25/05/2016
Thứ Tư tuần 8 thường niên
Bài Ðọc
I: (Năm II) 1 Pr 1, 18-25
"Anh em được cứu độ bằng máu châu báu của Ðức
Kitô, Con Chiên tinh tuyền".
Trích thư thứ nhất của Thánh Phêrô Tông đồ.
Anh em thân mến, anh em biết rằng không phải bằng
vàng bạc hay hư nát mà anh em đã được cứu chuộc khỏi nếp sống phù phiếm tổ truyền,
nhưng bằng máu châu báu của Ðức Kitô, Con Chiên tinh tuyền, không tì ố. Người
đã được tiền định trước khi tác thành vũ trụ và được tỏ bày trong thời sau hết
vì anh em. Nhờ Người, anh em tin vào Thiên Chúa, Ðấng làm cho Người sống lại từ
cõi chết, và ban vinh quang cho Người để anh em đặt cả lòng tin và niềm hy vọng
nơi Thiên Chúa.
Khi anh em thánh hoá linh hồn anh em trong sự vâng
phục đức ái, trong tình bác ái huynh đệ, anh em hãy thật lòng yêu mến nhau với
một tâm hồn đơn sơ. Anh em đã được tái sinh không phải do hạt giống hay hư nát,
mà là do hạt giống không hư nát, nhờ lời Thiên Chúa hằng sống và tồn tại muôn đời.
Vì chưng xác phàm chẳng qua là cỏ rác và tất cả vinh quang của nó ví như hoa cỏ:
cỏ thì khô cháy và hoa rũ tàn, còn lời Chúa thì tồn tại muôn đời. Ðó là Tin Mừng
đã rao giảng cho anh em.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 147, 12-13. 14-15. 19-20.
Ðáp: Giêrusalem
hỡi, hãy ngợi khen Chúa (c. 12a).
Xướng: 1) Giêrusalem hỡi, hãy ngợi khen Chúa. Hãy ngợi
khen Thiên Chúa của ngươi, hỡi Sion! vì Người giữ chặt các then cửa ngươi, Người
chúc phúc cho con cái ngươi trong thành nội. - Ðáp.
2) Người đã sai lời Người xuống cõi trần ai, và lời
Người lanh chai chạy rảo. Người khiến tuyết rơi như thể lông cừu, Người gieo rắc
sương đông như tro bụi trắng. - Ðáp.
3) Người đã loan truyền lời Người cho Giacóp, những
thánh chỉ và huấn lệnh Người cho Israel. Người đã không làm cho dân tộc nào như
thế, Người đã không công bố cho họ các huấn lệnh của Người. - Ðáp.
Alleluia:
Tv 129, 5
Alleluia, alleluia! - Con hy vọng rất nhiều vào
Chúa, linh hồn con trông cậy ở lời Chúa. - Alleluia.
Phúc
Âm: Mc 10, 32-45
"Giờ đây chúng ta lên Giêrusalem và Con Người sẽ
bị nộp".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, các môn đệ và Chúa Giêsu lên đường đi
Giêrusalem, Chúa Giêsu dẫn đầu đi trước họ, và các ông hết sức bỡ ngỡ, những
người theo sau thì sợ hãi. Người gọi mười hai ông lại gần và nói cho các ông biết
những gì sẽ xẩy đến cho Người: "Giờ đây chúng ta lên Giêrusalem và Con Người
sẽ bị nộp cho các thượng tế, các luật sĩ và các kỳ lão. Họ sẽ kết án tử hình
Người và nộp Người cho dân ngoại. Họ sẽ nhạo cười Người, phỉ nhổ vào Người,
đánh đòn và giết Người, và ngày thứ ba Người sẽ sống lại".
Giacôbê và Gioan, con ông Giêbêđê, đến gần Người và
thưa Người rằng: "Lạy Thầy, chúng con muốn Thầy ban cho chúng con điều
chúng con sắp xin Thầy". Người đáp: "Các con muốn Thầy làm gì cho các
con?" Các ông thưa: "Xin cho chúng con một người ngồi bên hữu, một
người ngồi bên tả Thầy trong vinh quang của Thầy". Chúa Giêsu bảo:
"Các con không biết các con xin gì. Các con có thể uống chén Thầy sắp uống
và chịu cùng một phép rửa Thầy sắp chịu không?" Các ông đáp: "Thưa được".
Chúa Giêsu bảo: "Chén Thầy uống, các con cũng sẽ uống, và phép rửa Thầy sắp
chịu, các con cũng sẽ chịu. Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì không
thuộc quyền Thầy ban, nhưng là dành cho những ai đã được chỉ định". Mười
môn đệ khác nghe chuyện đó liền bực tức với Giacôbê và Gioan. Chúa Giêsu gọi
các ông lại gần mà bảo: "Các con biết rằng những người được coi là lãnh tụ
các nước thì sai khiến dân chúng như ông chủ, và những người làm lớn thì lấy uy
quyền mà trị dân. Còn các con không như thế. Trái lại, ai trong các con muốn
làm lớn, thì hãy tự làm đầy tớ anh em. Và ai muốn thành người cầm đầu trong các
con, thì hãy tự làm nô lệ cho mọi người. Vì chính Con Người cũng không đến để
được phục vụ, nhưng để phục vụ và ban mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều
người".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm:
Tiên báo cuộc Tử Nạn
Dù không có ghi lại những chỉ dẫn địa lý chính xác,
người ta cũng biết rằng Chúa Giêsu đang tiến đến gần các biến cố trọng yếu của
định mệnh Ngài. Ngài đã băng ngang vùng Galilê từ Bắc tới Nam. Thánh sử Marcô
đã nhấn mạnh hành trình lên Yêrusalem này qua ba lần loan báo về cuộc khổ nạn của
Chúa Giêsu, và đây là lần loan báo thứ ba.
Thật vậy, trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đề
cập đến cái chết của Ngài như một con đường tất yếu phải đi qua. Giữa lúc mọi
người đang thán phục về những lời rao giảng và các phép lạ của Ngài, giữa lúc mọi
người đang chờ những điều phi thường hơn nữa, thì Chúa Giêsu lại tuyên bố:
"Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, sẽ bị đánh đòn và bị giết chết".
Chết là điều tất yếu của thân phận làm người. Ðã nhập
thể làm người, Chúa Giêsu cũng không thoát khỏi định luật ấy. Thế nhưng, khi
loan báo về cái chết của mình, Chúa Giêsu muốn nối kết nó với sứ mệnh của Ngài.
Sứ mệnh của Ngài chỉ được thực hiện bằng con đường sự chết. Người ta chống đối
Ngài, người ta giết chết Ngài vì cuộc sống, lời nói và việc làm của Ngài là một
tố cáo tội ác của con người; Ngài bị chống đối đến cùng, vì cuộc sống và sứ mệnh
của Ngài là một hành trình đi ngược dòng đời.
Người Kitô hữu đích thực cũng không thể tránh được số
phận ấy. Là chứng nhân của Ðấng đã đi ngược dòng đời, họ cũng không thể thoát
khỏi những chống đối. Cái chết âm thầm, cái chết từng giây phút chống lại tội lỗi
và sự dữ là điều tất yếu trong cuộc sống người môn đệ Chúa Kitô; có chết như thế,
họ mới biết rằng mình đang đi đúng con đường của Chúa Kitô, con đường dẫn đến sự
sống đích thực.
Dù sống trong nghèo nàn, dù sống trong cơ cực, khổ
đau, xin cho chúng ta luôn vững tin vào Ðấng đã đi qua con đường sự chết để dẫn
đưa chúng ta vào cõi trường sinh.
Veritas
Asia
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Thứ
Tư Tuần 8 TN2, Năm Chẵn
Bài
đọc: 1 Pet 1:18-25; Mk 10:32-45.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sống như nào sẽ lãnh nhận hậu quả như vậy
Sự hiểu biết của con người rất quan trọng, vì biết
thế nào sẽ tin như thế. Kế tiếp, tin thế nào sẽ sống như vậy, dù điều này cũng
có luật trừ vì tính yếu đuối của xác thịt. Sau cùng, sống thế nào sẽ lãnh hậu
quả tương xứng. Một số người đưa ra một lý luận rất nguy hiểm: không cần học biết,
vì biết mà không làm sẽ có tội. Nhưng những người này phải hiểu tuy họ không có
trách nhiệm luân lý; họ vẫn phải lãnh nhận hình phạt. Một ví dụ dẫn chứng, một
người vượt đèn đỏ bị cảnh sát bắt dừng lại: biết hay không người đó vẫn phải trả
tiền phạt. Trong lãnh vực chung cuộc của đời người cũng thế, con người cần bỏ
thời gian học hỏi để biết đâu là đích điểm của cuộc đời và cách thức để đạt
đích điểm đó.
Các bài đọc hôm nay muốn hướng dẫn con người biết sự
thật, để rồi con người biết sống sự thật và đạt được kết quả như Thiên Chúa
tiên định. Trong bài đọc I, tác giả Thư Phêrô I cho con người biết ý định của
Thiên Chúa muốn cứu con người nhờ bửu huyết của Đức Kitô đã đổ ra, để con người
biết sống làm sao cho xứng đáng với tình yêu Thiên Chúa để đạt được cuộc sống đời
đời. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu phải sửa sai các tông đồ khi các ông bắt đầu
tranh giành quyền hành. Ngài nhấn mạnh đến việc hy sinh, phục vụ như là con đường
để chung hưởng vinh quang với Ngài trong Nước Thiên Chúa.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài
đọc I: Anh em đã được cứu chuộc nhờ bửu huyết của Con Chiên vẹn toàn là Đức
Kitô.
1.1/ Lối sống phù phiếm do cha ông anh em truyền lại: Tác giả nhắc
cho các tín hữu biết lối sống của họ trước khi trở lại và tin theo Đức Kitô. Mục
đích của tác giả là muốn cho các tín hữu không chỉ tin; nhưng còn biết sống
theo những gì Đức Kitô truyền dạy.
+ Theo sự giả trá: Đối với những Dân Ngoại, họ quan
niệm chết là hết. Điều này là một sự sai lầm, ngược lại với ý định của Thiên
Chúa. Người Hy-lạp tiến bộ hơn, họ đã biết lý luận: thân xác sẽ tiêu tan vì là
vật chất; nhưng linh hồn bất tử vì không lệ thuộc vật chất.
+ Hưởng thụ vật chất: Nếu chết là hết, con người sẽ
dùng mọi cố gắng để hưởng thụ tối đa những gì thế gian dâng tặng. Họ sẽ tranh đấu
mọi cách để có quyền hành, danh vọng, và hưởng thụ khoái lạc đời này.
+ Tranh dành và chia rẽ: Vì mọi người đều mong hưởng
thụ nên họ sẽ tìm mọi cách để tranh dành quyền lợi, mà không để ý gì đến công bằng,
bác ái và hiệp nhất.
Hậu quả của lối sống phù hoa: Cỏ khô, hoa rụng. Mọi
phàm nhân đều như cỏ và tất cả vinh quang của họ cũng đều như hoa cỏ.
1.2/ Lối sống theo Lời Chúa như đã được cứu độ bởi Đức
Kitô:
+ Theo sự thật: Tác giả tóm gọn Kế Hoạch Cứu Độ của
Thiên Chúa vào biến cố cứu độ của Đức Kitô: Anh em đã được cứu chuộc không phải
nhờ những của chóng hư nát như vàng hay bạc; nhưng nhờ bửu huyết của Con Chiên
vẹn toàn, vô tỳ tích, là Đức Kitô. Người là Đấng Thiên Chúa đã biết từ trước,
khi vũ trụ chưa được dựng nên, và Người đã xuất hiện vì anh em trong thời cuối
cùng này. Tuy nhiên, tác giả vẫn nhấn mạnh vào tích cách liên tục của Lời Chúa,
vì Lời Chúa vẫn tồn tại đến muôn thuở muôn đời. Đó chính là Lời đã được loan
báo cho anh em như một Tin Mừng.
+ Hướng về cuộc sống đời sau: Nhờ Người, anh em tin
vào Thiên Chúa, Đấng đã cho Người trỗi dậy từ cõi chết, và ban cho Người được
vinh hiển, để anh em đặt niềm tin và hy vọng vào Thiên Chúa. Nhờ Đức Kitô, cuộc
sống đời đời dành cho tất cả những ai tin và làm theo những gì Ngài truyền dạy.
+ Yêu thương huynh đệ: Một khi đã tin vào cuộc sống
đời sau, con người không nên dành mọi thời gian và nỗ lực để mưu cầu ích lợi đời
này. Tác giả khuyên: “Nhờ vâng phục sự thật, anh em đã thanh luyện tâm hồn để
thực thi tình huynh đệ chân thành. Anh em hãy tha thiết yêu mến nhau với tất cả
tâm hồn.”
2/
Phúc Âm: Ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người.
Đây là lần thứ ba Marcô tường thuật Chúa Giêsu nói
cho các tông đồ biết những gì sẽ xảy ra cho Ngài tại Jerusalem: “Con Người sẽ bị
nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ lên án xử tử Người và sẽ nộp Người cho
dân ngoại. Họ sẽ nhạo báng Người, khạc nhổ vào Người, họ sẽ đánh đòn và giết chết
Người. Ba ngày sau, Người sẽ sống lại." Lần thứ nhất, Phêrô khuyên Chúa
Giêsu gạt bỏ ý định lên Jerusalem để chịu chết. Lần thứ hai, các môn đệ tranh
luận ai sẽ là người lớn nhất trong số họ, khi Chúa Giêsu khôi phục vương quốc của
Cha Ngài.
2.1/ Lối sống của người đời: Các tông đồ của
Chúa Giêsu vẫn còn bị ảnh hưởng bởi lối sống của thế gian.
+ Ham muốn uy quyền và danh vọng: Sau lời tiên báo,
hai người con ông Zebedee là Giacôbê và Gioan đến gần Đức Giêsu và nói:
"Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được
ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang." Hai ông ham muốn chức vị vì
muốn được mọi người biết đến và phục vụ. Tuy nhiên, các ông sẵn sàng thông phần
vào cuộc khổ nạn của Chúa, chứ không chỉ muốn vinh quang mà thôi.
+ Khi ham muốn mà không nhận được, con người tức tối
và thù ghét nhau: “Nghe vậy, mười môn đệ kia đâm ra tức tối với ông Giacôbê và
ông Gioan.” Các ông tức tối là vì tất cả các ông đều muốn như thế. Nếu Giacôbê
và Gioan ngồi hai địa vị quan trọng nhất, các ông sẽ ngồi đâu, vì các ông cũng
theo Chúa!
+ Hậu quả là cộng đoàn bị phân chia: Chúa Giêsu nhìn
thấy trước những gì sẽ xảy ra nếu các tông đồ cứ giữ thái độ tranh dành quyền
hành và địa vị như thế. Họ sẽ bị phân chia và sẽ không nhớ sứ vụ rao giảng Tin
Mừng, làm sao ơn cứu độ được rao truyền tới muôn người.
2.2/ Lối sống của người môn đệ Đức Kitô: Chúa Giêsu tập
họp các ông và khuyên bảo các tông đồ ba điều:
+ Không được theo lối sống của người đời: “Những người
được coi là thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn
thì lấy quyền mà cai quản dân. Nhưng giữa anh em thì không được như vậy.”
+ Sống phục vụ: “Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải
làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người.”
+ Sống theo gương Đức Kitô: “Con Người đến không phải
để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc
muôn người."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta cần học hỏi Kinh Thánh để biết sự thật
Thiên Chúa muốn cho con người. Nếu không, chúng ta sẽ dễ dàng nghe theo để sống
lối sống của thế gian và của ma quỉ.
- Nếu chúng ta muốn lãnh nhận ơn cứu độ, chúng ta phải
làm những gì Thiên Chúa muốn. Nếu không, chúng ta sẽ phải lãnh nhận hậu quả của
những người không tuân phục Thiên Chúa.
Lm.
Anthony ĐINH MINH TIÊN,OP.
25/05/16 THỨ TƯ TUẦN 8 TN
Th. Bê-đa Khả kính, linh mục, tiến sĩ HT
Mc 10,32-45
Th. Bê-đa Khả kính, linh mục, tiến sĩ HT
Mc 10,32-45
Suy niệm: Chúa Giê-su cùng các môn đệ tiến về Giê-ru-sa-lem khi Ngài loan
báo lần thứ ba cho các môn đệ về cuộc khổ nạn Ngài sắp chịu. Thế mà, trong bối cảnh đó, các môn đệ lại tưởng rằng sắp tới lúc họ được hưởng vinh hoa phú quý. Gia-cô-bê
và Gio-an “tranh thủ” đến gặp Chúa Giê-su để xin được ngồi bên hữu bên tả trong vinh quang của Chúa. Các môn đệ khác cũng “tham-sân-si” chẳng kém gì hai người con ông Giê-bê-đê kia. Bằng chứng là các ông cũng tức giận trước “hai tên phá bĩnh” này. Trước thái độ đó của các môn đệ, Đức Giê-su dạy các ông lối hành xử của Ngài: Muốn làm lớn thì phải làm tôi tớ. Và Ngài không đến để bắt người khác phục vụ, nhưng để phục vụ mọi người. Khi chọn con đường cứu chuộc bằng thập giá, Chúa Giê-su đã muốn sống tinh thần phục vụ.
Mời Bạn: Phục vụ không phải là những mỹ từ để hô hào, quảng cáo mà phải thực hiện bằng việc thật trong cuộc sống thật: là “rửa chân cho nhau”, là “chịu đóng đinh thập giá”; có thế mới cứu độ được thế giới. Vậy bạn hãy trả lời cho Chúa: “Con
có uống nổi chén đắng mà Thầy sắp uống đây không?”
Chia sẻ: Làm gì để việc phục vụ của bạn trở thành cuộc sống thực chứ không chỉ là những mỹ từ?
Sống Lời Chúa: Làm một việc phục vụ cụ thể, khiêm tốn cho một ai đó đang sống gần bạn.
Cầu nguyện: Hát “Kinh Hoà Bình” hoặc “Bài Ca Phục Vụ”.
Không được như vậy
Mọi chức vụ và quyền bính là để phục vụ cho Dân Chúa. Thầy Giêsu chỉ cách hành xử cho những ai muốn làm lớn, làm đầu. Đó là sống như người đầy tớ, người phục vụ.
Suy
niệm:
Khi
nghĩ đến những đau khổ Đức Giêsu phải chịu
chúng
ta thường nghĩ ngay đến cuộc Khổ nạn của Ngài.
Chúng
ta ít nghĩ đến một đau khổ khác,
đó là
Ngài phải chịu đựng sự chậm hiểu của các môn đệ.
Bài
Tin Mừng hôm nay là một thí dụ khá rõ.
Khi
đang trên đường lên Giêrusalem,
Thầy
Giêsu kéo riêng Nhóm Mười Hai để loan báo cho họ lần thứ ba
về những
gì sắp xảy đến cho mình trong cuộc Khổ nạn (c. 32).
Tiếc
thay, hai môn đệ thân tín là Giacôbê và Gioan,
vẫn
loay hoay ở lại trong tham vọng về chức quyền của mình.
Họ
nói với Thầy Giêsu một câu không được lịch sự lắm:
“Chúng
con muốn Thầy làm cho chúng con bất kỳ điều gì chúng con xin.”
Vậy
mà Thầy vẫn nhẹ nhàng trả lời họ:
“Các
anh muốn Thầy làm gì cho các anh?” (c. 36).
Họ đã
dám xin được ngồi hai chỗ cao nhất trong vinh quang Nước Thầy.
Thầy
Giêsu thú nhận mình không có quyền cho điều đó,
nhưng
Thầy lại mời hai ông chia sẻ chén đắng Thầy sắp uống
và
dìm mình thật sâu trong phép rửa Thầy sắp chịu (c. 38).
Khi
thấy mười môn đệ kia tức giận với Giacôbê và Gioan,
Thầy
Giêsu đã huấn dụ cho cả nhóm về cách lãnh đạo trong Giáo Hội.
Cách
lãnh đạo này khác hẳn cách lãnh đạo ngoài đời,
thường
dùng quyền uy để thống trị và mưu cầu tư lợi.
“Giữa
anh em thì không được như vậy!” (c. 43).
Mọi
chức vụ và quyền bính là để phục vụ cho Dân Chúa.
Thầy
Giêsu chỉ cách hành xử cho những ai muốn làm lớn, làm đầu.
Đó là
sống như người đầy tớ, người phục vụ (c. 44).
Thầy
Giêsu đã không nói suông, nhưng sống điều Ngài giảng.
Rõ
ràng Thầy là người có uy quyền (Mc 1, 22.27; 2, 10).
Nhưng
quyền uy đó chỉ được dùng để rao giảng và để giải phóng.
Suốt
đời Thầy đã sống như một người phục vụ.
Và giờ
đây, cái chết của Thầy chính là một việc phục vụ cao nhất.
Lần đầu
tiên Thầy Giêsu nói rõ ý nghĩa cái chết của mình.
Như
người Tôi Trung trong ngôn sứ Isaia (Is 52,13 - 53,12)
Thầy
phải trả giá bằng mạng sống để cứu chuộc muôn người (c. 45).
Không
dễ kéo các môn đệ ra khỏi những tham vọng trần tục.
Thầy
Giêsu vẫn thấy mình lạc lõng bên cạnh các môn đệ.
Họ
không hiểu được Thầy, và cũng chẳng muốn đi đường Thầy đi.
Làm
sao để chúng ta cảm được hạnh phúc của việc phục vụ ?
Làm
sao để chúng ta hiểu rằng phục vụ không làm con người hèn hạ,
nhưng
lại nâng cao con người và ban cho nó sự lớn lao đích thực ?
Chính
Chúa Giêsu, Đấng được thành toàn nhờ suốt đời phục vụ,
là chỗ
dựa đầy hy vọng của chúng ta.
Cầu
nguyện:
Giữa một thế giới đề cao quyền lực và lợi nhuận,
xin
dạy con biết phục vụ âm thầm.
Giữa
một thế giới say mê thống trị và chiếm đoạt,
xin
dạy con biết yêu thương tự hiến.
Giữa
một thế giới đầy phe phái chia rẽ,
xin
dạy con biết cộng tác và đồng trách nhiệm.
Giữa
một thế giới đầy hàng rào kỳ thị,
xin
dạy con biết coi mọi người như anh em.
Lạy
Chúa Ba Ngôi,
Ngài
là mẫu mực của tình yêu tinh ròng,
xin
cho các Kitô hữu chúng con
trở
thành tình yêu
cho
trái tim khô cằn của thế giới.
Xin
dạy chúng con biết yêu như Ngài,
biết
sống nhờ và sống cho tha nhân,
biết
quảng đại cho đi
và
khiêm nhường nhận lãnh.
Lạy
Ba Ngôi chí thánh,
xin
cho chúng con tin vào sự hiện diện của Chúa
ở
sâu thẳm lòng chúng con,
và
trong lòng từng con người bé nhỏ.
Lm
Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn
Lên
25 THÁNG NĂM
Giấc Mơ Xa Vời Bỗng Thành Hiện Thực
Kể từ ngày Lễ Hiện Xuống,
cuộc giao hòa của tất cả các dân tộc trong Thiên Chúa không còn là một giấc mơ
xa xăm nữa. Cuộc giao hòa ấy đã trở thành hiện thực – và mở rộng không ngừng
theo nhịp lan rộng của Giáo Hội mang trong mình Tin Mừng cứu độ. Chúa Thánh Thần,
Đấng là Thần Khí tình yêu và hiệp nhất, hiện thực hóa mục tiêu của cuộc hiến
thân cứu chuộc của Đức Kitô – bằng cách qui tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác
về một mối.
Khi Thánh Thần hiệp nhất
mọi người trở thành Dân Thiên Chúa, có hai điều quan trọng được ghi nhận rõ
ràng. Bằng cách dẫn đưa người ta gắn kết với Đức Kitô, Thánh Thần đem họ vào
trong mối hiệp nhất của Giáo Hội là Thân Mình Đức Kitô. Như vậy, Thánh Thần
giao hòa con người với nhau trong tình huynh đệ – dù giữa họ có những nét khác
biệt về địa dư và về văn hóa. Nói cách khác, Thánh Thần làm cho Giáo Hội trở
thành một nguồn hiệp nhất và hòa giải. Hơn nữa, Chúa Thánh Thần hòa giải cả những
người bên ngoài Giáo Hội – bằng một cách nào đó. Ngài khơi lên trong mọi người
niềm khát vọng hiệp nhất sâu rộng hơn và Ngài thúc đẩy những cố gắng của người
ta để họ vượt qua những mối xung đột ngổn ngang vẫn còn phân rẽ thế giới.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch
từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong
Gia Đình
Ngày 25-5
Thánh Bêđa Khả Kính, linh mục tiến sĩ Hội Thánh
Thánh Grêgôriô VII giáo hoàng
Thánh Maria Madalêna Pazzi, trinh nữ
1Pr 1, 18-25; Mc 10, 32-45
Lời suy niệm: “Ai muốn làm lớn
giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em. Ai muốn làm đầu anh em thì phải
làm đầy tớ mọi người. Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ,
nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người.”
Cách lãnh đạo của Chúa
Giêsu hoàn toàn khác hẳn cách lãnh đạo của thế gian. Điều này Chúa luôn luôn mời
gọi, những cọng sự viên của Chúa ghi vào tâm khảm của mình để sống và chu toàn
bổn phận đã được trao ban. Trước tình trạng tục hóa, Đức Thánh Cha Phanxicô cũng
đang nhắc lại cho các cọng sự viên trong Giáo Hội không phải là công chức,
nhưng là người phục vụ.
Lạy Chúa Giêsu. Xin Chúa
gìn giữ các Tông Đồ của Chúa và cho chúng con luôn yêu thương, tôn trọng, cầu
nguyện và cọng tác giúp đỡ trong công việc mục vụ của các ngài.
Mạnh Phương
Gương Thánh
Nhân
Ngày 25-05: Thánh BÊ-ĐA Đáng Kính
Linh mục, Tiến Sĩ Hội Thánh (673 - 735)
Chính thánh Beđa kể cho
chúng ta biết mọi điều về cuộc đời thơ ấu của Ngài. Trong vài câu thêm vào cuốn
lịch sử Giáo hội, thánh nhân sinh năm 673 hay là 674. Tên Bêđa theo từ ngữ
Saxon có nghĩa là cầu nguyện. Cuộc sống của Ngài rất gương mẫu nên người ta thêm
cho Ngài biệt danh Vênêrabilê có nghĩa là khả kính. Lên bảy tuổi Ngài bị mồ côi
cha mẹ và được giao phó cho tu viện trưởng Bênêdictô Biscop săn sóc giáo dục.
Lúc 18 tuổi Ngài được thụ phong chức phó tế và năm 702 hay 703 tức là lúc 29 tuổi
Ngài được thụ phong linh mục.
Cuộc sống của Ngài trong
tu viện rất cực nhọc. Chúng ta có thể tóm lược cuộc sống ấy bằng chính lời
Ngài: - "Tôi đã sống trọn đời nỗ lực học hỏi kinh thánh và trong khi tuân
thủ luật dòng cũng như bổn phận hàng ngày và hát thánh ca tại nhà thờ, tôi sung
sứơng được học hành, dạy dỗ và viết lách".
Đây quả là tổng hợp chính
xác trọn cuộc sống của thánh Bêđa, Ngài rất ít rời bỏ nhà dòng. Chúng ta chỉ
nghe biết có hai chuyện du hành của Ngài. Một lần Ngài đi thu tập tài liệu về đời
thánh Cuthbert, Ngài ở lại Lindisfanne và từ đó đến viếng Farne Islanol để khảo
sát những di tích trong căn phòng của vị thánh. Một lần khác, Ngài đến York để
thăm Đức tổng giám mục Egbert, và để quan sát các trường học nổi tiếng ở đó.
Dạy học, thánh Bêna tỏ ra
là một bậc thầy lỗi lac. Ngài không quan tâm suy tư và ao ước được nổi bật. Tài
năng của Ngài là cố gắng không cùng để tự đào luyện mình rồi truyền thông không
phải chỉ có những gì mình đã học mà còn cả cảm thức về giá trị của điều đã được
hiểu biết, đặt tầm quan trọng của việc giảng dạy. Tuy nhiên chúng ta không thể
nói nhiều về điểm này. Nhưng các sách đủ loại Ngài viết đều là kiểu mẫu trong
việc trưng dẫn các tài liệu. Chính cách trình bày cẩn thận và điều độ và gắng để
được chính xác và đúng đắn làm cho các sách ấy có thế giá. Các tác phẩm của
thánh Bêda có thể xếp thành ba loại. Các bút tích về thần học của Ngài chính yếu
gồm những phần dẫn giải thánh kinh của một thầy dạy phần lớn dựa trên các sách
giáo phụ Tây phương. Dầu thiếu sự độc sáng trong cách trình bày, nhưng những dẫn
giải của thánh Bêda ngày nay còn là phương tiện tốt đẹp nhất để hiểu về các
giáo phụ.
Các tác phẩm về khoa học
của Ngài một phần là những giải thích cổ truyền về các hiện tượng tự nhiên, một
phần bàn về niên lịch và cách tính của Đông phương. Cách tính niên lịch của
Ngài kể từ thời Chúa Giêsu Giáng sinh đã được Kitô giáo Tây phương chấp nhận rộng
rãi hơn cả.
Các tác phẩm về lịch sử của
thánh nhân có lẽ ngày nay được nhớ tới nhiều hơn hết. Cuốn "Lịch sử Giáo hội
của dân Anh" là một trong những tác phẩm quan trọng nhất về lịch sử về thời
đầu Trung cổ. Ngài đã viết cách khách quan và phê phán cách quân bình, dựa trên
những tài liệu và nhân chứng đáng tin cậy, Ngài cũng viết một tiểu sữ về các tu
viện ở Wearmonth và thơ văn về cuộc đời thánh Cuthbert.
Kể từ năm 679, Ngài ở hai
tu viện Wearmonth và Jarrow, chăm chú thi hành bổn phận thuộc đời sống tu trì
và vẫn không ngừng viết lách và dạy học. Lời kinh ở cuối cuốn "Lịch sử
Giáo hội" trình bày lý tưởng của Ngài: - "Lạy Chúa Giêsu nhân từ, con
khẩn cầu Chúa, khi đã cho con được vui hưởng những lời khôn ngoan của Chúa thì
xin Chúa cho con một ngày kia được đến gần bên thánh nhan Chúa".
Đương thời, không ai nghi
ngờ sự thánh thiện của thánh nhân, nhưng Ngài đã không làm một phép lạ, không
được một thị kiến và không mở ra một đường lối tu đức mới mẻ nào. Mùa hè năm
735 vào tuổi 63, sức khỏe suy giảm, Ngài còn bị đau khổ bị bệnh suyễn. Dầu vậy,
Ngài vẫn làm việc đến giây phút cuối cùng, đọc cho thầy thơ ký hoàn tất cuốn
sách Chú giải Phúc âm thánh Gioan và 48 giờ cuối cùng trên giường bệnh. Đúng
ngày lễ Thăng thiên 27 tháng 5 năm 735, thánh Beda từ trần.
+++++++++++++++++
Ngày 25-05: Thánh GRÊGORIÔ VII
Giáo Hoàng (1028 - 1085)
Thánh Gregoriô hay là
Hildebrand theo tên rửa tội, sinh khoảng năm 1028. Gia đình Ngài không thuộc
dòng tộc quí phái và có thuộc gốc Do thái. Thấy con mình thông minh lại hiếu học,
thân phụ thánh nhân gởi Ngài tới thụ huấn với người chú là Tu viện trưởng Đức
Bà Maria ở Aventin, Hildebrand đã trở thành một tu sĩ dòng Bênêdictô.
Tuy nhiên khả năng đặc biệt
của Ngài đã sớm kéo Ngài ra khỏi hàng rào tu viện để phục vụ tại giáo triều.
Khi đắc cử giáo hoàng, trên đường về nhận chức, Đức Leo IX ghé qua Cluny và dẫn
theo thày dòng trẻ tuổi Hildebrand để làm cố vấn cho mình. Đức giáo hoàng đã
trao cho Ngài điều khiển tu viện thánh Phaolô và đặt làm hồng y. Đức giáo hoàng
Leo IX là vị tiên khởi trong cuộc cải cách Grêgoriô, danh hiệu dựa vào khuôn mặt
sáng giá nhất cuộc cải cách này, nhưng chính đức Leo là người khởi xướng.
Kể từ việc đề cử của Đức
Leo IX Hildebrand đã có ảnh hưởng lớn lao trong nhiều triều đại liên tiếp. Khi
được cử làm đặc sứ tại Pháp Đức Hồng y Hildebrand, đã chống lại nhiều tập tục xấu.
Trong hội đồng họp ở Tour, Ngài đã buộc Berenger từ bỏ những lầm lạc của mình.
Thế là chính Ngài đã giữ phần quyết định trong cuộc tranh luận về bí tích Thánh
Thể giữa Lanfranc và Berenger. Ngài ủng hộ giáo thuyết về sự biến thể của
Lanfranc nhưng cũng giảm bớt sức đối kháng để trình bày cách mầu nhiệm hơn.
Dưới ảnh hưởng của Đức hồng
y Hildebrand, chức giáo hoàng ngày càng nghịch với hoàng đế hơn. Một liên minh
hình thành với nhiều nhà cai trị ở miền nam nước Ý chống lại các Hoàng đế nhà
Hohenstanen. Đức giáo hoàng nâng đỡ phong trào quần chúng chống lại hoàng đế ở
Milanô nhưng tâm điểm đường lối chính trị của tòa thánh được diễn tả trong việc
chọn lựa Đức Giáo hoàng, dành riêng cho hồng y đoàn. Nói cách khác, ảnh hưởng của
hoàng để bị rút lại, nếu không nói là bị hủy bỏ. Năm 1073 dưới ảnh hưởng đã trở
nên lớn mạnh, Đức Hồng y Hildebrand đắc cử giáo hoàng với hiệu Gregoriô VII.
Tình hình Giáo hội lúc
này thật đáng buồn với nhiều thảm trạng đang diễn ra. Đích thân giáo hoàng thấy
rõ những điều đó, sống khắc khổ như một thày dòng, Ngài đã sáng ngời như mặt trời
chiếu dãi vào ngôi nhà Giáo hội. Đầy uy quyền trong lời nói và việc làm, Ngài
đã nỗ lực tái lập kỷ lục truyền bá đức tin, diệt trừ các lỗi lầm. Nhất là Ngài
được chống lại hoàng đế Henri IV nước Đức. Ông hoàng này ham mê khoái lạc và
tham lam, đã dám bán quyền giám mục và các chức vụ trong Giáo hội cho những người
bất xứng.
Năm 1075, Đức Gregoriô
VII đã tuyên bố phạt mọi người ở bất cứ địa vị nào dám dùng tiền để mua bán chức
thánh. Với tình phụ tử, Ngài cảnh cáo hoàng đế Henri IV và các lạm quyền của
ông. Tức giận ông bắt cóc Đức Giáo hoàng đang khi Ngài làm lễ và giam ngục.
Nhưng rồi dưới áp lực của dân Roma, ông phải thả Ngài ra. Đức giáo hoàng đã tha
thứ cho ông. Tuy nhiên nhà vua vẫn ngoan cố. Năm 1076, ông triệu tập một số
giám mục rồi đặt Gnibert de Ravenna làm giáo hoàng. Đức Gregoriô VII liền ra vạ
tuyệt thông Henri IV. Hối hận và sợ các quan bất phục, Henri IV lo giữ ngôi bằng
cách đến Canossa làm việc đền tội.
Ngày 28 tháng giêng năm
1077, Đức giáo hoàng giải vạ cho ông.
Một thời gian sau Henri
IV lại trở mặt, ông cầm quân sang Roma để bắt Đức Giáo hoàng. Nhưng Đức
Gregoriô đã kịp thời rút lui về Sôlerna và qua đời tại đây năm 1085. Trước khi
qua đời Ngài đã nói: - Ta yêu mến điều công chính và chê ghét sự gian tà nên mới
phải chết ở chốn lưu đày này.
Người ta đã nói tới cuộc
cải cách thời Gregoriô. Phải nhận đinh rằng ý tưởng của Ngài rất cao thượng,
Ngài quan niệm hàng giáo sĩ được đặt ra ngoài mọi người khác bởi phép truyền chức
thánh làm thành một cộng đoàn siêu nhiên ấn định bởi quyền ban bí tích và được
cai quản bởi đấng kế vị thánh Phêrô. Họ phải sống xứng đáng với phận vụ thiêng
liêng, Ngài nhiệt hành ủng hộ luật độc thân của giáo sĩ và chống lại mọi thứ
buôn thần bán thánh.
Ngài cũng nỗ lực diệt trừ
mọi can thiệp vào việc chọn giám mục, nhất là sự can thiệp của hoàng đế. Dầu
không thành công trong việc này, nhưng chắc chắn đã làm thay đổi thái độ của mọi
người đối với Giáo hội.
Sau khi đã từ trần, lý tưởng
canh tân Giáo hội của Ngài mới rõ rệt hơn, sắc bén hơn và tiến gần tới hiện thực
hơn.
+++++++++++++++++
Ngày 25-05: Thánh MARIA MADALENA ĐỆ PAZZI
(1566 - 1607)
Thánh Maria Madalena
Pazzi sinh năm 1566 tại Florence. Khi rửa tội Ngài được đặt tên là Catarina.
Ngay từ nhỏ, Ngài đã ham thích cầu nguyện và làm việc lành. Muốn cho Ngài vui
thích, cứ việc đọc cho Ngài nghe truyện các thánh hay là dẫn Ngài tới nhà thờ.
Lên 7 tuổi lòng thương
người của Ngài đã tiến xa tới độ nhịn ăn để giúp đỡ người nghèo. Có dịp về miền
quê, niềm vui chính của Ngài là tập họp trẻ em lại để dạy giáo lý cho chúng. Một
lần kia, khi mới bắt dầu dạy đạo cho một em bé con một nông dân, thì Ngài phải
báo cho biết là phải trở về Florence. Ngài đã buồn rầu đến độ không cầm được nước
mắt, Cha Ngài chỉ có thể an ủi Ngài bằng cách dẫn em bé ấy về để dạy cho xong.
Thánh nữ có lòng sùng
kính phép Thánh thể một cách đặc biệt. Lên 10 tuổi, tức là năm 1576, Ngài được
rước lễ lầ đầu. Dịp này, Ngài đã khấn dâng mình trọn vẹn cho Chúa. Năm 13 tuổi
Ngài còn tự ý làm một mão gai để đội đầu mỗi khi đi ngủ để cảm thông với cuộc
khổ nạn của Chúa Giêsu Kitô.
Đến 16 tuổi, Catarina đã
ao ước được gia nhập dòng Carmêlô. Sau một thời gian luỡng lự, cuối cùng cha mẹ
Ngài đã chấp nhận, Catarina vào dòng ngày 14 tháng 8 năm 1582 và ngay 30 tháng
giêng năm 1583, được mặc áo dòng với danh hiệu Maria Madalena. Cuộc đời Ngài là
một phép lạ liên tục. Một cơn bệnh xâu xé Ngài. Có nữ tu hỏi thánh nữ xem bí mật
nào đã giúp Ngài nhẫn nại chịu đựng như vậy, chỉ vào cây thánh giá Ngài trả lời:
- Hãy xem điều Chúa Giêsu đã làm để cứu chuộc tôi. Những ai nhớ tới những đau
khổ của Chúa Giêsu và dâng những đau khổ của mình lên Thiên Chúa, họ chỉ còn thấy
êm ái đối với những gì mình phải chịu mà thôi.
Đau đớn vì bệnh hoạn,
thánh nữ lại hay xuất thần. Những yếu tố ấy đều góp phần xây dựng đời sống
thánh thiện của Ngài. Dù suốt năm năm liền kể từ tháng 6 năm 1585, Ngài đã phải
trải qua một cuộc thử thách dữ dằn, Thiên Chúa cho Ngài thấy sự dữ đang diễn ra
trong Giáo hội, những xúc phạm do hàng giáo sĩ và do các giám mục gây nên. Các
tu sĩ trong cộng đoàn vấp phạm vì những khuyến cáo Ngài trình lên Đức gíao
hoàng và các đức giám mục để thực hiện cuộc canh tân. Sự nghi ngờ của họ trở
thành sự khinh bỉ, khi thánh nữ chịu cơn thử thách khủng khiếp này, là thấy
mình bị Thiên Chúa bỏ rơi. Thêm vào đó, Ngài còn bị cám dỗ trở nên kiêu căng thất
vọng.
Dầu vậy, ý chí của Ngài
bám chặt vào Chúa không ngơi, Ngài chỉ còn biết rên rỉ: - Tôi không hiểu mình
có còn trí khôn nữa không. Tôi không thấy mình còn có gì đáng kể ngoài một chút
thiện chí là không bao giờ dám xúc phạm đến Thiên Chúa.
Nhưng nhìn lên thánh giá
Ngài thêm phấn khởi: - Đừng chết, nhưng chớ gì được chịu đau khổ mãi.
Bị cám dỗ quá, Ngài gieo
mình vào bụi gai, bình thường Ngài hãm mình kinh khủng và thường mặc áo nhặm.
Năm năm bão tố trôi qua
nhằm lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống trong khi hát kinh tạ ơn, Maria Madalena đã
bỗng xuất thần và thưa với bề trên trong niềm vui mừng: - Bão tố qua rồi, xin
hãy giúp con cảm tạ Chúa tạo thành khả ái.
Từ đây Ngài chỉ còn ước
muốn vô cùng là được làm việc để tôn vinh Chúa và mưu ích cho các linh hồn.
Ngài luôn tìm kết hiệp với thánh ý Chúa. Thánh Thần đọc cho Ngài những ý tưởng
thâm sâu và hai chị thơ ký đã ghi thành một pho sách được các người nhân đức và
thông thái ở Ý chuẩn nhận.
Với nhiệt tình, Ngài đã
nguyện hy sinh không muốn biết đến một sự dịu ngọt nào nữa. Khi làm phó bề
trên, Ngài bị tật bệnh dày vò lại còn mất ơn an ủi, cha linh hướng tìm cách an ủi,
nhưng Ngài nói: - Không, đó không phải là thứ an ủi con tìm kiếm. Con chỉ ước
mong được đau khổ đến lúc cuối đời. Khi sắp từ trần thánh nữ nói:
- Tôi sắp từ giã mà không
hiểu tại sao một thụ tạo lại quyết tâm phạm tội chống lại Chúa tạo thành được.
Với các nữ tu vây quanh,
Ngài nói những lời sau cùng: - Tôi sắp từ giã các chị để đi vào vĩnh cửu, tôi
xin các chị như là một ân huệ cuối cùng là chỉ yêu mến một mình Chúa, đăt trọn
niềm hy vọng nơi Ngài và chịu đựng tất cả vì tình yêu Ngài.
Thánh nữ từ trần ngày 25
tháng 5 năm 1607. Thân xác Ngài vẫn còn nguyên vẹn cho tới ngày nay.
(daminhvn.net)
25
Tháng Năm
Cái Bật Lửa
Ðể
kỷ niệm một trận chiến, một quận công bên Anh Quốc đã làm một bữa tiệc khoản
đãi một nhóm cựu sĩ quan đã từng chiến đấu sát cánh bên ông.
Trong
bữa tiệc, ông dem khoe một cái bật lửa rất đẹp mà Nữ hoàng Anh đã tặng cho ông.
Cái bật lửa đã được truyền từ tay người này đến tay người nọ để được trầm trồ
khen ngợi.
Sau
bữa ăn, mọi người được mời ra phòng khách để uống trà. Ông quận công mới đem
thuốc lá ra mời mọi người. Nhưng mặt ông bỗng biến sắc, vì ông lục lạo mãi
trong túi áo mà vẫn không tìm ra cái bật lửa. Ông hỏi quan khách có ai thấy nó ở
đâu không. Mọi người chia nhau đi tìm khắp nơi mà tuyệt nhiên vẫn không thấy
cái bật lửa. Lúc bấy giờ, một viên sĩ quan mới đề nghị cho tất cả mọi quan
khách nên lật túi áo của mình ra may ra mới có thể tìm thấy nó chăng. Lần lượt
tất cả mọi người đều kéo tất cả những gì có trong túi áo của mình ra. Duy chỉ
có một người không chịu chấp nhận công việc này. Mọi người đều đưa mắt nhìn về
ông và ai cũng đoán chắc đây là người đã đánh cắp cái bật lửa, bởi vì dáng vẻ của
ông tiều tụy, áo quần của ông lại rách rưới. Ông lấy danh dự của một cựu sĩ
quan để thề thốt và dứt khóat không mở túi áo ra cho mọi người xem.
Vài
tuần lễ sau, ông quận công lại mở một bữa tiệc khác và lần này, ông khám phá ra
cái bật lửa trong túi áo của ông. Cảm thấy xấu hổ vì đã nghi oan cho một viên
sĩ quan đã từng chiến đấu bên cạnh mình, ông quận công đã quyết định đến thăm
anh ta để xin lỗi.
Nhà
của viên cựu sĩ quan này nằm trong khu phố lầy lội nghèo nàn. Sau khi đã xin lỗi,
ông quận công đã hỏi viên sĩ quan: "Tại sao trong bữa tiệc hôm đó, anh đã
khước từ không mở túi ra cho mọi người xem?".
Anh
ta mới giải thích như sau: "Hẳn ngài đã thấy được căn nhà tôi đang ở tồi
tàn như thế nào. Từ lâu, tôi đã thất nghiệp mà vẫn phải nuôi nhiều miệng ăn
trong nhà. Ngài đâu có biết rằng hôm đó, tôi đã nhét vào túi tôi tất cả những đồ
ăn thừa trên bàn để mang về cho vợ con tôi".
Sau
khi hiểu được hoàn cảnh đáng thương của một người đã từng vào sinh ra tử với
mình, ông quận công quyết định đền bù bằng cách tìm cho viên cựu sĩ quan một
công việc xứng đáng.
Câu
chuyện đáng thương tâm trên đây có lẽ cũng diễn ra trong cuộc sống chúng ta dưới
nhiều cấp độ và hình thức khác nhau. Nhưng tựu trung, có lẽ mẫu số chung của
câu chuyện ấy thường giống nhau: đó là chúng dễ nhìn và đoán xét người theo bề
ngoài. Lại nữa, một xã hội có quá nhiều lừa gạt đảo điên cũng khiến cho chúng
ta có thái độ e dè, nghi kỵ đối với những người thân thuộc.
Là
tín hữu, chúng ta hãy nhìn ngắm cung cách cư xử của Chúa Giêsu. Ngài không nhìn
người bằng nhãn hiệu có sẵn. Ngài không đến với người bằng những định kiến. Bên
kia bộ quần áo sang trọng hay rách rưới, Chúa Giêsu chỉ nhìn thấy hình ảnh cao
quý của chính Thiên Chúa. Ngài dành yêu thương cho những người nghèo khổ, phường
thu thuế, bọn gái điếm, những kẻ tội lỗi, những ngwòi con bị xã hội đẩy ra bên
lề. Ngài muốn cho mọi người thấy rằng Ngài chỉ có một cái nhìn duy nhất về con
người: đó là cái nhìn của cảm thông, của tha thứ, của yêu thương.
Lẽ Sống
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét