29/05/2016
Chúa Nhật tuần 9 thường niên
Mình Máu Thánh Chúa Giêsu năm C.
Lễ TRỌNG. Lễ HỌ. Cầu cho giáo dân.
(Phần II)
Phụng
vụ Lời Chúa: Chúa Nhật Lễ Mình Máu Thánh Chúa -
Năm C
CHÚA NHẬT IX THƯỜNG NIÊN C
LỄ MÌNH MÁU THÁNH CHÚA
St 14,18-20; 1 Cr 11,23-26
Lc 9,11b-17
LỄ MÌNH MÁU THÁNH CHÚA
St 14,18-20; 1 Cr 11,23-26
Lc 9,11b-17
TRUNG GIAN CỨU ĐỘ
“Mọi người đều ăn, và ai nấy được no nê”
(Lc 9,17)
(Lc 9,17)
I. CÁC BÀI ĐỌC
Các bài đọc trong phụng vụ lễ Mình và Máu Thánh Chúa làm nổi bật vai trò trung gian: ông Menkixêđê là trung gian để ông Ápraham nhận phúc lành từ Thiên Chúa; Chúa Giêsu là trung gian của Giao Ước Mới khi hiến thân cho nhân loại; Nhóm Mười Hai là trung
gian để Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều nuôi đám đông dân chúng. Mọi vai trò trung gian cuối cùng đều qui về Chúa Giêsu, Đấng là trung gian cứu độ duy nhất của nhân loại, vì “ngoài Người ra, không ai đem lại ơn cứu độ” (Cv 4,12).
1. Bài đọc 1:
Đây là lần đầu tiên ông Menkixêđê được tác giả Kinh Thánh đề cập đến. Ông được giới thiệu như là vua và thượng tế của Thiên Chúa tối cao, ngay cả trước khi có sự thiết lập hàng tư tế Lêvi. Sau này, hình ảnh ông Menkixêđê sẽ được tác giả Tân Ước dùng để trình bày nền thần học về chức tư tế của Chúa Kitô.
Trước hết, tác giả sách Sáng Thế tường thuật việc ông Menkixêđê ra đón gặp và chúc lành cho ông Ápram (Ápraham)
khi ông này vừa thắng trận trở về (St 14,19-20). Lời chúc lành của ông Menkixêđê cho thấy vị thế cao trọng của ông trên ông Ápraham, vì “chỉ người dưới mới nhận lời chúc lành của người trên” (Hr 7,7).
Vị thế cao trọng của ông Menkixêđê còn được khẳng định hơn nữa qua việc ông Ápraham “biếu ông Menkixêđê một phần mười tất cả chiến lợi phẩm” (St
14,20b). Một đàng, theo truyền thống, chi tộc tư tế Lêvi nhận một phần mười hoa lợi từ các chi tộc khác; đàng khác, tư tế Menkixêđê lại nhận một phần mười từ Ápraham là tổ phụ của các chi tộc Israen. Như thế, chức tư tế của ông Menkixêđê không những khác mà còn trổi vượt hơn chức tư tế Lêvi. Sau này, tác giả thư Hípri dùng hình ảnh tư tế Menkixêđê, như được nhắc đến trong sách Sáng Thế và Thánh Vịnh 110, để trình bày Đức Kitô như là Vua và là Thượng Tế, “theo phẩm trật Menkixêđê” (Tv
110,4; Hr 5,6.10; 6,20; 7,11.17).
Sau nữa, khi chúc lành cho ông Ápraham, ông Menkixêđê cũng nhận được phúc lành của Thiên Chúa theo như lời hứa của Thiên Chúa đối với ông Ápraham rằng:“Ta sẽ chúc phúc cho những ai chúc phúc cho ngươi” (St 12,3).
Quả vậy, lời chúc lành của ông Menkixêđê: “Chúc
tụng Thiên Chúa Tối Cao, Đấng đã trao vào tay ông những thù địch của ông” (St
14,20a) cho thấy rằng mọi phúc lành đều phát xuất từ Thiên Chúa. Chiến thắng của ông Ápraham cũng do Thiên Chúa, Đấng ban phúc lành và xứng đáng nhận mọi lời chúc tụng. Ông Menkixêđê, vì là vua và tư tế, đóng vai trò trung gian vừa để chuyển đến ông Ápraham phúc lành của Thiên Chúa, vừa thay lời cho Ápraham mà tôn vinh chúc tụng Thiên Chúa. Sau này, tác giả thư Hípri sẽ dùng hình ảnh ông Menkixêđê để trình bày Đức Giêsu như là tư tế trung gian của một giao ước mới giữa Thiên Chúa và con người (x. Hr 8,6; 9,15; 12,24).
Như thế, khi cho thấy vị thế của ông Menkixêđê như là trung gian giữa Thiên Chúa và ông Ápraham, tác giả sách Sáng Thế cung cấp một nền tảng thần học quan trọng, mà sau này tác giả thư Hípri dùng để trình bày về vai trò trung
gian giao ước mới của Đức Giêsu, Đấng là tư tế đến muôn đời theo phẩm trật Menkixêđê.
2. Bài đọc 2:
Đặt trong bối cảnh có sự chia rẽ trong cộng đoàn Côrintô khi các tín hữu cử hành “bữa tối của Chúa” cách bất xứng, khiến việc cử hành không đem lại lợi ích cho họ (x. 1 Cr 11,17-22), thánh Phaolô xác nhận rằng việc cử hành “bữa tối của Chúa” là giáo huấn mà ngài “đã lãnh nhận từ nơi Chúa” (11,23) và đóng một vai trò rất quan trọng trong
việc tưởng nhớ và loan truyền về cái chết của Ngài. Bài tường thuật của thánh Phaolô có các điểm chính sau đây.
Trước hết, bài tường thuật của thánh Phaolô minh xác về Mình và Máu Chúa Kitô. Quả vậy, trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu đã khẳng định cách rõ ràng và chắn chắn rằng bánh và rượu mà ngài trao cho
các môn đệ chính là Mình và Máu Ngài. Cũng vậy, bánh và rượu mà các tín hữu Côrintô đón nhận trong khi cử hành “bữa tối của Chúa” không còn là bánh và rượu nữa, nhưng đã được biến đổi thành Mình và Máu Chúa Giêsu. Vì thế, việc cử hành “bữa tối của Chúa” không phải là chuyện ăn, chuyện uống, để rồi có kẻ no say, người lại đói (x. 1 Cr 11,21), nhưng là thật sự đón nhận Mình và Máu Chúa Kitô. Do đó, cần có sự cung kính, xét mình cẩn thận để không đón nhận Mình và Máu Chúa Kitô cách bất xứng, vì bất kỳ sự xúc phạm nào đều dẫn đến án phạt (x. 1 Cr 11,27-29).
Hơn nữa, bài tường thuật của thánh Phaolô xác nhận về giá trị Giao Ước Mới được lập bằng máu Chúa Giêsu. Thật vậy, theo truyền thống Do thái, chỉ có máu mới có thể “xá tội” cho con người (x. Lv 17,11). Tuy nhiên, máu các con vật trong giao ước cũ, dù được lặp đi lặp lại nhiều lần, không thể vĩnh viễn thanh tẩy tội lỗi con người. Trái lại, “Đức Kitô đã tự hiến tế chỉ một lần, để xoá bỏ tội lỗi muôn người” (Hr 9,28),
vì “Người
là trung
gian của một Giao Ước Mới, lấy cái chết của mình mà chuộc tội lỗi người ta đã phạm trong thời giao ước cũ, và đem lại cho những ai được Thiên Chúa kêu gọi quyền lãnh nhận gia nghiệp vĩnh cửu Thiên Chúa đã hứa” (Hr 9,15).
Sau cùng, bài tường thuật của thánh Phaolô nhấn mạnh lệnh truyền của Chúa Giêsu về việc tiếp tục cử hành “bữa tối của Chúa”. Thật vậy, thánh Phaolô hai lần nhắc lại lời Chúa Giêsu rằng “anh
em hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”(11,24.25), vì “mỗi lần ăn Bánh và uống Chén này, là anh em loan truyền Chúa đã chịu chết” (11,26).
Việc cử hành “bữa tối của Chúa” không chỉ là một sự chọn lựa mà là một mệnh lệnh của Chúa Giêsu thúc bách các tín hữu Côrintô hãy tiếp tục thi hành, vừa để tưởng nhớ hiến tế Thầy đã thực hiện để đem lại sự sống cho họ, vừa để loan truyền về cái chết của Thầy “cho
tới ngày Chúa đến” (11,26),
ngày Đức Giêsu trở lại trong vinh quang.
3. Bài Tin Mừng:
Khi các
Tông Đồ trở về sau chuyến hành trình “rao giảng Nước Thiên Chúa”, Chúa Giêsu đưa riêng các ngài đến một nơi yên tĩnh để nghỉ ngơi. Nhưng khi đối diện với đám đông dân chúng đang tìm cách đến với mình, Chúa Giêsu không những không chối từ mà còn ân cần đón tiếp, rao giảng, chữa lành cho họ (9,11b), đồng thời, qua phép lạ hóa bánh ra nhiều, Người đáp ứng nhu cầu của họ (9,12-17).
Trước hết, các môn đệ nhận thức rõ rằng vào buổi chiều tà dân chúng cần chỗ trọ và thức ăn, nhưng giải pháp các ông đưa ra chỉ đơn giản là giải tán đám đông để họ tự giải quyết vấn đề của họ. Chúa Giêsu không chọn cách giải quyết đó, nhưng đòi buộc các môn đệ: “Chính
anh em hãy cho họ ăn” (9,13).
Các môn đệ cần phải nỗ lực trong khả năng của mình để nhằm đáp ứng nhu cầu của dân chúng và dù sự nỗ lực của các ông không đủ để thỏa mãn họ (“chúng con chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá”), vẫn có giá trị như một sự hợp tác khởi đầu để phép lạ xảy ra. Sự nỗ lực của các môn đệ vừa giúp các ông nhận thấy giới hạn của mình, vừa làm nổi bật quyền năng của Chúa Giêsu.
Thêm vào
đó, trọng tâm của phép lạ là hành động mang đầy tính biểu tượng của Chúa Giêsu. Thật vậy, các hành động của Chúa Giêsu như “cầm lấy”, “chúc tụng”,“bẻ ra” và “trao cho” là dấu chỉ báo trước việc Người sẽ “cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra, trao cho các ông và nói: ‘Đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em’” (Lc
22,19). Năm chiếc bánh và hai con cá không
thấm vào đâu so với đám đông dân chúng, nhưng một khi được bẻ ra và ban phát như là “mình Thầy” thì luôn đủ cho tất cả mọi người. Chỉ có tấm bánh cuộc đời Chúa Giêsu, một khi được bẻ ra qua cuộc sống và cái chết cho con người, mới có sức sống thần thiêng để thỏa mãn những khát vọng sâu xa nhất của con người.
Cuối cùng, từ năm chiếc bánh và hai con cá mà mọi người đều được ăn no nê nhưng vẫn còn dư mười hai thúng. Trong tư cách là môn đệ của Chúa Giêsu, Nhóm Mười Hai vẫn chỉ như những “quản gia trung tín và khôn ngoan” để ban phát ân sủng của Thiên Chúa cho dân của Ngài “đúng giờ đúng lúc” (x. Lc
12,41-48). Ân sủng Thiên Chúa luôn dư tràn, nên các Tông Đồ hãy trở nên những quản gia quảng đại của Thiên Chúa. Việc thu lại những “miếng vụn còn thừa” như một lời nhắc nhở các ông về lời mời gọi trước đó của Chúa Giêsu rằng “anh
em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại”, vì Ngài “sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em” (Lc
6,38).
II. GỢI Ý ÁP DỤNG:
1/ Trong vai
trò là vua và tư tế của Thiên Chúa tối cao, ông Menkixêđê trở nên trung gian để Thiên Chúa chúc lành cho ông Ápraham và nhờ ông “mọi gia tộc trên mặt đất được chúc lành” (St 12,3). Khi lãnh nhận phép Rửa Tội, tôi cũng được tham gia
vào ba chức vụ của Chúa Giêsu là tư tế, vương đế và ngôn sứ. Tôi được trao cho nhiệm vụ làm trung gian để phúc lành của Thiên Chúa đến với người khác. Tôi thực hiện nhiệm vụ này thế nào?
2/ Đặt trong bối cảnh các tín hữu Côrintô cử hành “bữa tối của Chúa” cách bất xứng và gây chia rẽ, thánh Phaolô cho thấy rằng “bữa tối của Chúa” không phải là chuyện ăn uống, mà có kẻ no say người lại đói, nhưng là bữa tiệc Mình và Máu Chúa Kitô đổ ra để thiết lập Giao Ước Mới với con người, nhờ đó con người được tha tội mà giao hòa với Thiên Chúa. Do đó, các tín hữu phải cử hành mà loan truyền việc Chúa Kitô đã chết và đã sống lại cho đến khi Người trở lại trong vinh quang. Tôi có tham dự tiệc Mình và Máu Chúa Kitô cách bất xứng? Tôi có xem bữa tiệc Thánh Thể là cách loan truyền về Chúa Kitô, Đấng đã chết và sống lại vì tôi, cho đến khi Người lại đến?
3/ Phép lạ hóa bánh ra nhiều cho thấy quyền năng của Đức Giêsu, Đấng hiến thân mình để ban phát dồi dào ân sủng của Thiên Chúa cho những ai tin. Phép lạ còn thôi thúc các môn đệ hãy trở nên những trung gian quảng đại ban phát ơn lành của Thiên Chúa cho những ai đang khao khát Ngài. Biết bao người vẫn đang đói khát lương thực thiêng liêng, là môn đệ Chúa Kitô, tôi có sẵn sàng trở nên cầu nối để dẫn người ta đến với Chúa là nguồn sự sống đích thực?
III. LỜI NGUYỆN CHUNG:
Chủ tế: Anh chị em thân mến! Chúa Giêsu đã thiết lập bí tích Thánh Thể để hiến ban Mình và Máu Người làm lương thực dưỡng nuôi linh hồn chúng ta.
Trong tâm tình cảm mến tri ân, chúng ta hãy đồng thanh cảm tạ Chúa và khẩn khoản cầu xin.
1- Bí tích
Thánh Thể là dấu chỉ sự hiện diện yêu thương của Chúa Kitô ở giữa nhân loại. Chúng ta cùng cầu xin cho các vị mục tử trong Hội Thánh luôn chuyên cần và sốt sắng cử hành mầu nhiệm Thánh Thể, sống theo gương hy sinh
quên mình của thầy chí thánh, để giới thiệu Chúa Kitô cách sống động cho con người thời đại.
2- Đức Kitô là bánh bởi trời ban cho
con người sức sống dồi dào. Chúng ta cùng cầu xin cho các nhà lãnh đạo trên thế giới biết quan tâm bảo vệ và phục vụ quyền sống của con người, cho người dân của các nước nghèo được thụ hưởng những quyền lợi tối thiểu cả vật chất lẫn tinh thần cho xứng với phẩm giá làm người của họ.
3- Bí tích
Thánh Thể là quà tặng thần linh Chúa Giêsu dành cho mọi tín hữu. Chúng ta cùng cầu xin cho các Kitô hữu biết trân trọng và yêu mến Bí tích Cực Thánh, luôn
siêng năng tham dự cử hành Thánh Thể, để được kết hiệp mật thiết với Chúa Kitô và hiệp thông huynh đệ với nhau, hầu tích cực xây dựng Nhiệm Thể Chúa là Hội Thánh.
4- Bí tích
Thánh Thể là bảo chứng cho đời sống vĩnh cửu và vinh
quang thiên quốc. Chúng ta cùng cầu xin cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta được Chúa liên kết và biến đổi trở nên những tấm bánh bẻ ra cho thế giới mới, hăng hái xây dựng nước Chúa nơi trần gian, hầu ngày sau xứng đáng chung hưởng hạnh phúc nước trời.
Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu Kitô là
nguồn sống và hy vọng của nhân loại, xin nhậm lời chúng con cầu nguyện; và nâng đỡ chúng con trong cuộc sống làm chứng hôm nay, để mai sau xứng đáng tham dự bàn tiệc Nước Trời. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
SCĐ LỄ KÍNH
MÌNH VÀ MÁU THÁNH CHÚA KITÔ
Chủ đề :
Mình và Máu Chúa Giêsu là lương
thực cho loài người
Phép
lạ hóa bánh ra nhiều (Lc 9,11-17)
Sợi
chỉ đỏ :
- Bài
đọc I (St 14,18-20) : Thầy cả Melkixêđê dâng bánh rượu cho ông Abraham.
- Đáp
ca (Tv 109) : ca tụng Đức Kitô là Thượng Tế.
- Tin
Mừng (Lc 9,11-17) : Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều
- Bài
đọc II (1 Cr 11,23-26) : Tường thuật việc Chúa Giêsu lập Bí tích Thánh Thể.
I.
Dẫn vào Thánh lễ
Anh
chị em thân mến
Thánh
lễ là Bàn tiệc. Rước lễ là ăn uống chính Mình và Máu Thánh Chúa, thứ lương thực
tuyệt hảo nuôi sống và bổ dưỡng linh hồn chúng ta. Nếu linh hồn chúng ta yếu,
Mình Máu Thánh Chúa sẽ bổ sức cho mạnh ; nếu ta đang chán nản, Chúa sẽ ban
lại cho ta niềm hy vọng ; nếu chúng ta cảm thấy người khác khó thương,
Ngài sẽ ban thêm cho ta lòng mến.
Chúng
ta hãy sốt sắng tham dự Thánh Lễ này, nhất là sốt sắng rước Chúa vào lòng để
cho Ngài nuôi dưỡng linh hồn chúng ta.
II.
Gợi ý sám hối
-
Chúng ta lo tìm lương thực phần xác hơn là lương thực phần hồn.
-
Chúng ta cùng tham dự một bàn tiệc Chúa, cùng ăn một thứ lương thực là Mình Máu
Chúa, nhưng chúng ta không đoàn kết yêu thương nhau.
-
Chúng ta được nuôi dưỡng bằng bánh bởi trời, nhưng chúng ta còn quá lo lắng trước
những khó khăn trần thế.
III.
Lời Chúa
1. Bài
đọc I (St 14,18-20) :
Văn mạch
của câu chuyện này là Abraham vừa mới chiến thắng liên minh nhiều vua trong
vùng (xem St 14,1-16).
Hay
tin ấy, Melkisêđê, vừa là vua vừa là tư tế thành Salem, đã đem lễ vật gồm bánh
và rượu tới dâng cho Abraham để chúc mừng ông ; đồng thời Melkisêđê cũng
nhân danh Thiên Chúa tối cao chúc lành cho Abraham.
Phần
Abraham. mặc dù lúc ấy ông đã hùng mạnh, nhưng ông cũng bày tỏ lòng thần phục vị
Tư Tế của Thiên Chúa, nên đã nộp cho vị này một phần mười tất cả các chiến lợi
phẩm.
2. Đáp
ca (Tv 109)
Tv
109 ca tụng Đấng Messia như một vì vua thống trị tất cả các vua trên mặt đất.
Câu
đáp "Con là Thượng tế đến muôn đời theo phẩm hàm Melkisêđê" lại cho
thấy Vua Messia ấy còn là Thượng tế nữa.
Cả
hai tước hiệu Vua và Thượng Tế đều được áp dụng cho Chúa Giêsu.
3. Tin
Mừng (Lc 9,11-17) :
Phép
lạ hóa bánh ra nhiều.
Cách
viết của thánh Luca chứa nhiều ngụ ý :
- Ngụ
ý nhắc lại phép lạ manna ngày xưa : nơi diễn ra phép lạ là "sa mạc",
một đám đông dân chúng đang đói, họ đã được ban cho một thứ bánh phép lạ, dư lại
12 thúng tương đương con số các chi tộc Israel à Như thế, phép lạ này
tái diễn phép lạ manna trong sa mạc ngày xưa và còn trổi vượt hơn phép lạ xưa ấy
nữa.
- Ngụ
ý ám chỉ bí tích Thánh Thể mà Chúa Giêsu sẽ lập : thời điểm diễn ra là
"khi đã xế chiều" (giống bữa tiệc ly), những cử chỉ của Chúa Giêsu
"cầm lấy", "nhìn lên", "chúc tụng", "bẻ
ra" và "chia" (giống những cử chỉ Chúa Giêsu làm khi lập phép
Thánh Thể).
Tóm lại,
phép lạ hóa bánh ra nhiều này nhắc lại phép lạ manna ngày xưa và là hình ảnh
tiên báo về Bí tích Thánh Thể.
4. Bài
đọc II (1 Cr 11,23-26) :
Thời
đó, tín hữu có thói quen cử hành "bữa tiệc Thánh Thể" (Cena) trong
khung cảnh một "bữa ăn huynh đệ" (agape). Ý nghĩa của bữa Cena là như
sau : mỗi khi họp nhau để cử hành Thánh Thể, các tín hữu đem theo của ăn
thức uống góp chung lại, một phần để giúp những anh em nghèo túng, phần còn lại
chia nhau dùng chung.
Nhưng
ở Côrintô những người giàu đã vội vàng ngồi vào bàn và ăn uống trước không chờ
những người nghèo. Tệ hơn nữa, những bữa ăn ấy lại là dịp cho họ nhậu nhẹt say sưa.
Để sửa
tệ nạn ấy, Thánh Phaolô nhắc lại truyền thống bữa Tiệc ly của Chúa. Ở đây,
Phaolô trích dẫn một bản văn phụng vụ về việc Chúa lập bí tích Thánh Thể. Đây
là một tài liệu rất quý giá (cc 23-27). Sau đó (cc 28-34) ngài khuyến khích họ
cử hành Thánh Thể một cách xứng đáng và đúng nghĩa. Tham dự cách bất xứng là
tham dự Thánh Thể mà không quan tâm đến việc chia xẻ với những anh em nghèo
túng, không nhận biết cộng đoàn Giáo Hội là thân mình của Đức Kitô được xây dựng
trong tiệc Thánh Thể (ý nghĩa kiểu nói "phân biệt được Thân mình").
IV.
Gợi ý giảng
1. Lễ
Tạ Ơn
Theo
nguyên ngữ, Eucharistia, Thánh lễ là một lễ Tạ ơn. Ý nghĩa này rất rõ trong các
bài đọc hôm nay :
- Tư
tế Melkisêđê hay tin Abraham chiến thắng thì đã "chúc tụng Thiên
Chúa" (bài đọc I). Chúc tụng là một cách tạ ơn.
-
Abraham nộp cho vị Tư Tế của Thiên Chúa một phần mười tất cả các chiến phẩm
cũng là để bày tỏ tâm tình tạ ơn (bài đọc I).
- Khi
Chúa Giêsu lập Bí tích Thánh Thể, Ngài cũng "cầm lấy bánh và tạ ơn"
(bài đọc II)
- Khi
Ngài làm phép lạ hóa bánh ra nhiều, hình ảnh tiên báo Bí tích Thánh Thể, Ngài
cũng "cầm lấy, ngước mắt nhìn lên trời và chúc tụng" (chúc tụng là tạ
ơn) (bài Tin Mừng).
Nhưng
ngày nay khi chúng ta dự Thánh lễ, hầu như chúng ta chỉ biết xin ơn mà quên tạ
ơn.
Có biết
bao điều ta có thể tạ ơn Chúa mỗi khi tham dự Thánh Lễ.
2. Những
điều tầm thường trở thành phi thường
Trong
các bài đọc hôm nay, chúng ta thấy nhiều điều rất tầm thường trong cuộc sống
bình thường : bánh, rượu, ăn, uống, cầm, bẻ ra, chia…
Nhưng
Melkisêđê đã dùng bánh và rượu ấy để làm lễ tế ; Chúa Giêsu cũng dùng bánh
và rượu để biến thành Mình và Máu Ngài. Và Chúa Giêsu đã làm việc đó bằng những
cử chỉ bình thường như cầm lấy, bẻ ra, trao…
Trong
Thánh lễ, tất cả những điều bình thường và thậm chí tầm thường đều có thể trở
thành phi thường, cao cả, thánh thiện.
Vậy mỗi
khi tham dự Thánh lễ, chúng ta hãy đến với những sự tầm thường và thánh hóa
chúng thành những điều phi thường. Thí dụ : mồ hôi, nước mắt, việc làm,
tâm tư, nguyện ước….
3. Quen
thuộc hóa
Linh
mục Walter Ciszek bị quân Nga bắt trong thế chiến thứ hai. Ngài bị kết tội là
"Gián điệp Vatican" và phải qua 23 năm trong tù và trong các trại lao
động Sibêrica. Cuối cùng, khi ra khỏi tù, Ngài viết lại một quyển sách về những
kinh nghiệm của mình và đặt tựa cho nó là : "He Liadeth me"
(Ngài dẫn dắt tôi)
Một số
câu chuyện cảm động trong cuốn sách nói về những hy sinh mà các tù nhân phải chịu
để được nhận lãnh Mình Thánh Chúa Kitô ở trong tù. Đặc biệt có một câu chuyện
đáng ghi nhớ. Trước khi chia sẻ câu chuyện này với anh chị em, tôi xin trình
bày bối cảnh của câu chuyện :
Vào
những ngày xảy ra thế chiến thứ hai, tức là trước Công Đồng Vatican II, giáo luật
buộc kiêng ăn uống suốt 24 giờ đồng hồ trước khi rước lễ. Xin lưu ý điều này
khi đọc đoạn văn sau trích từ quyển sách của Linh mục Ciszek :
"Tôi
thấy các tù nhân phải bỏ bớt giấc ngủ cần thiết và thức dậy trước chuông rung để
tham dự thánh lễ bí mật. Chúng tôi sẽ bị trừng trị nghiêm khắc nếu bị khám phá
đang hành lễ và luôn luôn lúc nào cũng có những tên chỉ điểm… Tất cả điều trên
khiến cho những thánh lễ có đông tù nhân trở nên rất khó khăn, vì thế khi có thể
chúng tôi thường truyền phép thêm bánh lễ để phân phối cho các tù nhân khác.
Đôi khi chúng tôi thường chỉ trông thấy họ khi chúng tôi trở về trại vào ban tối
trước bữa ăn. Tuy vậy, những người này thường phải thực sự nhịn đói cả ngày và
phải lao động cật lực mà không dám ăn một miếng kể từ bữa ăn tối chiều hôm trứơc
chỉ với mục đích là để có thể rước Thánh Thể, điều này cho thấy Bí Tích Thánh
Thể có ý nghĩa với họ biết là dường nào !" (Trích từ He Leadeth me của
Walter Ciszek và Daniel Fatherly, bản 1973 của Walter J. Ciszek S. J).
Nói
cách khác, trường hợp các tù nhân có thể sánh hệt như vào giờ này hôm qua đến
giờ này hôm nay anh chị em và tôi chẳng hề ăn uống gì cả, đồng thời chúng ta lại
đang phải lao động vất vả trong thời tiết dưới không độ. Điều ấy cho thấy sự rước
lễ có ý nghĩa biết bao đối với Linh Mục Ciszek và các tù nhân của Ngài.
Câu
chuyện trên thật thích hợp với lễ Mình Thánh Chúa Kitô hôm nay. Hai tiếng La
Tinh "Corpus Christi" có nghĩa là "Thân Thể Chúa Kitô"… Vào
dịp lễ Mình Thánh Chúa Kitô này, chúng ta tôn vinh thân xác Chúa Giêsu trong
phép Thánh Thể.
Tại
sao chúng ta dành riêng một ngày đặc biệt để tôn vinh "Mình Thánh"
Chúa Kitô ? Chúng ta đã chẳng tôn vinh Mình Thánh Chúa Kitô vào mỗi khi
dâng Thánh lễ sao ? Vậy tại sao lại có ngày dành riêng đặc biệt này ?
Lý do
chúng ta mừng lễ Mình Thánh Chúa Giêsu cũng chính là lý do khiến chúng ta mừng
ngày dành riêng cho các bậc làm cha hôm nay. Bởi khuynh hướng con người chúng
ta thường xem những tặng phẩm đặc biệt là điều dĩ nhiên, chẳng hạn như thân
mình Chúa Giêsu hoặc các người bố của chúng ta.
Một
trong những bi kịch lớn nhất của cuộc đời chúng ta thường đánh mất sự quí trọng
đối với một vài tặng phẩm quí giá nhất mà chúng ta đang có. Tại sao vậy ?
Các nhà tâm lý học cho chúng ta hay là nếu chúng ta cứ phải chú ý đến từng âm
thanh chúng ta nghe hoặc từng mầu sắc chúng ta thấy thì chắc chắn chúng ta sẽ
phát điên lên. Vì thế để bảo vệ chúng ta khỏi sự điên khùng này, chúng ta liền
thích ứng với những âm thanh và mầu sắc này, chúng ta đóng khung chúng khỏi ý
thức mình. chẳng hạn, nếu chúng ta nghe ai đó đánh máy trong phòng bên cạnh thì
chúng ta sẽ để cho lỗ tai làm quen với âm thanh ngay. Các nhà tâm lý học gọi tiến
trình này là "Quen thuộc hoá" (habituation).
Tuy
nhiên cũng có mặt trái của sự quen thuộc này. Bởi vì chúng ta thường dễ có
khuynh hướng làm ngơ trước mọi sự, chẳng hạn những buổi mặt trời lặn, những
bông hoa, bè bạn, các bà mẹ, các ông bố và ngay cả Mình Máu Thánh Chúa Kitô.
Chúng ta đánh mất sự quý chuộng và sự biết ơn về những điều ấy. Chúng ta xem đó
như những điều đương nhiên.
Sự
quen thuộc hoá này là một trong những lý do quan trọng khiến môn Thiền đã trở
nên khá phổ biến. Mục đích của việc thiền định là giúp chúng ta tiêu trừ
"sự quen thuộc hoá" này. Nó giúp chúng ta ý thức trở lại vẻ đẹp của
hoàng hôn, của bông hoa, của bè bạn. Trong thiền định, người ta cố gắng tập
trung chú ý vào một đối tượng thân thuộc, chẳng hạn một bông hoa, như thể lần đầu
tiên người ta trông thấy nó ; hoặc tập trung vào một kẻ mình yêu mến chẳng
hạn ông bố của mình như thể đây là lần sau cùng mình trông thấy ông và ao ước
cho hình ảnh ông ấy trường tồn mãi trong tâm trí.
Điều
này dẫn chúng ta đến với Mình Thánh Chúa Kitô. Lễ Mình Thánh Chúa Kitô đưa ra
cho chúng ta lời mời gọi lẫn thách thức.
Trước
hết là lời mời gọi. Mình Thánh Chúa Kitô mời gọi chúng ta tự vấn xem việc rước
lễ có ý nghĩa gì với chúng ta ? Chúng ta còn trân trọng việc ấy nhiều như
khi chúng ta rước lễ lần đầu không ? Việc rước lễ có ý nghĩa đối với chúng
ta nhiều như đối với các tù nhân trong cuốn sách của Linh Mục Ciszek
không ?
Nếu
câu trả lời của chúng ta là không thì chúng ta sẽ gặp phải một lời thách thức.
Đây cũng là lời thách thức dành cho các bậc làm bố đặt ra cho chúng ta. Thách
thức đó là : "Làm thế nào chúng ta có thể tìm lại được sự quí chuộng
đối với phép Thánh Thể cũng như sự quí chuộng đối với bố mình ? Làm thế
nào chúng ta có thể phấn khích trở lại về cả hai tặng phẩm ấy ?"
Một
phương cách giúp chúng ta làm được điều đó là bắt chước các thiền sư. Chúng ta
cố gắng suy niệm về Mình Thánh Chúa Kitô như thể lần đầu tiên chúng ta khám phá
ra mầu nhiệm này.
Cách
đây một ít năm, bà Emilie Griffin làm nghề quảng cáo ở Nữu Ước đã trở lại đạo
Công Giáo. Bà có viết một cuốn sách hấp dẫn tựa đề Turning (Trở lại), trong đó
bà bàn về lý do lôi kéo bà đến với đạo Công Giáo như sau :
"Lòng
sùng mộ gia tăng đối với phép Thánh Thể và niềm tin vào việc Chúa hiện diện thực
sự đã lôi kéo tôi đến nhà các nhà thờ thuộc Công giáo Rôma và trong khi lòng
sùng mộ phép Thánh Thể càng gia tăng thì tôi lại càng bị lôi cuốn đến với Công
giáo Rôma".
Như
thế, chúng ta nên cố gắng suy niệm về bí tích Thánh Thể theo gương Emilie
Griffin khi bà khám phá ra mầu nhiệm khôn dò này ngay trong lần đầu tiên.
Tôi
xin được phép kết thúc bài giảng với hai gợi ý sau.
Thứ
nhất, trong tuần lễ sắp tới, anh chị em hãy gia tăng lời cảm tạ Chúa Giêsu vào
giờ kinh nguyện hằng ngày vì Ngài đã tặng ban Máu Thịt Ngài làm quà cho chúng
ta.
Thứ đến,
kể từ nay trong giờ lễ mỗi khi bước ra khỏi hàng ghế để lên nhận Mình Thánh
Chúa, anh chị em hãy tập trung ý nghĩ một cách đặc biệt vào Đấng mà anh chị em
sắp lãnh nhận khi thừa tác viên Bí tích Thánh Thể nâng Bánh Thánh lên
nói : "Mình Máu Chúa Kitô". Bởi vì :
Anh
chị em sắp lãnh nhận thân xác sống động của Chúa Kitô.
Anh
chị em sắp lãnh nhận chính Chúa Giêsu đã sinh ra ở Belem.
Anh
chị em sắp lãnh nhận chính Chúa Giêsu đã chết trên thập giá.
Anh
chị em sắp lãnh nhận chính Chúa Giêsu phục sinh từ cõi chết.
Khi
anh chị em suy nghĩ về điều này, chắc chắn anh chị em khó thể nào tin nổi vì điều
ấy thật khó mà tưởng tượng được, tuy nhiên nhờ đức tin chúng ta biết rằng điều ấy
quả có thực. Chỉ một mình Thiên Chúa giàu lòng yêu thương mới có thể ban cho
chúng ta một quà tặng khôn tưởng như thế. (Vietcatholic)
4. Lương
thực thần linh
Một số
anh chị em dự tòng sau khi được học hỏi về sự cao quý, về tầm quan trọng và về
sự cần thiết của thánh lễ cũng như của bí tích Thánh Thể đã đưa ra câu hỏi :
Nếu thánh lễ và mầu nhiệm Thánh Thể cao quí và cần thiết cho đời sống thiêng
liêng như vậy, thì tại sao nhiều người công giáo lại không đi dâng lễ, hay nếu
có đi thì lại ngồi ở ngoài hút thuốc, nói chuyện, chơi giỡn và hầu như không
bao giờ rước Mình Thánh Chúa ?
Một
câu hỏi quả là gây nhức nhối và rất đáng để những người mang danh là Kitô hữu
phải suy nghĩ. Có lẽ ta khó có thể tìm được một lý do nào chính đáng để trả lời
cho thắc mắc này ngoài việc nhận thực rằng : tại do yếu kém về giáo lý, do
thiếu hiểu biết về Chúa, về những gì Người đã dạy và đã làm, do thiếu ý thức về
những sự thánh thiêng, do thiếu trưởng thành trong đời sống đạo nên mới xảy ra
những trường hợp như vậy. Vì thiếu hiểu biết nên không thấy được sự cao quí và
tầm quan trọng của việc dâng lễ và việc rước Thánh Thể. Những người này coi việc
đi dâng lễ ngày Chúa Nhật chỉ là một khoản luật phải giữ để khỏi có tội, để khỏi
bị phạt mà thôi. Họ không ý thức rằng : thánh lễ và Thánh Thể là những điểm
hẹn để họ gặp gỡ Thiên Chúa là Cha của mình. Họ cũng không biết rằng đây là cơ
hội rất quý báu để có thể kín múc lấy nguồn sự sống, nguồn ân sủng cần thiết
cho cuộc đời.
Thánh
lễ và bí tích Thánh Thể không do Hội Thánh, không do bất cứ ai bịa đặt ra,
nhưng là do chính Chúa Kitô thiết lập. Thánh lễ ngày nay tái diễn và làm sống lại
thánh lễ Chúa Kitô đã dâng khi xưa trên thánh giá để tiếp tục chuyển thông ơn cứu
rỗi cho mọi người, mọi thời và mọi nơi. Và thánh Thể chính là lương thực nuôi sống
linh hồn ta trong hành trình làm người, cũng là hành trình đi về quê hương trên
trời. Chúa Giêsu đã nói đi nói lại nhiều lần : "Thịt tôi thật là của
ăn, máu tôi thật là của uống. Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi thì sẽ được sống đời
đời" (Ga 6,54-55). Ngay cả khi Người biết rõ ràng rằng : Khi Người
nói ra những điều ấy, người ta sẽ không tin, sẽ nhạo cười và sẽ bỏ đi, Người vẫn
cứ nói. Điều đó cho thấy vấn đề Chúa Giêsu nói ra quan trọng và cần thiết như
thế nào.
Con
người không chỉ có thân xác nhưng còn có linh hồn. Và mục đích của đời sống làm
người không chỉ là sự no đủ cơm áo phần xác mà còn là sự no đủ của đời sống tâm
linh nữa : "Người ta sống không chỉ bởi bánh" (Lc 4,4).
Thiết
tưởng mỗi người chúng ta đang hiện diện nơi đây đều có dư khả năng để nhận thức
điều này. Vấn đề còn lại là thái độ của chúng ta đối với thánh lễ và Thánh Thể
như thế nào mà thôi. (Sưu tầm)
5. Bí
tích tình yêu
Trái
bom nguyên tử đầu tiên đã nổ tại Hiroshima ngày 6 tháng 8, 1945. Năm giờ rưỡi
sáng hôm sau, một thánh lễ được cử hành ở ngoại ô thành phố giữa những nạn nhân
nằm la liệt.
Linh
mục giám đốc tập viện Dòng Tên mở cửa nguyện đường đón nhận họ và tìm cách săn
sóc họ. Về sau, khi đã trở nên Bề Trên Cả Dòng Tên, cha giám đốc tập viện Pedro
Arrupe kể lại cảnh tượng sáng hôm đó như sau : "Nguyện đường tập viện
chúng tôi phân nửa đã bị tàn phá, khi ấy tràn ngập những người bị thương do bom
nguyên tử. Họ nằm la liệt bên nhau trên nền nhà, co quắp lại, bị đau khủng khiếp.
Tôi khởi sự dâng thánh lễ, ráng tập trung trong một thế giới chẳng hiểu biết gì
về những điều đang thực hiện trên bàn thờ. Họ là người ngoại đạo chưa hề dự một
thánh lễ. Tôi không thể nào quên được cử chỉ tôi làm khi hướng về họ và
nói : Chúa ở cùng anh chị em, giữa cảnh họ đang chịu đau đớn. Tôi hầu như
bị tê liệt với hai tay giang ra mà tôi nghĩ tới thảm kịch con người dùng tiến bộ
khoa học và kỹ thuật để tiêu diệt loài người. Đáp lại là những cặp mắt của những
nạn nhân đang chờ nguồn an ủi nào đó từ bàn thờ giữa cảnh họ đang hấp hối và
tuyệt vọng (...)
Sáu
tháng sau, tất cả các nạn nhân được chữa trị đều trở về nhà, chỉ trừ hai người
đã chết. Nhiều người trong số họ đã chịu Phép Rửa và ai thì cũng được biết thế
nào là đức Ái Kitô giáo (...)
Bí
Tích Thánh Thể - Dấu chỉ hữu hình của Tình Yêu siêu việt
Bí
Tích Thánh Thể lại một lần nữa làm cho tôi kinh ngạc và cúi đầu thán phục trước
sáng kiến vĩ đại của mầu nhiệm Nhập Thể, một sáng kiến chỉ có thể là sáng kiến
của Tình Yêu. Chính để cứu chuộc con người mà Thiên Chúa đã nên một Con Người
như ta. Chính để trao ban Sự Sống Đích Thực cho ta, mà Ngài đã trở nên của ăn
thật sự, cụ thể cho ta. Điều kỳ diệu là sức sống thiêng liêng lại có thể ban
cho ta qua Bàn Tiệc rất hữu hình và cụ thể. Ta không chỉ ăn Đức Giêsu cách biểu
tượng và mầu nhiệm, mà còn một cách thực sự hữu hình và vật chất. Đó chính là sự
kỳ diệu của Bí Tích vậy. Hội Thánh của Đức Giêsu được nuôi dưỡng bởi chính những
dấu chỉ hữu hình đó. Thán phục trước sự kỳ diệu đó, tôi thấy mình được mời gọi
yêu mến Hội Thánh, Thân Thể Mầu Nhiệm của Đức Giêsu hơn, với những phương tiện
hữu hình, giới hạn nhưng đem lại sức sống dồi dào của Mẹ Thánh.
Đức
Giêsu ban sự sống cho ta không với tư cách một người ban phát từ bên ngoài,
nhưng Ngài tự nguyện trở thành của ăn cho ta. Đó là một hành vi tự nguyện tiêu
tan đi, để cho kẻ khác nhờ đó mà được sống, tựa như hạt giống kia mục nát đi để
đem lại sự sống cho vô số hạt khác. Một hành vi phục vụ đúng nghĩa. Tôi tự hỏi
mình đã có một ước muốn phục vụ đích thực theo nghĩa là dám tự nguyện quên mình
để nghĩ đến lợi ích người khác hay chưa.
Bí
Tích Thánh Thể là Bí Tích của sự hiệp thông. Thánh Thể hiện diện nơi Nhà Tạm là
trung tâm của cộng đoàn tụ họp lại trong tình huynh đệ, dâng lên Cha hiến lễ
chính Người Con. Vì Hội Thánh là Nhiệm Thể của Đức Kitô, nên khi dâng lên Cha
Người Con, cộng đoàn tụ họp cũng dâng lên Cha chính mình với tư cách là Hội
Thánh, Thân Mình của Đức Kitô vậy. Và khi cử hành Bàn Tiệc Thánh, cộng đoàn
cũng cử hành mầu nhiệm hiệp thông vậy. Làm cho tôi được kết hợp với Đức Giêsu
Phục Sinh, Bí Tích Thánh Thể còn liên kết tôi với anh chị em khác vốn cũng đang
mang Đức Giêsu trong mình : bởi vì họ cũng được Ngài yêu mến, hiến thân
cho. Liệu tôi có thể yêu mến Đức Giêsu đích thực không khi tôi chẳng yêu thương
những người mà chính Ngài yêu thương đến nỗi hiến mạng vì họ ? Nếu tôi yêu
mến Thánh Thể của Đức Giêsu, thì liệu tôi có sẵn sàng quan tâm, săn sóc những
thành phần đau yếu nghèo đói, bị bỏ rơi của Nhiệm Thể Ngài là Hội Thánh
chăng ? Còn biết bao anh chị em trong cùng Thân Thể với tôi đang rên xiết
dưới sức nặng của đau khổ và cần tôi giúp đỡ và yêu mến. Chính Bí Tích Thánh Thể
là nguồn sức mạnh khiến tôi có khả năng yêu mến và thể hiện Tình Yêu đó cho anh
chị em tôi. (Lm Augustine, sj. Vietcatholic)
6.
"Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy"
Đôi
khi chúng ta bị coi thường. Điều này thật đau buồn. Chúng ta thấy việc mình làm
chẳng ai biết tới, và ngay chính bản thân chúng ta cũng bị đối xử như chẳng có
gì đáng chú ý.
Nhưng
tệ hơn nữa là chúng ta bị quên lãng. Điều này còn đau buồn hơn. Người ta quên
chúng ta có nghĩa là không chỉ người ta không coi trọng chúng ta mà còn coi như
chúng ta không có.
Bởi vậy
ai cũng cố gắng làm cho người ta nhớ tới mình. Có câu nói rằng điều đáng sợ nhất
không phải là chết mà là bị bỏ quên.
Chúa
Giêsu cũng thế. Ngài muốn chúng ta nhớ tới Ngài. Vì thế trong đêm trước khi chịu
chết, Ngài đã ngồi xuống cùng ăn với các môn đệ, rồi cầm lấy bánh và nói :
"Này là Mình Thầy được ban cho các con". Rồi Ngài cầm lấy chén rượu
và nói : "Này là chén Máu Thầy… Các con hãy làm việc này mà nhớ đến
Thầy".
Dĩ
nhiên Chúa muốn các môn đệ nhớ đến Ngài không phải chỉ vì ích lợi cho Ngài mà
vì ích lợi cho chính họ. Họ cũng cần nhớ đến Ngài nữa. Vì yêu thương họ nên
Ngài đã để lại một cách đặc biệt để nhớ đến Ngài, đó là Bí tích Thánh Thể.
Mỗi lần
chúng ta cử hành Bí tích Thánh Thể là chúng ta nhớ lại một số lời Ngài nói và một
số việc Ngài làm. Chúng ta suy gẫm những điều đó và cố gắng thực hành trong đời
sống.
Mỗi lần
chúng ta nhớ đến Ngài bằng cách đó thì Ngài trở nên hiện diện gần gũi với chúng
ta, tuy không hiện diện hữu hình nhưng là hiện diện thực sự.
Nhờ cử
hành bí tích Thánh Thể, một mối dây yêu thương nối kết chúng ta lại với Ngài, kết
quả là chúng ta có khả năng đi vào sự thân mật sâu đậm với Ngài, sâu đậm hơn cả
khi Ngài hiện diện hữu hình. Chúng ta không chỉ thông giao với Ngài, mà còn hiệp
thông với Ngài nữa, một sự hiệp thông thánh thiện.
Nhớ
là một khả năng quý giá. Nó nối kết chúng ta lại với những người và những sự việc
không còn nữa. Khi chúng ta nhớ đến những người thân yêu thì họ trở thành hiện
diện với chúng ta. Họ không chỉ là một ký ức mà là một sự hiện diện thực sự. Khi
nhớ tới họ là chúng ta tiếp tục gặt hái những hoa trái mà họ đã gieo khi còn sống
với chúng ta.
Huống
chi là khi chúng ta nhớ đến Chúa Giêsu, hoa trái chúng ta gặt hái còn nhiều hơn
đến mức nào nữa. Nhất là nhớ đến Ngài bằng cách thức Ngài chỉ dạy, đó là cử
hành Bí tích Thánh Thể (FM)
7. Chuyện
vui
Cô giáo giảng cho các học sinh về việc Chúa Giêsu lấy 5 chiếc bánh và 2 con cá
nuôi cả một đám đông : "Các em phải biết là Chúa Giêsu không thực sự
nuôi dân bằng vài mẩu bánh. Chuyện đó không thể làm được. Đúng ra là Ngài đã
dùng lời ngon ngọt mê hoặc họ để họ không còn cảm giác đói khát và về đến nhà vẫn
còn cảm thấy no nê." Chợt một bé gái đứng lên hỏi : "Thưa cô, vậy
12 thúng bánh vụn lấy đâu ra ?"
V.
Lời nguyện cho mọi người
Chủ
tế : Anh chị em
thân mến, khi cùng với các tông đồ dự bữa Tiệc Ly. Chúa Giêsu đã thiết lập bí
tích Thánh thể để thánh hóa và dưỡng nuôi các tín hữu trong cuộc lữ hành trần
thế. Với tâm tình cảm tạ tri ân, chúng ta cùng dâng lời cầu xin :
1.
Bí tích Thánh thể là bí tích tình yêu / dấu chỉ hiệp nhất / mối dây
bác ái / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi thành phần Dân Chúa / khi
tham dự bàn tiệc Thánh thể / được đức tin duy nhất chiếu soi / và được
liên kết trong cùng một đức ái vững bền.
2
Chính Chúa Giêsu đón nhận người Kitô hữu khi họ rước Chúa vào lòng / Chúng
ta hiệp lời cầu xin Chúa dạy các tín hữu / biết niềm nở đón tiếp những ai
đang tìm Người.
3.
Chính Chúa Giêsu tự hiến làm của ăn của uống cho loài người trong bí tích Thánh
thể / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho sức mạnh người Kitô hữu đã tìm được
nơi bàn thánh / tồn tại mãi trong cuộc sống chứng nhân thường ngày.
4.
Việc rước lễ thường xuyên sẽ giúp ta tránh xa tội lỗi / Chúng ta hiệp lời
cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta hiểu được điều này / và chuẩn bị thật
tốt tâm hồn / để mỗi khi tham dự thánh lễ / đều có thể rước Chúa một
cách xứng đáng và hữu hiệu.
Chủ
tế : Lạy Chúa
Giêsu, là Linh mục đích thực và vĩnh cửu, Chúa đã thiết lập hy lễ trường tồn và
truyền cho chúng con cử hành mà tưởng nhớ đến Chúa. Xin cho chúng con biết tham
dự thánh lễ một cách sốt sắng như Hội thánh đã dạy. Chúa hằng sống và hiển trị
muôn đời
VI.
Trong Thánh lễ
-
Kinh Tiền Tụng : nên xử dụng kinh Tiền Tụng Thánh Thể I, đặc biệt nhấn mạnh
phần cuối đoạn 2 "Khi chúng con lãnh nhận Mình Người hiến tế vì nhân loại,
chúng con được mạnh sức. Và khi chúng con uống Máu Người đổ ra vì nhân loại,
chúng con được rửa sạch tội khiên.
- Trước
kinh Lạy Cha : Chút nữa đây khi đọc câu "Xin Cha cho chúng con lương
thực hằng ngày", chúng ta hãy nhớ rằng lương thực ấy không phải chỉ là cơm
nước vật chất, mà còn là tất cả những gì cần thiết cho cuộc sống linh hồn chúng
ta. Chúng ta hãy tha thiết xin Cha trên trời ban cho chúng ta cả hai thứ lương
thực ấy.
- Trước
lúc rước lễ : Rước lễ chính là kết hợp với Mình Máu Thánh Chúa Giêsu, là
được hưởng dùng lương thực tuyệt hảo. Xin cho việc rước Mình Máu Chúa thánh hóa
chúng ta, làm cho chúng ta ngày càng kết hợp mật thiết hơn với Chúa. "Đây
Chiên Thiên Chúa…"
VII.
Giải tán
Chúng
ta đã được nuôi dưỡng bằng chính Mình Máu Chúa Giêsu. Khi ra về, chúng ta hãy
quan tâm chia sẻ và giúp đỡ anh chị em chúng ta để họ cũng được thoát khỏi những
cơn đói cả vật chất lẫn tinh thần.
Lm. Carolo HỒ BẶC XÁI
Lectio Divina: Lễ Kính Mình và
Máu Thánh Chúa Giêsu (C)
Chúa
Nhật, 29 Tháng 5, 2016
Việc
bánh hóa ra nhiều cho những người đang đói
Chúa
Giêsu giảng dạy về sự chia sẻ
Lc
9:10-17
1.
Lời nguyện mở đầu
Lạy
Chúa Giêsu, xin hãy sai Thần Khí Chúa đến giúp chúng con đọc Kinh Thánh với
cùng tâm tình mà Chúa đã đọc cho các môn đệ trên đường Emmau. Trong
ánh sáng của Lời Chúa, được viết trong Kinh Thánh, Chúa đã giúp các môn đệ khám
phá ra được sự hiện diện của Thiên Chúa trong nỗi đau buồn về bản án và cái chết
của mình. Vì thế, cây thập giá tưởng như là sự kết thúc của mọi niềm hy vọng,
đã trở nên nguồn mạch của sự sống và sự sống lại.
Xin
Chúa hãy tạo trong chúng con sự thinh lặng để chúng con có thể lắng nghe tiếng
Chúa trong sự Tác Tạo và trong Kinh Thánh, trong các sự kiện của đời sống hằng
ngày và trong những người chung quanh, nhất là những người nghèo khó và đau khổ.
Nguyện xin Lời Chúa hướng dẫn chúng con để, giống như hai môn đệ từ Emmau,
chúng con cũng sẽ được hưởng sức mạnh sự phục sinh của Chúa và làm chứng cho những
người khác rằng Chúa đang sống hiện hữu giữa chúng con như nguồn mạch của tình
anh em, công lý và hòa bình. Chúng con cầu xin vì danh Chúa Giêsu, con Đức
Maria, Đấng đã mặc khải cho chúng con về Chúa Cha và đã sai Chúa Thánh Thần đến
với chúng con. Amen
2.
Bài Đọc
a)
Chìa khóa dẫn đến bài đọc: bối cảnh văn học:
Đoạn
Tin Mừng của chúng ta được trích từ giữa quyển Phúc Âm viết bởi thánh
Luca: Chúa Giêsu nới rộng và tăng cường sứ vụ của mình trong các làng
vùng Galilêa và Người sai mười hai môn đệ đi giúp mình (Lc 9:1-6). Tin tức
này lọt tới tai vua Hêrôđê, người đã ra lệnh giết chết Gioan Tẩy Giả (Lc
9:7-9). Khi các môn đệ hoàn thành sứ vụ trở về, Chúa Giêsu mời gọi các
ông đi đến một nơi thanh vắng (Lc 9:10). Tiếp theo sau là đoạn Tin Mừng
của chúng ta nói về những chiếc bánh hóa ra nhiều(Lc 9:11-17).
Ngay
sau sự kiện này, Chúa Giêsu hỏi các ông rằng: “Người ta nói Thầy là ai?”
(Lc 9:18-21). Thế rồi, lần đầu tiên, Người tiếp tục nói về cuộc thương
khó và cái chết của mình và những hệ quả của tất cả các việc này cho các môn đệ
nghe (Lc 9:22-28). Sau đó, chúng ta thấy Chúa Giêsu Biến Hình đàm đạo với
các ông Môisen và Êlia về cuộc thương khó và sự tử nạn của Chúa ở Giêrusalem
(Lc 9:28-43). Tiếp theo đó là lời công bố nữa về cuộc thương khó của
Chúa, rồi đến sự kinh ngạc và không thông hiểu của các môn đệ Người (Lc
9:44-50). Cuối cùng, Chúa Giêsu quyết định đi lên Giêrusalem để đối diện
với cái chết của Người (Lc 9:52).
b)
Phân đoạn bài Tin Mừng để trợ giúp cho bài đọc:
Lc
9:10: Chúa và các môn đệ đi đến một nơi hoang vắng.
Lc
9:11: Đám đông dân chúng đi theo Chúa Giêsu và Người tiếp đón họ.
Lc
9:12: Các môn đệ lo lắng về việc đám đông sẽ bị đói.
Lc
9:13: Chúa Giêsu đưa ra lời đề nghị và câu trả lời cho các môn đệ.
Lc
9:14-15: Sáng kiến của Chúa Giêsu để giải quyết vấn đề tìm thức
ăn cho đám đông.
Lc
9:16: Ý thức và ý nghĩa của Phép Thánh Thể.
Lc
9:17: Phép lạ cao quý: mọi người đều ăn và no nê
c)
Phúc Âm:
10 Các Tông Đồ trở về thuật lại cho Đức
Giêsu những việc các ông đã làm. Người đem các ông đi riêng với mình, lui về
thành kia gọi là Bếtxaiđa. 11 Đám đông dân chúng biết thế,
liền đi theo Người. Người tiếp đón họ, nói với họ về Nước Thiên Chúa và chữa
lành những ai cần được chữa. 12 Ngày đã bắt đầu tàn; và
Nhóm Mười Hai đến bên Đức Giêsu thưa Người rằng: "Xin Thầy cho đám đông về,
để họ vào các làng mạc nông trại quanh đây, tìm chỗ trọ và kiếm thức ăn, vì nơi
chúng ta đang ở đây là nơi hoang vắng." 13 Nhưng
Đức Giêsu bảo: "Chính các con hãy cho họ ăn đi." Các ông đáp:
"Chúng con chỉ có vỏn vẹn năm cái bánh và hai con cá, trừ phi chính chúng
con phải đi mua thức ăn cho cả đám dân này." 14 Quả
thật có tới chừng năm ngàn đàn ông. Và Chúa Giêsu nói với các môn đệ:
"Hãy bảo họ ngồi thành từng nhóm khoảng năm mươi người một." 15 Các
môn đệ làm y như vậy, và bảo mọi người ngồi xuống. 16 Bấy
giờ Chúa Giêsu cầm lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời
chúc tụng, bẻ ra và trao cho môn đệ để các ông dọn ra cho đám đông. 17 Mọi
người đều ăn, và ai nấy được no nê. Những miếng vụn còn thừa, người ta
thu lại được mười hai thúng.
3.
Giây phút cầu nguyện trong thinh lặng
Để Lời
của Chúa có thể thấm nhập và soi sáng đời sống chúng ta
4.
Một vài câu hỏi gợi ý
Để
giúp chúng ta trong việc suy gẫm cá nhân
a) Điều gì bạn thích nhất và điều gì
đã đánh động bạn nhất trong đoạn Kinh Thánh này?
b) Theo như đoạn Tin Mừng này, đám
đông dân chúng đã ở trong hoàn cảnh nào?
c) Các môn đệ đã có phản ứng hay cảm
nghĩ gì trước tình cảnh của đám đông?
d) Chúa Giêsu đã có phản ứng hoặc ý
nghĩ gì trước hoàn cảnh của đám đông?
e) Đoạn Tin Mừng này gợi cho chúng
ta nhớ lại sự kiện gì đã ghi trong Cựu Ước?
f) Ngày nay, bạn có biết người nào
có những sáng kiến để cung cấp lương thực cho đám đông đang đói để ăn không?
g) Làm cách nào chúng ta có thể giúp
đám đông đây? Chúng ta sẽ phân phát cá cho họ ăn hay chúng ta sẽ dạy họ
cách câu cá?
5.
Chìa khóa dẫn đến bài đọc
Dành
cho những ai muốn đào sâu vào trong chủ đề.
a)
Bối cảnh lịch sử của bài Tin Mừng:
Bối cảnh
lịch sử của sách Phúc Âm viết bởi Luca luôn có hai khía cạnh: khía cạnh thời đại
của Chúa Giêsu, đó là những năm thuộc thập niên 30 tại miền đất Paléstin, và bối
cảnh của các cộng đoàn Kitô hữu vào thập niên 80 là các đối tượng mà Luca đang
viết sách Phúc Âm của ông.
Vào
thời gian Chúa Giêsu sống tại đất Paléstin, người ta đang sống trong sự mong chờ
một Đấng Cứu Thế, Đấng sẽ là một Môisen mới và là người sẽ lặp lại những phép lạ
tuyệt vời như ông Môisen đã làm trong Thời Gian Lưu Đày: hướng dẫn dân
chúng qua khỏi sa mạc và cho họ sống bằng bánh manna. Việc các chiếc bánh
hóa ra nhiều trong sa mạc đã cho đám đông một chỉ dấu là thời điểm của đấng cứu
tinh đã đến (Ga 6:14-15)
Trong
thời đại của ông Luca, trong các cộng đoàn giáo hữu Hy-lạp, việc xác tín của
các Kitô hữu về đức tin của họ là điều quan trọng và điều này cho họ tìm được
hướng đi ở giữa các khó khăn. Cách mà Luca mô tả những chiếc bánh đã được hóa
ra nhiều, nhắc lại việc cử hành Bí Tích Thánh Thể như đã được cử hành trong các
cộng đoàn của những năm 80, và giúp cho họ có thể đào sâu sự hiểu biết của mình
về Bí Tích Thánh Thể trong cuộc sống hằng ngày của họ. Ngoài ra, trong lời
mô tả của Luca về việc những chiếc bánh hóa ra nhiều, như chúng ta sẽ thấy, ông
nhắc lại những nhân vật quan trọng trong lịch sử dân riêng của Chúa: các ông
Môisen, Êlia và Êlisa, cho thấy rằng Chúa Giêsu thực sự là Đấng Cứu Thế, người
đến để thực hiện những lời hứa trong quá khứ.
b)
Lời bình luận về văn bản:
Lc
9:10: Chúa Giêsu đem các môn đệ đi riêng với mình về một nơi
hoang vắng
Các
môn đệ vừa trở về từ sứ vụ mà các ông đã được sai đi (Lc 9:1-6). Chúa
Giêsu đem các ông đi theo đến một nơi hoang vắng gần Bếtxaiđa, phía bắc hồ
Galilê. Phúc Âm của thánh Máccô viết thêm rằng Chúa bảo các ông hãy nghỉ
ngơi một chút (Mc 6:31). Khi Luca viết về sứ vụ của 72 môn đệ, ông cũng
mô tả việc cải sửa các hoạt động mục vụ của Chúa Giêsu, một hoạt động được hoàn
thành bởi các môn đệ (Lc 10:17-20).
Lc
9:11: Đám đông dân chúng biết thế, liền đi theo Người. Người tiếp
đón họ
Đám
đông dân chúng biết Chúa Giêsu đi đâu và họ đi theo Người. Máccô thì cho
biết một cách chi tiết hơn. Ông viết là Chúa Giêsu và các môn đệ di chuyển
bằng thuyền trong khi đám đông đi bộ theo Người bằng một ngả đường khác đến một
nơi định trước. Đám đông đến nơi trước Chúa Giêsu (Mc 6:32-33). Khi
Chúa Giêsu đến nơi để tĩnh dưỡng, Người thấy đám đông và tiếp đón họ.
Chúa nói với họ về Nước Trời và chữa lành những người bệnh. Máccô thêm rằng
đám đông được ví như những con chiên không có người chăn. Trước tình cảnh
như thế, Chúa Giêsu đã phản ứng như một “người chăn chiên tốt lành”, hướng dẫn
đám đông bằng lời của Người và cho họ ăn với những chiếc bánh và các con cá (Mc
6:33).
Lc
9:12: Nỗi lo âu của các môn đệ và sự đói khát của đám đông
Ngày
đã tàn, nắng sắp tắt. Các môn đệ lo lắng và thưa với Chúa Giêsu xin để
cho đám đông dân chúng đi về. Các ông nói rằng không cách nào có thể tìm
được đủ thức ăn cho bằng ấy người ở giữa nơi hoang vắng. Đối với các ông,
giải pháp duy nhất là để cho dân chúng đến những làng mạc gần đó tìm mua thức
ăn. Các ông không thể nghĩ ra được một phương kế nào khác.
Nếu đọc
thật kỹ qua lời mô tả tình cảnh của đám đông, chúng ta tìm thấy một sự kiện rất
quan trọng. Người ta đã quên ăn để được ở bên Chúa Giêsu. Điều này
có nghĩa là Chúa Giêsu có sức thu hút đám đông, đến nỗi mà họ quên hết tất cả để
theo Người vào giữa sa mạc.
Lc
9:13: Lời đề nghị của Chúa Giêsu và lời đáp lại của các môn đệ
Đức
Giêsu bảo: "Chính các con hãy cho họ ăn đi." Các môn đệ hoảng sợ,
bởi vì các ông chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá. Vậy mà các ông phải
giải quyết vấn nạn và các ông chỉ có thể nghĩ ra một phương cách là để cho đám
đông tự đi tìm mua thức ăn. Các ông chỉ có thể nghĩ ra được một lối giải
quyết thông thường, đó là một người nào đó phải đi mua bánh cho đám
đông. Người ấy phải đi lấy tiền, đi mua bánh và phân phát cho đám đông,
nhưng lối giải quyết này thì bất khả thi giữa sa mạc. Các ông không thể
tìm ra được một cách giải quyết nào khác. Nói cách khác, nếu Chúa Giêsu
nhất quyết không chịu giải tán đám đông, thì không có một phương cách nào giải
quyết được vấn nạn nuôi ăn cho đám đông. Các ông không hề nghĩ được rằng
phương cách giải quyết có thể đến từ chính Đức Giêsu và từ đám đông.
Lc
9:14-15: Sáng kiến của Chúa Giêsu để giải quyết vấn đề đói của
đám đông
Đám
đông với năm ngàn người. Rất nhiều người. Chúa Giêsu bảo các môn đệ
cho đám đông ngồi thành từng nhóm khoảng năm mươi người một. Vào lúc này,
Luca bắt đầu dùng Thánh Kinh để đưa ra ánh sáng các sự thật về cuộc đời Chúa
Giêsu. Ông nhắc đến ông Môisen. Chính Môisen là người đầu tiên cho
đám đông đang đói có chút gì để ăn trong hoang địa sau khi rời bỏ đất Ai-cập
(xem sách Dân Số các chương 1-4). Luca cũng nhắc đến tiên tri
Êlisa. Thật ra, trong Cựu Ước, chính vị tiên tri này đã hóa ít chiếc bánh
ra nhiều để có thể nuôi được nhiều người (2V 4:42-44). Đoạn Tin Mừng cho
chúng ta thấy là khi ấy Chúa Giêsu là một ông Môisen mới, một tiên tri mới phải
đến với thế gian (Ga 6:14-15). Vô số những người trong các cộng đoàn đã biết Cựu
Ước, và một nửa sự ám chỉ là đã đủ cho họ. Vì vậy họ dần dần khám phá ra
được sự mầu nhiệm đang mở ra trong con người của Chúa Giêsu.
Lc
9:16: Nhắc lại Phép Thánh Thể và ý nghĩa của nó
Khi
đám đông đã ngồi xuống đất, Chúa Giêsu đã hóa bánh ra nhiều và bảo các môn đệ
đem phân phát cho họ. Điều quan trọng cần lưu ý là cách Luca mô tả sự việc
này. Ông viết: “Chúa Giêsu đã cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá,
ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng; bẻ ra và trao cho các môn đệ để các ông
phân phát cho dân chúng”. Điều này nói đến các cộng đoàn vào những năm 80
(và vào mọi thời điểm) nhắc lại Phép Thánh Thể. Bởi vì chính những chữ này sẽ
được dùng (và vẫn còn được dùng) trong dịp cử hành Bữa Tiệc của Chúa
(22:19). Ông Luca gợi ý rằng Phép Thánh Thể phải dẫn đến việc hóa các chiếc
bánh ra nhiều, có nghĩa là, để chia sẻ. Điều này giúp các Kitô hữu phải để
ý chăm sóc đến các nhu cầu cụ thể của người chung quanh. Chính bánh hằng
sống mang lại lòng dũng cảm và hướng dẫn người Kitô hữu khi phải đối diện với
các vấn nạn của đám đông theo một phương cách mới, không phải từ bên ngoài, mà
từ trong đám đông.
Lc
9:17: Dấu hiệu tốt lành: mọi người đều ăn và no nê
Mọi
người đều ăn, tất cả sẽ no nê và sẽ có những thúng bánh vụn còn sót lại!
Một giải pháp bất ngờ, được thực hiện bởi Chúa Giêsu và phát sinh chính từ trong
đám đông, bắt đầu từ cái nhỏ nhặt họ mang đến, năm chiếc bánh và hai con
cá. Và đã có mười hai thúng đầy những mẩu bánh vụn sau khi năm ngàn người
đã ăn xong với năm chiếc bánh và hai con cá!
c)
Suy gẫm sâu xa hơn: một phép lạ trọng đại hơn:
Có người
sẽ thắc mắc: “Đó không phải là phép mầu sao? Hay đó chỉ là một sự
chia sẻ?” Sau đây là ba sự suy gẫm bằng phương cách dùng câu trả lời:
Suy
gẫm thứ nhất: Phép
lạ nào sẽ nên cao trọng hơn ngày nay: vào một ngày nhất định trong năm, ví dụ
như lễ Giáng Sinh, mọi người đều có thức ăn đầy đủ và nhận được một giỏ thức ăn
Giáng Sinh; hay là người ta bắt đầu chia sẻ thức ăn để không một ai bị đói và rồi
sẽ có những thức ăn dư lại cho đám đông khác. Phép lạ nào cao trọng hơn
phép lạ nào? Bạn nghĩ sao?
Suy
gẫm thứ hai: Chữ Phép
lạ (miraculum) xuất phát từ động từ ngưỡng mộ. Phép
lạ là một sự việc ngoại hạng, ngoài sự hiểu biết bình thường, gây ra sự ngưỡng
mộ và dẫn đến suy nghĩ về Thiên Chúa. Phép lạ vĩ đại,
phép lạ cao trọng hơn tất cả là (1) Chúa Giêsu, Thiên Chúa mặc lấy xác loài người!
Vì thế, Thiên Chúa trở nên một con người phi phàm như việc Thiên Chúa có thể
làm người! Một phép lạ lớn lao khác là (2) sự thay đổi
mà Chúa Giêsu đã thành công trong lối làm việc với đám đông đã quen với cách giải
quyết từ bên ngoài. Chúa Giêsu thành công trong việc làm cho đám đông phải
đối diện với vấn nạn của họ từ bên trong và chính họ nhận phương cách giải quyết. Một
phép lạ vĩ đại, một việc phi phàm là (3) qua cử chỉ của Chúa Giêsu, tất cả
mọi người đều được ăn và lại còn dư! Khi chúng ta chia sẻ, luôn luôn có
thêm …. và lại còn dư thừa! Như thế là có ba phép lạ vĩ đại: chính
Chúa Giêsu, việc hoán cải của dân chúng, và việc chia sẻ của ăn dẫn đến sự
phong phú dư dật! Ba phép lạ nảy sinh ra một kinh nghiệm mới về Thiên
Chúa như Chúa Cha mặc khải cho chúng ta trong Chúa Giêsu. Kinh nghiệm này
về Thiên Chúa đã thay đổi tất cả các não trạng và cách sống, nó mở ra một chân
trời hoàn toàn mới lạ và tạo nên một cách sống hòa đồng với những người
khác. Đây là một phép lạ to lớn nhất: một thế giới khác có cơ hội
được tạo nên!
Suy
gẫm thứ ba: Rất
khó để biết những việc đã xảy ra như thế nào. Không ai có thể nói rằng
Chúa Giêsu đã không làm phép lạ. Người đã làm nhiều phép lạ! Nhưng
chúng ta không được quên rằng phép lạ lớn nhất là sự phục sinh của Chúa
Giêsu. Qua đức tin vào Chúa Giêsu, người ta bắt đầu sống theo một phương
cách mới, chia sẻ cơm bánh với các anh chị em là những người nghèo khó và đang
đói: “Không ai trong số các cộng đoàn phải thiếu thốn, vì tất cả những
người có ruộng đất nhà cửa, đều bán đi, lấy tiền, đem đặt dưới chân các Tông Đồ”
(Cv 4:34-35). Khi một phép lạ được mô tả trong Thánh Kinh, sự quan tâm lớn
hơn được chú ý đến không phải là hướng tới khía cạnh kỳ diệu, mà là hướng tới ý
nghĩa phép lạ đã ban cho đời sống và cho đức tin của cộng đoàn là những người
tin vào Chúa Giêsu, sự mặc khải của Chúa Cha. Trong nơi gọi là “thế giới
thứ nhất” của các quốc gia “Kitô hữu”, các thú vật có dư thừa thức ăn hơn là những
con người đang sống trong “thế giới thứ ba”. Rất nhiều người đang đói khổ!
Điều này có nghĩa là Phép Thánh Thể đã chưa bén rễ sâu xa hoặc là đã chưa lan rộng
ra như đã đáng lẽ ra.
6.
Cầu nguyện với Thánh Vịnh: 81 (80)
Thiên
Chúa giải thoát và nuôi sống dân Người
Reo
lên mừng Thiên Chúa, Đấng trợ lực chúng ta!
Hò vang dậy đi nào kính Chúa nhà Giacóp!
Đàn hát lên nào, hoà nhịp trống cơm,
bổng trầm gieo tiếng cầm tiếng sắt.
Rúc lên đi, hãy rúc tù và,
mồng một ngày rằm cho ta mừng lễ.
Đó là luật Ít-ra-en phải cứ,
Thiên Chúa nhà Giacóp đã phán truyền.
Chỉ thị này, nhà Giuse đã nhận khi bỏ miền Ai-cập ra đi.
Một giọng nói tôi nghe khác lạ,
rằng: "Gánh nặng vai dân, Ta đã cất cho,
tay họ thôi cầm chiếc ky người nô lệ.
Lúc ngặt nghèo, ngươi đã kêu lên,
Ta liền giải thoát.
Giữa mây mù sấm chớp, Ta đã đáp lời,
bên mạch nước Mơ-ri-va, Ta thử lòng ngươi.
"Dân Ta hỡi, nghe Ta cảnh cáo, Ít-ra-en này, phải chi ngươi chịu nghe Ta,
thì đừng đem thần lạ về nhà,
thần ngoại bang, chớ hề cúng bái.
Chính Ta là THƯỢNG ĐẾ Chúa ngươi,
đã đưa ngươi lên tự miền Ai-cập,
há miệng ngươi ra, Ta sẽ cho đầy ứ.
"Nhưng dân Ta đã chẳng nghe lời,
Ít-ra-en nào đâu có chịu.
Ta đành mặc họ lòng chai dạ đá,
muốn đi đâu thì cứ việc đi!
"Ôi dân Ta mà đã nghe lời,
Ít-ra-en chịu theo đường Ta chỉ,
thì hết những địch thù của chúng,
những kẻ hà hiếp chúng xưa nay,
Ta tức khắc trở tay quật ngã;
"Kẻ thù CHÚA sẽ cầu thân nịnh bợ,
ấy là số phận chúng muôn đời;
còn dân Ta, Ta sẽ nuôi bằng lúa mì tinh hảo,
mật ong rừng, Ta cho hưởng thoả thuê."
Hò vang dậy đi nào kính Chúa nhà Giacóp!
Đàn hát lên nào, hoà nhịp trống cơm,
bổng trầm gieo tiếng cầm tiếng sắt.
Rúc lên đi, hãy rúc tù và,
mồng một ngày rằm cho ta mừng lễ.
Đó là luật Ít-ra-en phải cứ,
Thiên Chúa nhà Giacóp đã phán truyền.
Chỉ thị này, nhà Giuse đã nhận khi bỏ miền Ai-cập ra đi.
Một giọng nói tôi nghe khác lạ,
rằng: "Gánh nặng vai dân, Ta đã cất cho,
tay họ thôi cầm chiếc ky người nô lệ.
Lúc ngặt nghèo, ngươi đã kêu lên,
Ta liền giải thoát.
Giữa mây mù sấm chớp, Ta đã đáp lời,
bên mạch nước Mơ-ri-va, Ta thử lòng ngươi.
"Dân Ta hỡi, nghe Ta cảnh cáo, Ít-ra-en này, phải chi ngươi chịu nghe Ta,
thì đừng đem thần lạ về nhà,
thần ngoại bang, chớ hề cúng bái.
Chính Ta là THƯỢNG ĐẾ Chúa ngươi,
đã đưa ngươi lên tự miền Ai-cập,
há miệng ngươi ra, Ta sẽ cho đầy ứ.
"Nhưng dân Ta đã chẳng nghe lời,
Ít-ra-en nào đâu có chịu.
Ta đành mặc họ lòng chai dạ đá,
muốn đi đâu thì cứ việc đi!
"Ôi dân Ta mà đã nghe lời,
Ít-ra-en chịu theo đường Ta chỉ,
thì hết những địch thù của chúng,
những kẻ hà hiếp chúng xưa nay,
Ta tức khắc trở tay quật ngã;
"Kẻ thù CHÚA sẽ cầu thân nịnh bợ,
ấy là số phận chúng muôn đời;
còn dân Ta, Ta sẽ nuôi bằng lúa mì tinh hảo,
mật ong rừng, Ta cho hưởng thoả thuê."
7.
Lời Nguyện Kết
Lạy
Chúa Giêsu, chúng con xin cảm tạ Chúa về Lời Chúa đã giúp chúng con hiểu rõ hơn
ý muốn của Chúa Cha. Nguyện xin Thần Khí Chúa soi sáng các việc làm của
chúng con và ban cho chúng con sức mạnh để thực thi Lời Chúa đã mặc khải cho
chúng con. Nguyện xin cho chúng con, được trở nên giống như Đức Maria,
thân mẫu Chúa, không những chỉ lắng nghe mà còn thực hành Lời Chúa. Chúa
là Đấng hằng sống hằng trị cùng với Đức Chúa Cha trong sự hiệp nhất với Chúa
Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét