cư xử giống như
Lagiarô hay giống như là nhà phú hộ?
- Khi người nghèo
khó tiếp cận với chúng ta, họ có cảm nhận được có cái gì đó khác thường
không? Họ có cảm nhận được Tin Mừng không? Và tôi, tôi có
xu hướng thiên về bên nào, hướng về phép lạ hay hướng về Lời Chúa?
5. Lời nguyện
kết
Phúc thay người chẳng
nghe theo lời bọn ác nhân,
Chẳng bước vào đường
quân tội lỗi,
Không nhập bọn với
phường ngạo mạn kiêu căng,
Nhưng vui thú với lề
luật CHÚA,
Nhẩm đi nhẩm lại suốt
đêm ngày.
(Tv 1:1-2)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét