29/02/2016
Thứ hai tuần 3 Mùa Chay.
BÀI ĐỌC I: 2 V 5, 1-15a
"Có nhiều
người phong cùi trong Israel, nhưng không có một người nào trong bọn họ được chữa
lành, mà chỉ có Naaman, người Syria".
Trích
sách Các Vua quyển thứ hai.
Trong những ngày ấy, Naaman, tướng đạo binh của vua
xứ Syria, là người có uy thế đối với vua và được tôn trọng, vì Chúa đã dùng ông
mà cứu dân Syria; ông còn là người hùng mạnh và giàu có, nhưng lại mắc bịnh
phong cùi. Lúc bấy giờ một vài toán dân Syria bắt một thiếu nữ ở đất Israel dẫn
về để hầu hạ bà Naaman. Cô ta nói với bà chủ: "Chớ chi ông chủ tôi đến gặp
vị tiên tri ở Samaria, chắc chắn vị tiên tri ấy sẽ chữa ông khỏi phong
cùi". Naaman đến tâu vua rằng: "Cô nhỏ xứ Israel đã nói thế này thế
này". Vua xứ Syria liền nói: "Khanh hãy đi, trẫm sẽ gởi cho vua
Israel một bức thơ". Naaman ra đi, mang theo mười lạng bạc, sáu ngàn nén
vàng và mười bộ áo. Ông trao cho vua Israel bức thơ nội dung như sau: "Khi
bức thơ này đến tay nhà vua, nhà vua biết tôi sai Naaman, tôi tớ tôi, đến với
nhà vua, để xin nhà vua chữa ông khỏi phong cùi".
Sau khi đọc bức thơ, vua Israel liền xé áo và nói:
"Ta có phải là Chúa, có thể giết chết và cho sống hay sao mà vua ấy gởi
người đến xin ta chữa lành phong cùi? Các ngươi thấy không, vua ấy tìm cớ hại
Ta đó". Khi Êlisêô, người của Thiên Chúa, nghe tin vua Israel đã xé áo
mình, nên sai người đến tâu vua rằng: "Tại sao nhà vua lại xé áo? Ông ấy cứ
đến với tôi thì sẽ biết trong Israel có một vị tiên tri".
Naaman lên xe ngựa đi, và dừng lại trước cửa nhà
Êlisêô. Tiên tri nói với Naaman rằng: "Ông hãy đi tắm bảy lần ở sông
Giođan, thì da thịt ông sẽ được lành sạch". Naaman nổi giận bỏ đi nói rằng:
"Tôi tưởng ông ấy ra đón tôi và đứng trước tôi kêu cầu danh Chúa là Thiên
Chúa của ông, rồi đặt tay lên chỗ phong cùi của tôi và chữa tôi lành mạnh. Các
con sông Abana và Pharphar ở Đamas không sạch hơn các con sông ở Israel để tôi
tắm và được lành sạch hay sao?" Ông trở về lòng đầy tức giận.
Các đầy tớ của ông đến nói với ông rằng: "Thưa
cha, vị tiên tri có yêu cầu cha làm một việc lớn lao thì cha cũng phải làm.
Phương chi bây giờ người bảo cha: 'Hãy đi tắm, thì được sạch' ". Naaman xuống
tắm bảy lần ở sông Gio-đan như lời tiên tri, người của Thiên Chúa dạy, da thịt
ông lại trở nên tốt như da thịt của đứa trẻ, và ông được sạch.
Sau đó ông và đoàn tuỳ tùng trở lại gặp người của
Thiên Chúa. Đến nơi, ông đứng trước mặt người của Thiên Chúa và nói: "Thật
tôi biết không có Thiên Chúa nào khác trên hoàn vũ, ngoài một Thiên Chúa ở
Israel". Đó là lời Chúa.
ĐÁP
CA: Tv 41, 2. 3, và Tv 42, 3. 4
Đáp:
Hồn con khát Chúa Trời, Chúa Trời hằng sống, ngày nào con được tìm về ra
mắt Chúa Trời? (x. Tv 41, 3)
1) Như nai rừng khát mong nguồn nước, hồn con khát
Chúa, Chúa Trời ôi! - Đáp.
2) Hồn con khát Chúa Trời, Chúa Trời hằng sống,
ngày nào con được tìm về ra mắt Chúa Trời? - Đáp.
3) Xin chiếu giãi quang minh và chân thực của
Chúa, để những điều đó hướng dẫn con, đưa con lên núi thánh và cung lâu của
Ngài. - Đáp.
4) Con sẽ tiến tới bàn thờ Thiên Chúa, đến
cùng Thiên Chúa làm cho con được hoan hỉ, mừng vui. Với cây cầm thụ con sẽ ca
ngợi Chúa, ôi Chúa là Thiên Chúa của con. - Đáp.
CÂU XƯỚNG
TRƯỚC PHÚC ÂM: Tv 129, 5 và 7
Con
trông cậy Chúa, con mong đợi lời hứa của Chúa, vì nơi Chúa sẵn có lòng từ bi và
chan chứa ơn cứu độ.
PHÚC
ÂM: Lc 4, 24-30
"Như Elia
và Elisêô, Chúa Giêsu không phải chỉ được sai đến người Do-thái mà thôi
đâu".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Luca.
(Khi Chúa Giêsu đến thành Nadarét, Ngài nói với dân
chúng tụ họp trong hội đường rằng): "Quả thật, Ta bảo các ngươi, chẳng có
một tiên tri nào được tiếp đón tử tế ở quê hương mình. Ta bảo các ngươi, chắc hẳn
trong thời Elia có nhiều bà goá ở Israel, khi trời hạn hán và một nạn đói lớn
hoành hành khắp nước suốt ba năm sáu tháng, nhưng Elia không được sai đến với một
người nào trong bọn họ, mà chỉ được sai đến với một bà goá ở Sarépta xứ Siđôn
thôi. Cũng có nhiều người phong cùi trong Israel thời tiên tri Elisêô, nhưng
không một người nào trong bọn họ được chữa lành, mà chỉ có Naaman, người
Syria".
Vừa nghe đến đó, mọi người trong hội đường đều đầy
phẫn nộ. Họ đứng dậy, đẩy Người ra khỏi thành và dẫn Người đến một triền đồi,
nơi họ xây thành, để xô Người xuống vực. Nhưng Người tiến qua giữa họ mà đi. Đó
là lời Chúa.
Suy Niệm: Quê Hương Ngược Ðãi Chúa
Một trong những cuốn phim do diễn viên tài ba về kịch
câm, Marxel Marxor thủ diễn có kể câu chuyện như sau:
Một thanh niên đang lim dim đôi mắt tận hưởng những
giây phút tắm nắng tuyệt vời trong một ngày đẹp trời. Nhưng rồi bỗng nhiên niềm
vui của anh bị gián đoạn do tiếng ồn ào của đám trẻ, tiếng chó, tiếng người qua
lại và cả tiếng chim hót. Mọi tiếng động đều có nguyên do và niềm vui riêng của
nó. Tuy nhiên, đối với chàng thanh niên, tất cả đã trở thành cực hình.
Ðể chống lại sự phiền muộn ấy, anh ta xây quanh mình
một bức tường ngăn cách âm thanh. Mỗi tiếng động vụt tới là mỗi lần anh gắng sức
xây, cứ thế mà bức tường lớn dần, cao dần cho đến khi ngưng tất cả mọi tiếng động
thì bức tường ấy che mất ánh nắng mặt trời tuyệt vời kia. Bức tường thành một
chiếc mồ giam chặt, nhốt kín anh vào trong đó.
Anh chị em thân mến!
Dân tộc Do thái cũng đã được tắm gội ánh sáng. Ðó là
niềm tin được trao từ tổ phụ Abraham. Tuy nhiên, vì tự mãn và ích kỷ, họ đã
hành động chẳng khác gì chàng thanh niên trên. Không chịu mở lòng đón nhận, khiến
niềm tin của họ trở thành khô cằn mất sức sống, xây lên bức tường để bảo vệ
mình, hóa ra tự hại lấy mình. Chúa Giêsu đã chỉ trích thái độ này qua bài Tin Mừng
của thánh Luca (Lc 4,24-30).
Anh chị em thân mến!
Người Do thái trong hội đường Nazareth đã tìm cách
hãm hại Chúa Giêsu khi Ngài lên tiếng chê trách niềm tin của họ. Có lẽ ai trong
chúng ta cũng bất bình về việc làm của những người này. Nhưng kỳ thực trong cuộc
sống, lắm lúc chúng ta đã sao chép lại nguyên bản việc làm ấy: tự hào là người
Kitô hữu, là người nắm giữ niềm tin, nhưng rồi với một mớ lễ nghi hình thức, niềm
tin trong chúng ta chỉ là ngọn đèn leo lét chực tắt trước gió. Chỉ là thân cây
mất hết nhựa sống chờ ngày gẫy đổ. Ðây là một thứ niềm tin mà Ðức cố Hồng Y
Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, tác giả tập sách "Ðường Hy Vọng" đã
nhắc nhở:
"Nhiều người nói: "Tôi có đức tin, tôi còn
đức tin". Có lẽ đức tin là đức tin của giấy khai sinh, không phải là đức
tin của đời sống. Con đừng bao giờ mãn nguyện với một đức tin hình thức và lý
thuyết. Nhưng con phải sống một đức tin chân thật và trung thành. Tự mãn với
chính mình mà không chịu mở lòng đón nhận, khiến người Do thái đã mất Chúa
Giêsu, nền tảng của niềm tin, Ðấng mà họ đang ngóng chờ".
Cũng thế, Kitô hữu nếu chỉ đóng khung trong những
nghi thức, tuân giữ luật lệ, thì sớm muộn gì họ cũng xa rời đức tin là nguồn mạch
sự sống. Vì sống là gì, nếu không là một sự thay đổi luôn luôn. Con người sẽ chết
khi một hệ tuần hoàn không lưu chuyển, hay hệ thần kinh không vận động. Ðối với
đức tin cũng vậy, luôn luôn đòi hỏi một sự trao đổi với Thiên Chúa và với anh
em.
Nếu đối với người Kitô hữu, tin trước hết là được cứu
rỗi, được tha thứ, được yêu thương vô cùng. Chúa không phải là Ðấng bắt con phải
kính mến, nhưng Chúa là Ðấng mà con phải để cho Ngài yêu thương con vô cùng. Nắm
được đức tin, con phân biệt đâu là đường hy vọng của tâm hồn tông đồ, đâu là lối
chết của thế gian. Tin là chấp nhận Chúa Giêsu vô điều kiện và quyết tâm sống
chết với Ngài.
Quyết tâm sống chết với Ðức Kitô cần có một thao thức
tìm kiếm. Quyết tâm sống chết với Ðức Kitô đòi buộc phải trao đổi, cảm thông với
anh em, vì Ngài đang hiện diện trong những người anh em ấy.
Lạy Chúa, trong Mùa Chay thánh này, xin cho con được
biết trở về. Trở về, trước hết chính ngay căn bản niềm tin của con. Một đức tin
không có cùng trong những hiểu biết lý thuyết hoặc những nguyên tắc nghi lễ,
nhưng biết mở rộng tâm hồn để đón nhận, để rồi con sẽ hiểu đâu là ý nghĩa đích
thực của đời sống đức tin. Amen.
Veritas Asia
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Thứ
Hai Tuần III MC
Bài
đọc: II Kgs 5:1-15a; Lk 4:24-30.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại
quê hương mình.
Con người thường dễ nản chí tức giận, sau khi đã cố
gắng hết sức để yêu thương lo lắng cho người thân yêu, mà họ vẫn vô tâm và làm
cho mình phải đau khổ hơn nữa. Các Bài Đọc hôm nay nói lên những đối xử vô ơn tệ
bạc của con người với Thiên Chúa.
Trong Bài Đọc I, Sách Các Vua II tường thuật sự kiện
tiên tri Elisha chữa khỏi bệnh cùi cho Naaman, tướng Syria. Mặc dù là một người
Dân-ngọai và kẻ thù của Israel, nhưng ông đã thú nhận “không có một Thiên Chúa
nào khác trừ Thiên Chúa của Israel.” Trong Phúc Âm, mặc dù Chúa Giêsu đã dùng lịch
sử để vạch ra sự vô ơn và hậu quả của sự cứng lòng, người Do-Thái vẫn ngoan cố
không chịu sửa đổi, còn mang Chúa lên đỉnh núi và xô Ngài xuống vực thẳm.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài
đọc I: Tiên tri Elisha chữa Naaman khỏi bệnh cùi.
1.1/ Hai con người Israel, hai niềm tin:
(1) Người nữ tỳ của vợ ông Naaman: Cô không ghét chủ
vì đã bắt mình làm nô lệ; trái lại, cô còn muốn sự tốt lành cho chủ, kẻ thù của
Israel. Cô tuyệt đối tin tưởng và hy vọng nơi Thiên Chúa sẽ chữa lành qua
tiên-tri Elisha. Đây là một hành động nguy hiểm; vì nếu Naaman không khỏi, cô sẽ
mất mạng vì đã đánh lừa ông.
(2) Vua Israel: luôn ở trong tình trạng nghi ngờ và
sợ sệt người khác muốn làm hại mình. Khi vua Israel đọc xong thư của vua Aram
thì xé áo mình ra và nói: "Ta đâu có phải là vị thần cầm quyền sinh tử, mà
ông ấy lại sai người này đến nhờ ta chữa hắn khỏi bệnh phung hủi? Các ngươi phải
biết, phải thấy rằng ông ấy muốn sinh sự với ta." Là vua trong nước, mà
vua chẳng biết, và chắc cũng chẳng quan tâm có tiên-tri Elisha, người của Thiên
Chúa có quyền năng chữa bệnh, đang ở trong nước mình. Chính tiên-tri Elisah,
khi nghe biết là vua Israel đã xé áo mình ra, thì sai người đến nói với vua:
"Sao vua lại xé áo mình ra? Người ấy cứ đến với tôi, thì sẽ biết là có một
ngôn sứ ở Israel."
1.2/ Niềm tin của Naaman được củng cố bởi các đầy tớ
của ông.
(1) Phải khiêm nhường: Kiêu ngạo vì muốn giữ thể diện
hay vì tự ái dân tộc là những lý do làm con người không nhận ra và không lãnh
nhận được hồng ân Thiên Chúa. Ông Naaman tức giận vì tiên-tri Elisha không thân
hành ra tiếp ông, nhưng qua sứ giả. Ông cần người tiên tri làm ơn, chứ tiên tri
đâu có cầu ơn ông đâu mà phải thân hành ra tiếp. Điều vô lý nữa là ông Naaman
đã có sẵn trong đầu những gì tiên tri phải làm để chữa ông, và tức giận khi
tiên-tri không làm như thế. Đã bao nhiêu lần chúng ta cũng có sẵn những ý tưởng
trong đầu và muốn Thiên Chúa cũng như tha nhân phải thi hành như vậy để giúp
ta! Sau cùng, ông cũng hãnh diện hão về các con sông trong xứ sở của mình: “Nước
các sông Avana và Pharpar ở Damascus chẳng tốt hơn tất cả nước sông ở Israel sao?
Ta lại không thể tắm ở các sông ấy để được sạch hay sao?"
(2) Phải bình tĩnh để nhận ra điều đơn giản (common
sense) của cuộc sống: Có những điều quá thông thường mà khi con người nóng giận,
họ sẽ không nhìn ra. Khi thấy chủ mình tức tối bỏ về, các tôi tớ của ông đến gần
và nói: "Cha ơi, giả như ngôn sứ bảo cha làm một điều gì khó, cha có thể
có lý do không làm! Đàng này ngôn sứ chỉ nói: Ông hãy đi tắm, thì sẽ được sạch!"
Nhận ra sự nóng giận vô lý của mình, ông xuống dìm mình bảy lần trong sông
Jordan, theo lời người của Thiên Chúa. Da thịt ông lại trở nên như da thịt một
trẻ nhỏ. Ông đã được sạch.
(3) Naaman tuyên bố niềm tin vào Thiên Chúa: Cùng với
đoàn tuỳ tùng, ông trở lại gặp người của Thiên Chúa. Lần này Ông vào, đứng trước
mặt tiên-tri và nói: "Nay tôi biết rằng: trên khắp mặt đất, không đâu có
Thiên Chúa, ngoại trừ ở Israel.”
Điều trớ trêu là một tướng ngọai bang, kẻ thù của
Do-thái lại có đức tin hơn một ông vua của Do-thái. Ông tin vào một nữ tỳ và lặn
lội lên đường đi tìm đến người của Thiên Chúa là tiên-tri Elisha. Ông được chữa
lành và tuyên xưng niềm tin của ông vào Thiên Chúa.
2/
Phúc Âm: Không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình.
2.1/ Chúa dạy dân bài học lịch sử: Trình thuật
hôm nay tiếp tục tường thuật cuộc trở về Nazareth, quê hương của của Chúa
Giêsu. Sau khi đọc Sách tiên-tri Isaiah, khán giả đồng hương ngồi xuống, và
Chúa bắt đầu rao giảng. Thay vì là một cuộc vinh quy bái tổ, họ bắt đầu khinh
thường Chúa. Ngài mời họ nhìn lại lịch sử để đừng tái diễn những điều không nên
làm. Người nói tiếp: "Tôi bảo thật các ông: không một ngôn sứ nào được chấp
nhận tại quê hương mình.” Chúa Giêsu dẫn chứng lời Ngài nói bằng hai ví dụ:
(1) Tiên-tri Elijah cho hũ bột của bà góa tại
Zarepta, Sidon, không cạn: "Thật vậy, tôi nói cho các ông hay: vào thời
ông Elijah, khi trời hạn hán suốt ba năm sáu tháng, cả nước phải đói kém dữ dội,
thiếu gì bà goá ở trong nước Israel; thế mà ông không được sai đến giúp một bà
nào cả, nhưng chỉ được sai đến giúp bà goá thành Zarepta miền Sidon.”
(2) Tiên-tri Elisha chữa Naaman, tướng Syria, khỏi bệnh
cùi: “Cũng vậy, vào thời ngôn sứ Elisah, thiếu gì người phong hủi ở trong nước
Israel, nhưng không người nào được sạch, mà chỉ có ông Naaman, người xứ Syria
thôi."
2.2/ Lịch sử tái diễn: “Nghe vậy, mọi
người trong hội đường đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành - thành
này được xây trên núi. Họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực.
Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi.”
- Không giống Naaman, họ không kiềm chế được tính
kiêu ngạo, nóng giận. Họ nghĩ là Chúa Giêsu xúc phạm tới danh dự dân tộc của họ.
Thực sự, Chúa Giêsu chỉ muốn giúp họ nhìn ra sự thật; nhưng họ từ chối không
làm.
- Không giống Naaman, họ không nhìn ra những đơn giản
của cuộc sống. Lịch sử dạy con người những bài học quí giá: Hãy nhìn gương của
những người đi trước; nếu họ làm những quyết định khôn ngoan sinh lợi ích, hãy
bắt chước; nếu họ làm những quyết định điên rồ, đừng bắt chước họ làm như vậy.
Điều trớ trêu là cũng một Bà gốc Phoenician, có con
gái bị quỉ ám ở Sidon, kiên nhẫn tin tưởng vào Chúa Giêsu đến độ câu trả lời của
Bà làm Chúa Giêsu phải ngạc nhiên và chữa lành con gái Bà: “Vâng, nhưng chó con
cũng được ăn những thứ từ trên bàn của chủ rơi xuống!” Trong khi những người đồng
hương với Chúa, đã không tin tưởng, còn tức giận xô Chúa xuống vực thẳm! Sự thật
phũ phàng, khó tin, nhưng vẫn đang xảy ra!
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Khi nào chúng ta cảm thấy nản chí, muốn bỏ cuộc
trong việc yêu thương và giúp dỡ người khác; hãy nhớ Lời Chúa nói: “Không một
ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình.”
- Nếu Chúa đã làm ơn và bị đối xử như thế, chúng ta
là môn đệ Ngài cũng phải đồng chịu số phận. Nhớ rằng chúng ta chưa chịu vô ơn đến
độ treo thân trên Thập Giá.
- Điều này giúp mở mắt chúng ta để nhận ra những hồng
ân Thiên Chúa và những sự giúp đỡ của tha nhân không ngừng đổ trên ta; để đừng
bao giờ đối xử vô ơn tệ bạc với người thi ơn như vậy.
Lm.
Anthony ĐINH MINH TIÊN,OP.
29/02/16 THỨ HAI TUẦN 3
MC
Lc 4,24-30
Lc 4,24-30
Suy niệm: A.
Schopenhauer, một triết gia vô thần, chủ trương thế giới hiện tượng này là sản
phẩm của một ý chí mù quáng; ông cho rằng mọi sự thật đều trải qua giai đoạn bị
chế diễu, bị chống đối và mãi đến giai đoạn cuối cùng mới được công nhận là
hiển nhiên. Có vẻ những người đồng hương của Chúa đang đi theo lối mòn đó: Họ
giận dữ với Ngài vì Ngài dám nói lên sự thật: Thiên Chúa là Chúa của các dân
tộc, chứ không phải của riêng dân Do Thái. Ngài ban ơn cho cả những người dân
ngoại như người đàn bà góa ở Si-đôn, hay cho Na-a-man, quan chức người Xy-ri-a.
Hôm nay cũng vậy, Đức Giê-su không dành ưu tiên cho người đồng hương Na-da-rét
hay người Do Thái. Tin Mừng Nước Trời của Ngài phải được dành cho mọi dân tộc
trên trái đất này.
Mời Bạn: Người
Na-gia-rét phạm sai lầm vì đã dừng lại giữa đường trong khi tìm kiếm sự thật.
Vì thế, họ đánh mất cơ hội nhận ra Đấng Cứu Thế. Bạn hãy tránh đi vào vết xe đổ
ấy mỗi khi đi tìm kiếm một sự thật: sự thật về Chúa, về mình, về người anh em,
để“Sự
thật sẽ giải phóng anh em” (Ga
8,32).
Sống Lời Chúa: Tôi
tập bình tĩnh, không bực tức khi được nghe nói một sự thật về mình, để rồi dần
dần sẽ nhận thấy sự thật ấy quá rõ ràng với mình.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, Chúa can đảm đối diện với những chống đối khi loan
báo Tin Mừng Nước Trời, dù lắm lúc suýt mất mạng vì sự can đảm ấy. Xin ban ơn
nâng đỡ con, để con cũng không ngại ngùng khi gặp những thách đố, chống đối,
chê cười trong lúc thi hành sứ vụ của Chúa giao phó. Chúa là thành lũy của con.
Amen.
Băng qua giữa họ mà đi
Đức Giêsu chẳng bao giờ coi thường Nazareth, quê
nhà của mình. Nhưng sứ mạng của Ngài trải rộng hơn Nazareth nhiều.
Suy
niệm:
Trong
Mùa Chay Giáo Hội cho chúng ta nghe
về
kết cục khá bất ngờ và đau đớn của Đức Giêsu
khi
Ngài trở về với hội đường của làng Nazareth thân quen.
Nơi
đây Ngài gặp lại những người đồng hương.
Họ
ngỡ ngàng trước những lời Ngài giảng.
Họ
muốn Ngài làm những điều Ngài đã làm ở Caphácnaum (Lc 4, 23).
Nhưng
Đức Giêsu đã đáp lại bằng câu tục ngữ:
“Không
một ngôn sứ nào được chấp nhận nơi quê nhà của mình” (c. 24).
Đức
Giêsu tự nhận mình là một ngôn sứ.
Như
những ngôn sứ khác trong lịch sử Israel,
Ngài
cũng không được đón nhận và tin tưởng bởi những người cùng quê.
Họ
nghĩ mình đã quá biết Ngài, biết gia tộc, biết nghề nghiệp,
biết
quá khứ từ ấu thơ đến lúc trưởng thành.
Chính
cái biết ấy, đúng nhưng không đủ,
lại
trở thành một chướng ngại cho việc họ nhận ra Ngài thật sự là ai.
“Ông
này không phải là con ông Giuse sao?” (Lc 4, 22).
Đúng
Ngài là con ông Giuse, một người thợ mộc.
Đúng
ngài là ông thợ mộc độc thân người làng Nazareth.
Giêsu
Nazareth là tên được ghi trên thập tự,
Nazareth
sẽ mãi mãi đi với tên Ngài để phân biệt ngài với những Giêsu khác.
Đức
Giêsu chẳng bao giờ coi thường Nazareth, quê nhà của mình.
Ngài
quen biết những khuôn mặt trong hội đường này và yêu mến họ.
Nhưng
sứ mạng của Ngài trải rộng hơn Nazareth nhiều.
Ngài
cho thấy mình không bị trói buộc bởi mối dây làng xã,
cũng
không bị giữ chân bởi những người đồng bào cùng tôn giáo.
Để
biện minh cho thái độ rộng mở của mình,
Đức
Giêsu đã nhắc đến hành động của hai vị ngôn sứ thời Cựu Ước.
Êlia,
vị ngôn sứ đầy quyền năng, được Thiên Chúa sai đến với một bà góa.
Bà
này là một người dân ngoại sống ở Siđôn vùng dân ngoại.
Êlisa,
vị ngôn sứ học trò của Êlia, đã chữa bệnh phong cho Naaman.
Ông
này là người dân ngoại, chỉ huy đạo quân của Syria.
Như
thế các vị ngôn sứ nổi tiếng đã không bị bó hẹp trong dân Do thái.
Họ
đã mở ra với dân ngoại.
Đức
Giêsu cũng chẳng bị giới hạn bởi bất cứ biên cương nào.
Ngài
chẳng dành cho quê nhà Nazareth một ưu tiên nào.
Phải
chăng vì thế mà Ngài làm họ phẫn nộ đến độ muốn xô Ngài xuống vực?
Nỗi
đe dọa lại đến từ chính những người đồng hương.
Làm
sao chúng ta nhận ra và chấp nhận những ngôn sứ bề ngoài rất bình thường
đang
sống trong cộng đoàn chúng ta hôm nay?
Cầu
nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
dân
làng Nazareth đã không tin Chúa
vì
Chúa chỉ là một ông thợ thủ công.
Các
môn đệ đã không tin Chúa
khi
thấy Chúa chịu treo trên thập tự.
Nhiều
kẻ đã không tin Chúa là Thiên Chúa
chỉ
vì Chúa sống như một con người,
Cũng có lúc chúng con không tin Chúa
hiện
diện dưới hình bánh mong manh,
nơi
một linh mục yếu đuối,
trong
một Hội thánh còn nhiều bất toàn.
Dường như Chúa thích ẩn mình
nơi
những gì thế gian chê bỏ,
để
chúng con tập nhận ra Ngài
bằng
con mắt đức tin.
Xin thêm đức tin cho chúng con
để
khiêm tốn thấy Ngài
tỏ
mình thật bình thường giữa lòng cuộc sống.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Lectio Divina: Luca 4:24-30
Thứ Hai, 29 Tháng 2,
2016
Thứ Hai Tuần III Mùa
Chay
1. Lời nguyện
mở đầu
Lạy Thiên Chúa thánh
thiện và công chính,
Là Chúa Cha yêu thương
của chúng con
Chúa đã ban cho chúng
con tình bạn từ bàn tay của Chúa
Và Chúa đã sai Con Một
Chúa là Đức Giêsu
Để đi với chúng con
trên con đường vâng phục và trung tín.
Lạy Chúa, chúng con
thường làm tổn thương tình bằng hữu này,
Chúng con hành xử như
thể chúng con không phải là con cái Chúa.
Xin Chúa hãy nhìn đến
dáng vẻ xấu hổ trên mặt chúng con.
Xin Chúa hãy tha thứ
cho chúng con, vì chúng con trông cậy vào Chúa.
Xin Chúa hãy nhận tâm
tình tri ân của chúng con
Vì Chúa tiếp tục đón
nhận những bất toàn của chúng con
Và yêu thương chúng
con cho dù chúng con tội lỗi.
Chúng con cầu xin nhờ
Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con.
2. Phúc Âm – Luca 4:24-30
(Khi Chúa Giêsu đến thành Nagiarét,)
Ngài nói với dân chúng tụ họp trong hội đường rằng: “Quả thật, Ta
bảo các ngươi, chẳng có một tiên tri nào được tiếp đón tử tế ở quê hương
mình.
Ta bảo các ngươi, chắc hẳn trong thời
Êlia có nhiều bà góa ở Israel, khi trời hạn hán và một nạn đói lớn hoành hành
khắp nước suốt ba năm sáu tháng, nhưng Êlia không được sai đến với một người
nào trong bọn họ, mà chỉ được sai đến với một bà góa ở Sarépta xứ Siđôn thôi. Cũng
có nhiều người phong cùi trong Israel thời tiên tri Êlisêô, nhưng không một
người nào trong bọn họ được chữa lành, mà chỉ có Naaman, người Syria”.
Vừa nghe đến đó, mọi người trong hội
đường đều đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy, đẩy Người ra khỏi thành và dẫn
Người đến một triền đồi, nơi họ xây thành, để xô Người xuống vực. Nhưng
Người tiến qua giữa họ mà đi.
3. Suy Niệm
- Bài Tin
Mừng hôm nay (Lc 4:24-30) là một phần của câu chuyện ghi lại việc rao giảng của
Chúa (Lc 4:14-32). Đức Giêsu đã trình bày chương trình của Người
trong hội đường tại Nagiarét, trích lời từ sách tiên tri Isaia nói về người
nghèo, các tù nhân, người mù và những kẻ bị áp bức (Is 61:1-2) phản ảnh tình
trạng người dân miền Galilê vào thời Chúa Giêsu. Nhân danh Thiên Chúa,
Đức Giêsu cho biết lập trường và xác định sứ vụ của Người: loan báo
Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, công bố sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, đem lại
ánh sáng cho người mù, trả lại tự do cho kẻ bị áp bức. Sau khi đọc
xong, Chúa đã thêm vào văn bản và nói: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời
Kinh Thánh tai các ngươi vừa nghe!” (Lc 4:21). Tất cả những người có
mặt ở đó đã tán thành và thán phục (Lc 4: 16, 22a). Nhưng ngay lập
tức sau đó đã có phản ứng nghi ngờ. Những người trong Hội Đường đã cảm
thấy chướng tai gai mắt và không muốn biết gì về Chúa Giêsu. Họ bảo
nhau: “Ông này không phải là con ông Giuse đó sao?” (Lc
4:22b). Tại sao họ lại cảm thấy chướng tai gai mắt? Đâu
là lý do cho phản ứng bất ngờ này?
- Bởi vì
Chúa Giêsu đã chỉ trích dẫn lời của tiên tri Isaia cho đến phần nói
rằng: “công bố một năm hồng ân của Đức Chúa”, và Người bỏ qua phần cuối
của câu ấy rằng: “công bố một ngày báo phục của Thiên Chúa chúng ta” (Is
61:2). Người dân làng Nagiarét ngạc nhiên bởi vì Chúa Giêsu bỏ qua
chữ ngày báo phục. Họ muốn Tin Mừng trả lại tự do cho những kẻ bị áp
bức phải là một hành động trả thù của Thiên Chúa đối với những kẻ đi áp
bức. Trong trường hợp này, Nước Thiên Chúa sắp đến sẽ chỉ là một
thay đổi bề ngoài, và không là một thay đổi hoặc chuyển đổi của guồng
máy. Chúa Giêsu không chấp nhận cách suy nghĩ này. Kinh
nghiệm của Đức Giêsu về Chúa Cha giúp cho Người hiểu rõ hơn ý nghĩa của những
lời tiên tri. Chúa cất đi sự trả thù. Dân làng Nagiarét
không chấp nhận lời đề nghị đó và thẩm quyền của Chúa Giêsu bắt đầu suy
giảm: “Ông này không phải là con ông Giuse đó
sao?”
- Lc
4:24: Chẳng có một tiên tri nào được tiếp đón tử tế ở quê hương
mình. Người dân làng Nagiarét ghen tỵ vì những phép lạ mà Chúa Giêsu đã
làm tại Cápernaum, bởi vì Người đã không làm cho họ ở Nagiarét. Chúa
Giêsu trả lời: “Chẳng có một tiên tri nào được tiếp đón tử tế ở quê hương
mình!” Thật ra, họ không chấp nhận hình ảnh mới về Thiên Chúa mà Đức
Giêsu đã truyền đạt cho họ thông qua cách giải thích mới và uyển chuyển hơn về
lời của tiên tri Isaia. Sứ điệp về Thiên Chúa của Đức Giêsu đã vượt
quá lằn ranh của dân tộc Do Thái và đã mở ra để tiếp đón những người bị loại
trừ và toàn thể nhân loại.
- Lc
4:25-27: Hai câu chuyện của Cựu Ước. Để giúp cho cộng
đoàn vượt qua được lời gièm pha và hiểu được tính phổ quát của Thiên Chúa, Đức
Giêsu dùng hai câu chuyện nổi tiếng của Cựu Ước: một của tiên tri
Êlia và một của tiên tri Êlisêô. Qua những câu chuyện này, Người phê phán
dân làng Nagiarét là những kẻ đã sống khép kín cho riêng mình. Tiên
tri Êlia đã được sai đến với một bà góa thuộc dân ngoại tại Sarépta (1V
17:7-16). Tiên tri Êlisêô đã được sai đến để chăm sóc cho dân ngoại
ở Syria (2V 5:14).
- Lc
4:28-30: Họ định xô Người xuống vực, nhưng Người tiến qua
giữa họ mà đi. Những điều Chúa Giêsu nói ra đã không trấn tĩnh được dân
làng. Trái lại là đàng khác! Việc dùng hai đoạn Kinh
Thánh này cũng đã làm cớ cho họ lại càng tức giận hơn. Người dân
làng Nagiarét đã đạt đến điểm muốn giết Đức Giêsu. Và do đó, vào tại
thời điểm mà Người trình bày dự án của mình là đón nhận những kẻ bị gạt ra
ngoài lề xã hội, thì chính Chúa Giêsu lại bị loại trừ! Nhưng Người
vẫn giữ bình tĩnh! Sự tức giận của những người khác đã không làm cho
Chúa thay đổi ý định của mình. Theo cách này, thánh Luca chỉ ra rằng
thật khó mà vượt qua được tâm lý được đặc quyền đã khiến cho người ta chỉ sống
cho riêng mình. Và ông đã cho thấy rằng thái độ luận chiến của Dân
Ngoại đã hiện hữu vào thời Chúa Giêsu. Đức Giêsu đã có những khó
khăn tương tự mà cộng đoàn người Do Thái đã gặp trong thời của thánh
Luca.
4. Một vài
câu hỏi gợi ý cho việc suy gẫm cá nhân
- Chương
trình của Chúa Giêsu cũng có là chương trình của tôi, của chúng ta
không? Thái độ của tôi thì giống như Chúa Giêsu hay giống như dân
làng Nagiarét?
- Ai là những kẻ
bị loại trừ mà chúng ta nên đón nhận vào trong cộng đoàn chúng ta?
5. Lời nguyện
kết
Mảnh hồn này khát khao
mòn mỏi
Mong tới được khuôn
viên đền vàng.
Cả tấm thân con cùng
là tấc dạ
Những hướng lên Chúa
Trời hằng sống mà hớn hở reo mừng.
(Tv 84:2)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét