26/05/2016
Thứ Năm tuần 8 thường niên
Thánh Philipphê Nêri, linh mục
Lễ nhớ
* Sinh năm 1515 tại Phirenxê, thánh nhân
đến Rôma và dấn thân lo cho thanh thiếu niên. Người đi vào con đường trọn lành
và lập một hội chuyên phục vụ người nghèo.
Lãnh chức linh mục năm 1551, người lập
Dòng Ô-ra-toa, chuyên lo cầu nguyện và làm việc bác ái trong giới thanh thiếu
niên, các bệnh nhân, các tù nhân. Nét nổi bật trong
đời của thánh nhân là người yêu thương tha nhân cách thiết thực, đơn sơ và vui
vẻ. Người qua đời năm 1595.
Bài Ðọc
I: (Năm II) 1 Pr 2, 2-5. 9-12
"Anh em là dòng giống được tuyển chọn, là tư tế
vương giả, là dân tộc thánh thiện để rao giảng Ðấng đã gọi anh em".
Trích thư thứ nhất của Thánh Phêrô Tông đồ.
Anh em thân mến, như trẻ sơ sinh, anh em hãy thèm khát
sữa thiêng liêng trong sạch, để nhờ đó, anh em được lớn lên trong ơn cứu độ, nếu
anh em nếm biết Chúa ngọt ngào dường nào.
Anh em hãy tiến đến viên đá sống động bị người ta loại
bỏ, nhưng được Chúa tuyển chọn và tôn vinh. Anh em như những viên đá sống động,
hãy để Chúa xây dựng anh em nên toà nhà thiêng liêng, nên chức vụ linh mục
thánh, để hiến dâng những của lễ thiêng liêng xứng đáng được Thiên Chúa chấp nhận
nhờ Ðức Giêsu Kitô.
Anh em là dòng giống được tuyển chọn, là hàng tư tế
vương giả, là dân tộc thánh thiện, dân riêng của Chúa, để rao giảng quyền năng
của Ðấng đã gọi anh em ra khỏi tối tăm mà vào ánh sáng kỳ diệu của Người. Anh
em xưa kia không phải là dân của Thiên Chúa, nhưng nay là dân của Người; xưa
kia anh em không được xót thương, nhưng nay được thương xót.
Anh em thân mến, tôi khuyên anh em: như những ngoại
kiều, và khách trọ, hãy xa lánh những đam mê xác thịt hằng chống lại linh hồn.
Anh em hãy sống lương thiện giữa dân ngoại, để dù người ta vu khống anh em như
những người gian phi, nhưng khi thấy được việc lành của anh em, họ phải ngợi
khen Thiên Chúa trong ngày Người đến viếng thăm.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 99, 2. 3. 4. 5
Ðáp: Hãy vào
trước thiên nhan với lòng hân hoan khoái trá (c. 2c).
Xướng: 1) Toàn thể địa cầu, hãy reo mừng Thiên Chúa,
hãy phụng sự Thiên Chúa với niềm vui vẻ! Hãy vào trước thiên nhan với lòng hân
hoan khoái trá. - Ðáp.
2) Hãy biết rằng Chúa là Thiên Chúa, chính Người đã
tạo tác thân ta, và ta thuộc quyền sở hữu của Người. - Ðáp.
3) Ta là dân tộc, là đoàn chiên Chúa chăn nuôi, hãy
vào trụ quan nhà Người với lời khen ngợi, vào hành lang với khúc ca vui, hãy
tán dương, hãy chúc tụng danh Người. - Ðáp.
4) Vì Thiên Chúa, Người thiện hảo, lòng từ bi Người
tồn tại muôn đời, và lòng trung tín Người còn tới muôn muôn thế hệ. - Ðáp.
Alleluia:
Tv 144, 13cd
Alleluia, alleluia! - Chúa trung thành trong mọi lời
Chúa phán, và thánh thiện trong mọi việc Chúa làm. - Alleluia.
Phúc
Âm: Mc 10, 46-52
"Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu ra khỏi thành Giêricô cùng với
các môn đệ, và một đám đông, thì có con ông Timê tên là Bartimê, một người mù
ăn xin đang ngồi ở vệ đường. Khi anh ta nghe biết đó là Chúa Giêsu Nagiarét, liền
kêu lên rằng: "Hỡi ông Giêsu con vua Ðavít, xin thương xót tôi". Và
nhiều người mắng anh bảo im đi, nhưng anh càng kêu to hơn: "Hỡi con vua
Ðavít , xin thương xót tôi".
Chúa Giêsu dừng lại và truyền gọi anh đến. Người ta
gọi người mù và bảo anh: "Hãy vững tâm đứng dậy, Người gọi anh". Anh
ta liệng áo choàng, đứng dậy, đến cùng Chúa Giêsu. Bấy giờ Chúa Giêsu bảo rằng:
"Anh muốn Ta làm gì cho anh"? Người mù thưa: "Lạy Thầy, xin cho
tôi được thấy". Chúa Giêsu đáp: "Ðược, đức tin của anh đã chữa
anh". Tức thì anh ta thấy được và đi theo Người.
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm:
Ðến với Chúa
Trước cửa Thiên Ðàng, một tu sĩ gõ cửa và cầu khẩn:
"Lạy Chúa, xin cho con được vào". Cánh cửa vẫn đóng kín, nhưng có tiếng
hỏi: "Con có mang theo điều gì không?". Vị tu sĩ đáp: "Con mang
theo một bị chứa đầy những nhân đức của con". Có tiếng vọng lại: "Ðiều
ấy tốt, nhưng Ta không thể mở cửa cho con vào".
Vị tu sĩ ra đi, nhưng buổi chiều ông lại đến gõ cửa
để xin được vào. Lần này, khi được hỏi có đem theo điều gì không?, ông cho biết
có đem theo công nghiệp của việc suy niệm và cầu nguyện lâu giờ. Tuy nhiên, ông
vẫn chỉ nhận được lời này: "Thật là tốt, nhưng Ta vẫn không thể mở cửa cho
con vào".
Vị tu sĩ lại ra đi, đến tối, ông trở lại. Lần này,
ông chỉ đến với con người của ông mà thôi. Nhưng tức khắc cánh cửa mở rộng để
cho ông bước vào.
Câu chuyện trên đây nhắc chúng ta về thái độ tinh thần
cần phải có để đến với Chúa, đó là đến với Chúa bằng chính thực tế con người
mình; bằng tâm tình tin tưởng và cậy trông vào lòng nhân từ của Chúa, hơn là dựa
vào sức riêng của mình. Ðó cũng là thái độ chúng ta có thể thấy được nơi anh mù
gần thành Yêricô mà Tin Mừng hôm nay ghi lại.
Anh mù đến với Chúa bằng chính thực tại đau thương của
mình và trông cậy vào tình thương của Chúa: "Lạy con vua Ðavít, xin dủ
lòng thương tôi". Ðây là lời cầu xin của một tâm hồn khiêm tốn và tin tưởng,
như Chúa Giêsu đã ghi nhận sau khi chữa lành anh: "Lòng tin của anh đã cứu
chữa anh". Ðức tin nơi anh mù đã giúp anh vượt qua thử thách, người ta
càng ngăn cản anh, anh càng kêu to hơn cho đến khi được Chúa nghe thấy và cho gọi
anh lại.
Liệu chúng ta có đủ khiêm tốn, kiên trì chờ đợi gặp
Chúa không? Chúng ta có ý thức mình cần đến ơn Chúa, cần đến tình yêu và sự tha
thứ của Chúa không? Như anh mù, chúng ta hãy thưa: "Lạy Chúa, xin thương
xót con". Chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta nhìn thấy những kỳ công Chúa
đã và đang thực hiện trong lịch sử nhân loại và trong chính đời sống chúng ta,
để chúng ta trở thành bài ca tôn vinh Chúa luôn mãi.
Veritas
Asia
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Năm Tuần 8 TN2, Năm Chẵn
Bài đọc: 1 Pet 2:2-5,
9-12; Mk 10:46-52.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Hãy để Đức Kitô làm chủ tâm hồn anh em.
Con người hay có khuynh hướng chọn cho mình một thần
tượng để tôn thờ: người chọn các tài tử hay minh tinh điện ảnh, người chọn các
cầu thủ trong ngành thể thao, kẻ khác chọn ca sĩ có giọng lôi cuốn; nhưng những
thần tượng này có giúp gì cho khán giả hâm mộ đâu? Tại sao không chọn Người đã
dựng nên, ban ơn, bảo vệ, và chết cho mình được sống?
Các bài đọc hôm nay nêu bật cho con người vai trò
không thể thay thế của Đức Kitô trong cuộc đời con người. Trong bài đọc I, tác
giả Thư Phêrô I xác tín Đức Kitô được Thiên Chúa tiên định là nguồn mạch của ơn
cứu độ và của mọi ơn thánh, nên mọi tín hữu cần tiến lại gần Đức Kitô, đặt Ngài
làm trung tâm điểm của cuộc đời. Họ sẽ không thiếu một ơn gì cần thiết cho cuộc
đời cả. Trong Phúc Âm, người mù thành Jericho tin chỉ có Chúa Giêsu mới có thể
chữa anh lành bệnh, nên khi nghe tin Ngài đi qua, anh gào thét lớn tiếng xin:
"Lạy ông Giêsu, Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!" Chúa Giêsu nghe
tiếng van xin của anh, cho gọi anh đến, và chữa anh lành bệnh.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài
đọc I: Hãy để Thiên Chúa đặt anh em lên hàng tư tế thánh.
1.1/ Anh em hãy tiến lại gần Đức Kitô:
+ Người tín hữu mới tái sinh trong Phép Rửa thường
được ví như trẻ sơ sinh; vì thế tác giả khuyên: “anh em hãy khao khát sữa
tinh tuyền là Lời Chúa, nhờ đó anh em sẽ lớn lên để hưởng ơn cứu độ.” Lời
Chúa được ví như sữa tinh tuyền sẽ nuôi dưỡng và làm họ trở nên những tín hữu
trưởng thành trong đức tin và tình mến. Thánh Phaolô và tác giả Thư Do-Thái
cũng dùng hình ảnh sữa cần thiết để dưỡng nuôi các tín hữu mới tin theo Đức
Kitô; khi nào trưởng thành, họ mới có thể dùng thức ăn (I Cor 3:2; Heb 5:12).
+ Hình ảnh Đền Thờ sống động với Đức Kitô là Đá Tảng
góc tường cũng được nhiều tác giả dùng để nói lên sự liên kết mật thiết giữa Đức
Kitô và các tín hữu. Đức Kitô là “viên đá sống động bị người ta loại bỏ, nhưng
đã được Thiên Chúa chọn lựa và coi là quý giá” (Mat 21:42; Mk 12:10; Lk 20:17;
Acts 4:11). Tác giả Thư Phêrô I khuyên: “Hãy để Thiên Chúa dùng anh em như những
viên đá sống động mà xây nên ngôi Đền Thờ thiêng liêng, và hãy để Thiên Chúa đặt
anh em làm hàng tư tế thánh, dâng những lễ tế thiêng liêng đẹp lòng Người, nhờ
Đức Giêsu Kitô.”
Tác giả Thư Ephesô cũng khuyên: “Anh em đã được xây
dựng trên nền móng là các Tông Đồ và ngôn sứ, còn đá tảng góc tường là chính Đức
Giêsu Kitô. Trong Người, toàn thể công trình xây dựng ăn khớp với nhau và vươn
lên thành ngôi đền thánh trong Chúa. Trong Người, cả anh em nữa, cũng được xây
dựng cùng với những người khác thành ngôi nhà Thiên Chúa ngự, nhờ Thần Khí” (Eph
2:20-22).
1.2/ Qua Đức Kitô, Thiên Chúa đã thực hiện những điều
vĩ đại cho dân Người: Tác giả liệt kê 4 điều như sau:
+ Anh em là giống nòi được tuyển chọn, là hàng tư tế
vương giả, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa, để loan truyền những kỳ công
của Người.
+ Anh em được gọi ra khỏi miền u tối, vào nơi đầy
ánh sáng diệu huyền.
+ Xưa anh em chưa phải là một dân, nay anh em đã là
Dân của Thiên Chúa.
+ Xưa anh em chưa được hưởng lòng thương xót, nay
anh em đã được xót thương.
Vì tất cả những ơn lành Thiên Chúa làm cho các tín hữu
qua Đức Kitô, các tín hữu có bổn phận:
(1) Hãy tránh xa những đam mê xác thịt, vốn gây chiến
với linh hồn. Đam mê xác thịt không chỉ giới hạn đến các đam mê tình dục, nhưng
còn mở rộng đến tất cả những đam mê khác có liên quan đến xác thịt như ghen tị,
tham lam, thờ bụt thần, gian manh... Lý do tác giả đưa ra vì “anh em là khách
lạ và lữ hành.” Thế gian này không phải là quê hương của các tín hữu; nhưng
chỉ là chỗ tạm trú trên đường về quê trời.
(2) Hãy ăn ở ngay lành giữa dân ngoại, ngay cả khi họ
vu khống, coi anh em là người gian ác: Giáo Hội sơ khai bị đối xử rất bất công,
họ gán cho các tín hữu đủ mọi danh từ không đúng như: ăn thịt người (tiệc Thánh
Thể), sống biệt lập với mọi người, không thảo kính cha mẹ... Tác giả khuyên các
tín hữu cách tốt nhất để chống lại những vu khống là tiếp tục làm việc lành và
sống gương mẫu; để họ nhận thấy các việc lành anh em làm mà tôn vinh Thiên Chúa
trong ngày Người đến viếng thăm, vì “lời nói lung lay, gương bày lôi cuốn.”
2/
Phúc Âm: "Lạy Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!"
2.1/ Niềm tin vững chắc của người mù thành Jericho:
+ Biết nhu cầu của mình: Mù lòa là sống trong tăm tối.
Còn gì khổ hơn suốt đời không nhìn thấy ánh sáng. Vì mù lòa nên anh phải ăn xin
vệ đường và bị mọi người khinh bỉ. Mù lòa thiêng liêng còn khổ hơn vì phải sống
trong sự giả trá sai lạc. Còn gì khổ hơn người suốt đời không biết sự thật, nhất
là sự thật về đích điểm của cuộc đời.
+ Biết người nào có thể chữa mình: Anh mù thành
Jericho mù chứ không điếc. Qua sự nghe ngóng, anh biết chỉ có Chúa Giêsu mới có
thể chữa anh khỏi mù. Khi cơ hội gặp Chúa Giêsu đến, anh nhất định không chịu bỏ
qua. Mù lòa thiêng liêng chỉ có thể được soi sáng bằng những sự thật đến từ
Thiên Chúa. Chỉ có Ngài mới có thể cất đi mù lòa và soi sáng tâm hồn. Chúa
Giêsu từng xác nhận: “Ta là ánh sáng thế gian... Ta là Đường, là Sự Thật, và là
Sự Sống.”
+ Đừng để bất cứ một trở ngại nào ngăn cản mình đến
với thầy thuốc: Khi Chúa Giêsu đi ngang qua, anh mù gọi Chúa hai lần, lần thứ
hai to hơn lần thứ nhất dù đã bị đám đông ngăn cấm.
Khi biết Chúa gọi mình, anh tung áo choàng, đứng phắt
dậy và chạy đến với Ngài. Người đang sống trong mù lòa đường thiêng liêng cũng
cần có thái độ tương tự: Đừng bỏ lỡ cơ hội học hỏi về Chúa, vì biết đâu cơ hội
đã qua sẽ không bao giờ trở lại.
2.2/ Lòng thương xót của Chúa Giêsu: Thiên Chúa
không bao giờ từ chối con cái vững lòng trông cậy nơi Ngài. Chúa Giêsu ban ánh
sáng cho người mù vì nhìn thấy khát vọng được có ánh sáng và niềm tin của anh.
Người nói: "Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh!" Tức khắc, anh
ta nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi.
Thiên Chúa chắc chắn không để những người muốn tìm
hiểu về Ngài phải thất vọng. Ngài ban cho con người nhiều cơ hội để học hỏi về
Ngài và về Đức Kitô qua việc gởi các sứ giả đến rao giảng Tin Mừng bên ngoài và
gởi Thánh Thần làm việc bên trong. Ai thành tâm đi tìm Ngài, chắc chắn sẽ được
Ngài cho gặp.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta cần học hỏi để biết sự quan trọng của Đức
Kitô trong cuộc đời. Qua Ngài, Thiên Chúa đã ban ơn cứu độ và muôn ơn lành cho
chúng ta.
- Chúng ta cần nhận ra những thiếu thốn của mình, và
can đảm chạy đến kêu cầu với Đức Kitô để được Ngài thương xót.
- Một khi đã được thấm nhuần kiến thức và tình
thương của Đức Kitô, chúng ta có bổn phận trở nên những chứng nhân rao truyền
tình thương của Ngài cho tha nhân.
Linh
mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
26/05/16 THỨ NĂM TUẦN 8 TN
Th. Phi-líp-phê Nê-ri, linh mục
Mc 10,46-52
Th. Phi-líp-phê Nê-ri, linh mục
Mc 10,46-52
Suy niệm: Lạ lùng thay! Chàng trai đang bị khiếm thị đôi mắt thể lý nhưng anh lại sáng đôi mắt tâm linh: Vừa nghe nói là Đức Giê-su đó, anh đã biết và nhận ra Ngài là con vua Đa-vít. Với đôi mắt tâm linh sáng như thế, anh nhận thức được hai điều: - sự khốn cùng của thân phận mù loà mà anh khao khát được thoát ra; - Đức Giê-su là Đấng Mê-si-a đầy quyền năng và lòng thương xót có thể làm cho anh điều đó. Cho nên, dù bị người ta quát nạt, anh vẫn kêu to lên như một lời tuyên xưng lòng tin vào Đức Giê-su và cầu xin lòng thương xót của Ngài. Vì lòng tin đó, Chúa
Giê-su đã chữa lành anh. Việc chữa lành nào cũng mở đầu cho một lời mời gọi làm môn đệ. Với cặp mắt sáng, anh đã nhìn thấy Chúa, thấy Chúa trong mọi người, và trong chính con người của anh. Và đáp lại, anh đã “đi theoChúa trên con đường Chúa đi.”
Còn bạn thì sao? Cặp mắt đức tin của bạn có sáng để nhận ra Chúa và thánh ý Ngài trong cuộc sống không? Khi đời bạn trôi đi êm ả, bạn dễ dàng tuyên xưng đức tin vào Chúa. Nhưng khi gặp đau khổ thử thách, đôi mắt đức tin của bạn có bị mù loà chẳng nhìn ra Chúa là Đấng thương xót để kêu xin, không nhận ra ý Ngài để thi hành không?
Sống Lời Chúa: Mỗi khi gặp khó khăn, hãy thưa: “Lạy Chúa Giê-su, xin dủ lòng thương xót con.”
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin mở cho con đôi mắt, để con thấy Chúa trong mọi người, thấy Chúa trong cuộc đời, và thấy Ngài, trong chính cuộc đời con.
Xin cho tôi nhìn thấy
Không thấy xà trong mắt mình, nhưng lại thấy rác trong mắt anh em. Chúng ta vẫn cần người khác để được sáng mắt, cần có ai đó dẫn ta mù lòa đến với Giêsu.
Suy
niệm:
Bị mù mắt, thật là khổ.
Cả thế giới như khép lại trong toàn một màu đen.
Nhiều người thà chọn bị câm điếc còn hơn là mù.
Tuy vậy thế giới người mù cũng không bị hoàn toàn
đóng kín.
Người mù còn có tai mở ra để nghe, miệng mở ra để
nói.
Nếu biết tận dụng những gì mình có,
người mù cũng “thấy” được nhiều điều.
Có một người mù ngồi bên vệ đường, sống bằng nghề ăn
xin.
Tai anh nghe thấy bước chân rộn rã
của một đoàn người khá đông, đang đi ra khỏi thành
Giêricô.
Khi biết trong đoàn người này có Đức Giêsu Nadaret,
Đấng nổi tiếng về chữa bệnh và trừ quỷ,
anh mù thấy ngay cơ hội mình chờ đợi bấy lâu, nay đã
đến.
Anh quyết sẽ không bỏ lỡ cơ hội ngàn năm một thuở
này.
Tuy bị mù, nhưng anh còn có tiếng nói.
Anh sẽ tận dụng tiếng kêu của mình để ông Giêsu chú
ý đến anh:
“Lạy ông Giêsu, Con Vua Đavít, xin thương xót tôi!”
Tiếc thay tiếng kêu của anh lại bị át đi bởi những
tiếng nạt nộ.
Nhiều người bắt anh im đi để khỏi gây trở ngại cho
cuộc hành trình.
Chẳng những không im, anh mù càng kêu lớn tiếng,
vì anh biết rằng chỉ cần làm cho Giêsu nghe được tiếng
kêu của mình,
dù chỉ một lần, thì đời mình sẽ hoàn toàn thay đổi.
Anh mù cứ nhắc đi nhắc lại cùng một điệp khúc xin
xót thương.
Giữa đám đông ồn ào náo động,
Đức Giêsu có nghe được tiếng anh mù gọi tên mình
không?
Có, dù rất nhỏ, dù chỉ một lần.
Tiếng kêu ấy vừa thống thiết, quyết liệt, vừa đầy
tin tưởng, cậy trông.
Tiếng kêu ấy báo hiệu về một sự hiện diện mà Ngài
chưa rõ.
Tiếng kêu làm cho Ngài dừng lại (c. 49).
“Gọi anh ta lại đây.”
Lúc nãy anh gọi Giêsu, bây giờ Giêsu nhờ người ta gọi
anh (c. 49).
Khi biết mình được gọi, anh mù nhảy cẫng lên,
vất cả áo choàng lại mà bước tới.
Nhưng anh vẫn cần có ai dắt anh đến gần Giêsu.
Ngài đã nghe anh xin Ngài thương xót, nhưng cụ thể
anh muốn xin gì:
“Anh muốn tôi làm gì cho anh?” (c. 51).
Đức Giêsu muốn anh nói lên ước muốn của mình.
“Thưa Thầy, Rabbouni, xin cho tôi thấy lại được.”
Anh mù đã được thấy lại, anh lại thấy mặt trời và
người xung quanh.
Anh thấy Giêsu, người anh tin nhưng chưa một lần gặp
mặt.
Giêsu cho anh ánh sáng để anh khỏi phải ngồi ăn xin ở
vệ đường.
Giêsu giải phóng anh khỏi bóng tối và trả cho anh phẩm
giá anh vốn có.
Giêsu đã dừng lại, đã bắt cả đám đông phải dừng lại,
chỉ vì anh.
Bây giờ anh muốn hòa mình với đám đông để theo Ngài
trên đường (c. 52).
Dưới góc độ nào đó, chúng ta đều là những người mù.
Có khi ta biết mình mù và muốn thoát khỏi cảnh mù tối
như Báctimê.
Nhưng có khi ta mù mà không biết, nên vẫn vô tư ở lại
trong cảnh mù.
Tệ hơn nữa, có khi ta sáng mắt, nhưng lại cố ý không
muốn thấy.
Cố ý không muốn thấy một sự thật rành rành chỉ vì cố
chấp hay tư lợi.
Không thấy xà trong mắt mình, nhưng lại thấy rác
trong mắt anh em.
Chúng ta vẫn cần người khác để được sáng mắt,
cần có ai đó dẫn ta mù lòa đến với Giêsu.
Điều gì có thể khiến ta bị mù?
Một định kiến có thể khiến ta khép lại trước một sự
thật lớn hơn nhiều.
Điều ta biết, dù đúng, cũng chỉ là một phần nhỏ của
toàn bộ sự thật.
Một đam mê, dục vọng cũng có thể làm chúng ta bị mù
(1 Ga 2, 16),
không muốn sáng mắt vì sợ phải từ bỏ điều mình gắn
bó.
“Ta khuyên ngươi đến với Ta mà mua thuốc
để xức mắt cho ngươi nhìn thấy được” (Kh 3, 18).
Mong Giêsu chữa lành mắt ta mỗi ngày.
Cầu
nguyện:
Như người mù ngồi bên vệ đường
xin Chúa dủ lòng thương cho con được thấy.
Xin cho con được thấy bản thân
với những yếu đuối và khuyết điểm,
những giả hình và che đậy.
Cho con được thấy Chúa hiện diện bên con
cả những khi con không cảm nghiệm được.
Xin cho con thực sự muốn thấy,
thực sự muốn để cho ánh sáng Chúa
chiếu dãi vào bóng tối của con.
Như người mù ngồi bên vệ đường
xin Chúa dủ
lòng thương cho con được thấy.
Lm
Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
26
THÁNG NĂM
Tin
Mừng Cho Mọi Người
Bạn
là tín hữu? Bạn hãy sống đức tin của mình và hãy chuyển trao đức tin cho con em
mình. Hãy nêu chứng tá đức tin bằng chính cuộc sống. Bạn hãy yêu mến Giáo Hội
như một hiền mẫu. Hãy sống trong Giáo Hội và vì Giáo Hội. Hãy dành chỗ cho mọi
người trong trái tim bạn. Hãy thứ tha nhau và hãy gieo rắc hòa bình bất cứ nơi
nào bạn có mặt.
Bạn
không phải là tín hữu? Hãy tìm kiếm Thiên Chúa, vì Ngài đang kiếm tìm bạn đó!
Bạn
đang gặp đau khổ? Hãy vững lòng. Vì Đức Kitô đã từng nếm cảm niềm đau; Người sẽ
ban cho bạn sức mạnh để đương đầu với nỗi ê chề của bạn.
Bạn
là người trẻ? Hãy làm một cuộc đầu tư tốt nhất cho cuộc đời mình, vì cuộc đời bạn
là một kho tàng hết sức quí giá.
Và với
tất cả mọi người, tôi sẽ nguyện chúc: Xin ân sủng Thiên Chúa đồng hành với các
bạn trong mỗi phút giây của cuộc sống thường ngày.
Và
xin đừng quên: Hãy ân cần đón nhận các trẻ thơ ngay từ khoảnh khắc đầu tiên của
các em. Ước gì lời chào tốt lành từ ban sơ dành cho các em sẽ mở ra cho các em
một cuộc sống tràn đầy ân phúc – đó là niềm mong mỏi của bạn, của tôi, và là niềm
mong mỏi của toàn thể Giáo Hội.
-
suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm.
Lê Công Đức dịch
từ nguyên tác
LIFT
UP YOUR HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày
26-5
Thánh
Philipphê Nêri linh mục
1Pr
2, 2-5. 9-12; Mc 10, 46-52
Lời
suy niệm: Người
hỏi: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?” Anh mù đáp: “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy
được.” Người nói: “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh.”
Trong
câu chuyện “Người mù ở Giêricô” Chúng ta thấy được Chúa Giêsu luôn lắng nghe những
lời cầu xin, và Người đã nghe tiếng của người mù kêu; trong lúc đó lại có quá
nhiều người ngăn cản, bảo anh ta im đi với vẻ coi khinh anh ta, không muốn anh
ta tiếp xúc với Chúa Giêsu, không vì thế mà tiếng kêu xin của anh bị dừng lại,
anh càng kêu lớn tiếng: “Lạy Con vua Đavít xin rủ lòng thương tôi!” Với lòng
thương xót của Chúa, anh ta đã được gặp Người và trình bày ước nguyện được chữa
lành: “Xin cho con được thấy.”
Lạy
Chúa Giêsu. Xin cho mỗi một người trong chúng con luôn biết kêu xin Chúa trong
mọi hoàn cảnh và biết tạo cho nhau những cơ hội gặp gỡ Chúa và chịu các phép Bí
Tích.
Mạnh
Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày
26-05: THÁNH PHILIPPHÊ NÊRÔ
Linh
Mục (1515 - 1595)
Thánh
Philipphê Nêrô sinh năm 1515 tạo Florence. Bị mồ côi mẹ từ thuở nhỏ, nhưng
Philipphê có một bà Dì nhất mực yêu thương. Ngược lại Philipphê cũng rất vui
tươi và ngoan ngùy đang cho mọi người yêu thích. Ngài hấp thụ được đức tin sâu
xa nôi cha mẹ và các cha dòng Daminh ở tu viện thánh Marcô.
Năm
1533 Ngài đến sống với người cậu ở gần Naples để tập nghề kinh doanh. Ong cậu
không có con thừa tự nên muốn dành gia tài cho Philipphê, nhưng thánh nhân thấy
mình không có ơn gọi để sống cuộc đời như vậy. Và Ngài đi bộ về Roma, không
tính toán cũng không có đồ dùng chi, Philipphê sẽ sống và chết tại Roma.
Một
người đồng hương ở Roma cho Philipphê một căn phòng với điều kiện là dành ít thời
gian dạy dỗ cho con cái họ. Thánh nhân đã sống đời cầu nguyện và học hành trong
cô tịch, ngày ăn một bữa với bánh mì, nước và trái ôliu, ngủ trên sàn nhà.
Trong khi theo môn triết học và thần học, Ngài vẫn tìm cách lôi kéo bạn bè vào
nếp sống đạo đức, lo cải hoá người khác. Như vậy chính thánh nhân cũng bị cám dỗ
và phải cố gắng để tự chủ, Ngài tăng thêm lời cầu nguyện và các việc hy sinh
hãm mình.
Lễ
Chúa Thánh Thần hiện xuống năm 1544, trong khi cầu nguyện, Ngài thấy một vật gì
như trái banh bằng lửa xoáy vào trong tim gây nên một cơn bệnh và một vết
thương xưng lên dầu không đau đớn gì. Trong cuộc khám nghịệm sau khi chết người
ta thấy hai xương sườn phía trên bị gãy và tạo ra một khoảng rộng lớn hơn.
Sau
nhiều năm, Ngài bán hết sách vở và bắt đầu lo cho linh hồn người khác hơn là
cho mình. Ngài hòa mình với các bạn trẻ ở các ngã tư , các cửa tiệm và các bờ
sông, dùng đến sức thu hút tự nhiên lẫn siêu nhiên để dẫn họ về đường ngay.
Hòa
mình vào nhóm các nhà giảng thuyết, Philipphê đã gây được nhiều ảnh hưởng nơi
các giáo dân lẫn lương dân. Người ta cho rằng: Ngài làm nhiều phép lạ. Tuy
nhiên, thánh nhân rất khiêm tốn và không dám nhận chức linh mục. Cuối cùng theo
lời khuyên của cha giải tội, Ngài thụ phong linh mục năm 1551. Nhiệt tâm của
Ngài thật mãnh liệt khi Ngài cử hành thánh lễ đầu tiên đến nỗi như có một luồng
ánh sáng từ Ngài phát ra. Phần lớn thời gian trong ngày và cả ban đêm Ngài dành
vào việc ngồi tòa giải tội. Nhận thấy có nhiều thanh niên và trẻ em biếng nhác,
Ngài mở cửa không cho chúng vui tươi trò chuyện ca hát. Căn phòng ấy được mệnh
danh là "Ngôi nhà của nịềm vui Kitô giáo". Mỗi chiều Ngài tổ chức buổi
cầu nguyện chung cho các tín hữu. Muốn cho lời cầu nguyện khởi sắc, Ngài nhờ
người bạn danh tiếng là nhạc sĩ Palestrina phổ nhạc các thánh thi. Nhà nghệ sĩ
này coi Ngài như một người cha và đã qua đời trong cánh tay Ngài. các linh mục
muốn dấn thân phù giúp Ngài đã họp thành một hội ái hữu và đó là tiền thân của
dòng giảng thuyết.
Thánh
Philipphê làm việc với một tính khí vui tươi đặc biệt. Ngày kia cộng đoàn một bạn
trẻ đến báo tin cho Ngài biết hạnh phúc của mình đã được thân phụ cho theo học
luật. Sau khi phác họa niềm vui hạnh phúc của mình như thế nào rồi, anh nghe hỏi:
- Học
xong anh sẽ làm gì ?
- Con sẽ đậu bằng tiến sĩ luật .
- Rồi sao nữa ?
- Con sẽ cãi những vụ kiện quan trọng, khó khăn để thành danh tiếng.
- Rồi sao nữa ?
- Con sẽ nên danh giá và giàu có thỏa lòng mong ước .
- Rồi sao nữa ?
- Con sẽ sống sung sướng và hạnh phúc.
- Rồi sao nữa ?
- Rồi sao nữa ? sao nữa ? rồi con chết.
- Thánh nhân cao giọng hỏi tiếp: Rồi sao nữa ?
- Con sẽ đậu bằng tiến sĩ luật .
- Rồi sao nữa ?
- Con sẽ cãi những vụ kiện quan trọng, khó khăn để thành danh tiếng.
- Rồi sao nữa ?
- Con sẽ nên danh giá và giàu có thỏa lòng mong ước .
- Rồi sao nữa ?
- Con sẽ sống sung sướng và hạnh phúc.
- Rồi sao nữa ?
- Rồi sao nữa ? sao nữa ? rồi con chết.
- Thánh nhân cao giọng hỏi tiếp: Rồi sao nữa ?
Và bạn
trẻ không biết trả lời ra sao nữa, nhưng câu hỏi đã lọt vào trong tâm hồn cho đến
khi hiến mình trong tu viện và chết lành thánh.
Cũng
với tính khôi hài này. Thánh Philipphê đã sửa dạy được nhiều nết xấu của người
ta. Chẳng hạn một phụ nữ quen tật nói xấu người khác được nghe thánh nhân dạy
hãy mua một con gà giết chết, rồi vừa đi vừa nhổ lông trên đường tới gặp Ngài.
Chị ta ngạc nhiên làm và như vậy. Tới nơi thánh nhân dạy : - Chị hãy trở về đường
cũ và lượm hết các lông đó lại.
Người
phụ nữ la lối không thể được vì gió thổi bay khắp chốn rồi. Thánh nhân mới nói:
- Những lời nói xấu vu oan cho người ta một khi ra khỏi miệng sẽ truyền từ tai
này qua tai nọ. Chị có thể lấy lại được không ?
Và
thánh Nhân khuyên nhủ : - Khi muốn nói về một người nào làm khổ mình, hãy nói với
Chúa mà thôi để cầu nguyện và giúp họ sửa sai.
Với
những bức thư của thánh Phanxicô Xavier từ phương Đông gởi về, thánh Philipphê
đã tìm cách theo Ngài để gieo vãi chính máu mình cho Chúa Kitô. Nhưng một thày
dòng khổ tu đã nói với thánh nhân : - Dân An độ của Ngài ở tại Roma này.
Thế
là thánh nhân ở lại Rôma trở thành "Tông đồ thành Rôma".
Năm
1622 khi được phong thánh, thì Phanxicô Xavie vị "Tông đồ của dân An độ"
cũng được tuyên phong với Ngài.
Năm
1575, Đức giáo hoàng Gregoriô XIII đã cho Ngài và anh em linh mục thuộc nhóm
Ngài một nhà thờ. Họ tái thiết thành một nhà thờ mới và ngày nay cũng chính là
nhà mẹ ở Roma của dòng giảng thuyết. Philipphê được đặt làm bề trên của hội
dòng mới, dòng giảng thuyết. Ngài hướng dẫn anh em trong dòng sống như như các
linh mục triều, không có lời khấn nào đặc biệt, nhưng liên kết với nhau trong
tình yêu thương nhau, trong một mục đích là phục vụ các linh hồn bằng việc cầu
nguyện, giảng dạy và ban các phép bí tích. Ngài không đặt ra nhiều lề luật và
ngày nay có tới 40 nhà dòng giảng thuyết gồm các phần tử sống theo đường lối của
thánh Philipphê Nêrô.
Năm
1595, thánh Philipphê ngã bệnh. Ngày 25 tháng 5 Ngài dâng lễ và ngồi tòa như
thường lệ. Nhưng sáng hôm sau Ngài bị thổ huyết, trong khi giơ tay chúc lành
cho cộng đoàn và miệng lẩm bẩm : - Đây là tình yêu của con, hạnh phúc của lòng
con và thánh nhân đã phó mình cho tình yêu.
(daminhvn.net)
26
Tháng Năm
Sức Mạnh Lời Chúa
Tokichi
Ishi-I, một tên giết người không gớm tay, đã đạt được kỷ lục hạ sát nhiều nạn
nhân nhất bằng những phương thế dã man không thể tưởng tượng nổi.
Hắn
ta tàn nhẫn hạ sát đàn ông, phụ nữ, kể cả trẻ em. Với bàn tay khát máu, hắn đã
thủ tiêu bất cứ người nào tình cờ hắn gặp và muốn giết. Nhưng cuối cùng hắn
cũng bị bắt và bị kết án tử hình.
Lúc
ở nhà tù chờ ngày hành quyết, hai phụ nữ công tác tông đồ thử khuyên nhủ hắn,
nhưng tất cả những câu hỏi han, trò chuyện của họ cũng không làm cho hắn mảy
may động tâm, trái lại hắn nhìn thẳng vào họ với một cặp mắt dữ tợn như một
hung thú.
Cuối
cùng, mất hết kiên nhẫn, hai phụ nữ ra về. Họ chỉ để lại cho hắn quyển Tân Ước,
với một hy vọng mỏng manh là hắn ta sẽ đọc và Lời Chúa sẽ hoạt động nơi tiếng
nói con người trở nên hoàn toàn bất lực. Niềm hy vọng của họ đã trở thành sự thật.
Ishi-I đã đọc và những câu chuyện trong Tân Ước hình như có một sự thu hút mãnh
liệt khiến hắn cứ tiếp tục đọc, đọc mãi và cuối cùng hắn đọc đến câu chuyện diễn
tả cuộc tử nạn của Chúa Giêsu. Câu Chúa Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha trên thập
giá: "Lạy Cha, xin Cha tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng
làm", đã thắng sự chống trả cuối cùng trong tâm hồn của hắn. Sau đó anh
thuật lại: "Ðọc đến câu này tôi mới dừng lại. Con tim tôi hình như bị đánh
động, bị đâm thâu bằng một con dao dài. Tôi có thể gọi đó là tình yêu của ông
Giêsu hay tôi phải gọi đó là lòng thương xót của Ngài? Tôi không biết, nhưng điều
duy nhất tôi biết là sự hung dữ, tàn bạo nơi tôi đã tan biến và tôi đã
tin".
Ông
Chrgwin, tác giả đã viết câu chuyện trên trong quyển sách mang tựa đề
"Thánh Kinh trong thế giới truyền giáo" đã kết thúc câu chuyện bằng sự
ngạc nhiên tột độ của những nhân viên nhà giam có phận sự đến dẫn độ Ishi-I đi
hành quyết. Họ đã không gặp được tên sát nhân hung bạo như họ chờ đợi, nhưng là
một con người hòa nhã, lễ độ. Ishi-I, tên sát nhân đã được Lời Chúa tái sinh.
Lời
Chúa có sức mạnh vạn năng. Lời Chúa có thể biến đổi tâm hồn một tên sát nhân giết
người không gớm tay như anh Tokichi Ishi-I và bao tâm hồn sa ngã khác. Lời Chúa
có thể là động lực cho bao công tác bác ái của các tu sĩ nam nữ, đang dấn thân
phục vụ những trẻ con bị bỏ rơi, những người già nua hấp hối không ai chăm sóc,
những kẻ phải sống bên lề xã hội.
(Lẽ
Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét