01/06/2016
Thứ Tư tuần 9 thường niên
Thánh Giút-ti-nô, tử đạo.
Lễ nhớ.
* Thánh nhân là một triết gia và là anh hùng tử đạo. Người sinh tại Phơ-la-vi-a Nê-a-pô-li, ở Samari, trong một gia đình ngoại giáo, đầu thế kỷ thứ 2. Sau khi tin Chúa Kitô, người đã viết nhiều tác phẩm bênh vực Kitô giáo. Trong số đó, còn lại hai tác phẩm “Minh giáo” gửi cho hoàng đế Antôniô và “Đối thoại với ông Triphông”, tranh luận với người Do thái. Người cũng mở một trường dạy triết lý ở Rôma. Bị một đồng nghiệp tố cáo, người một lòng son sắt tuyên xưng đức tin trước mặt quan toà và đã được phúc tử đạo cùng với sáu Kitô hữu khác, quãng năm 165, thời hoàng đế Máccô Aurêliô.
Bài Ðọc
I: (Năm II) 2 Tm 1, 1-3. 6-12
"Con hãy làm sống lại ơn Thiên Chúa trong con
qua việc đặt tay của cha".
Khởi đầu thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi
cho Timôthêu.
Phaolô, tông đồ của Ðức Giêsu Kitô, bởi ý định của
Thiên Chúa, thể theo lời hứa ban sự sống trong Ðức Giêsu Kitô, gởi lời hỏi thăm
Timôthêu, người con yêu dấu. Nguyện chúc ân sủng, lòng từ bi và bình an của
Thiên Chúa Cha và Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ở cùng con. Cha cảm tạ ơn
Thiên Chúa, Ðấng cha phụng thờ như tổ tiên cha đã làm, với một lương tâm trong
sạch, ngày đêm cha luôn luôn nhớ đến con, khi cha cầu nguyện. Vì thế, cha
khuyên con hãy làm sống lại ơn Thiên Chúa đã ban cho con do việc đặt tay của
cha. Vì chưng, Thiên Chúa không ban cho chúng ta một thần trí nhát sợ, mà là thần
trí dũng mạnh, bác ái và tiết độ. Vậy con, con chớ hổ thẹn làm chứng cho Chúa
chúng ta, và cho cha nữa, là tù nhân của Người, nhưng con hãy đồng lao cộng tác
với cha vì Tin Mừng, nhờ quyền năng của Thiên Chúa, Ðấng đã giải thoát và kêu mời
chúng ta bằng ơn thiên triệu thánh của Người, không phải do công việc chúng ta
làm, mà là do sự dự định và ân sủng đã ban cho chúng ta từ trước muôn đời trong
Ðức Giêsu Kitô, nhưng bây giờ mới tỏ bày bằng sự xuất hiện của Ðức Giêsu Kitô,
Ðấng Cứu Chuộc chúng ta. Người đã dùng Tin Mừng tiêu diệt sự chết và chiếu soi
sự sống, và sự không hư nát được tỏ rạng. Cha đã được đặt làm kẻ rao giảng, làm
tông đồ và làm thầy dạy các dân ngoại. Cũng do đó, cha phải chịu những thử
thách này, nhưng cha không hổ thẹn, vì cha biết cha tin vào Ðấng nào, và cha chắc
chắn rằng Người có quyền phép gìn giữ kho tàng của cha cho đến ngày đó.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 122, 1-2a. 2bcd
Ðáp: Lạy
Chúa, con ngước mắt nhìn lên Chúa (c. 1a).
Xướng: 1) Con ngước mắt nhìn lên Chúa, Ngài ngự trị ở
cõi cao xanh. Kìa, như mắt những người nam tôi tớ nhìn vào tay các vị chủ ông.
- Ðáp.
2) Như mắt của những người tỳ nữ nhìn vào tay các vị
chủ bà, mắt chúng tôi cũng nhìn vào Chúa là Thiên Chúa của chúng tôi như thế,
cho tới khi Ngài thương xót chúng tôi. - Ðáp.
Alleluia:
Tv 129, 5
Alleluia, alleluia! - Con hy vọng rất nhiều vào
Chúa, linh hồn con trông cậy ở lời Chúa. - Alleluia.
Phúc
Âm: Mc 12, 18-27
"Người không phải là Thiên Chúa kẻ chết, mà là
Thiên Chúa kẻ sống".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, có ít người phái Sađốc đến cùng Chúa Giêsu;
phái này không tin có sự sống lại và họ hỏi Người rằng: "Thưa Thầy, luật
Môsê đã truyền cho chúng tôi thế này: Nếu ai có anh em chết đi, để lại một người
vợ không con, thì hãy cưới lấy người vợ goá đó để gây dòng dõi cho anh em mình.
Vậy có bảy anh em: người thứ nhất cưới vợ rồi chết không con. Người thứ hai lấy
người vợ goá và cũng chết không con, và người thứ ba cũng vậy, và cả bảy người
không ai có con. Sau cùng người đàn bà ấy cũng chết. Vậy ngày sống lại, khi họ
cùng sống lại, thì người đàn bà đó sẽ là vợ của người nào? Vì cả bảy anh em đã
cưới người đó làm vợ". Chúa Giêsu trả lời rằng: "Các ông không hiểu
biết Kinh Thánh, cũng chẳng hiểu biết quyền phép của Thiên Chúa, như vậy các
ông chẳng lầm lắm sao? Bởi khi người chết sống lại, thì không lấy vợ lấy chồng,
nhưng sống như các thiên thần ở trên trời. Còn về sự kẻ chết sống lại, nào các
ông đã chẳng đọc trong sách Môsê chỗ nói về bụi gai, lời Thiên Chúa phán cùng
Môsê rằng: "Ta là Chúa Abraham, Chúa Isaac và Chúa Giacóp". Người
không phải là Thiên Chúa kẻ chết, mà là Thiên Chúa kẻ sống. Vậy các ông thật lầm
lạc".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Có sự sống lại
Tin Mừng hôm nay mô tả cuộc đụng độ đầu tiên giữa
Chúa Giêsu và nhóm người Sađốc. Những người Sađốc thuộc về hàng tư tế quí tộc.
Về mặt chính kiến, họ theo bọn xâm lược. Về mặt tôn giáo, họ rất bảo thủ. Ðối với
họ, lề luật phải tuân theo chỉ có trong năm cuốn sách đầu tiên của Bộ Kinh
Thánh. Họ phi bác mọi giáo thuyết xuất hiện sau này do các tiên tri và các bậc
trí giả giảng dạy, chẳng hạn việc kẻ chết sống lại. Do đó chẳng có gì ngạc
nhiên khi họ tấn công Chúa Giêsu về vấn đề này.
Thật thế, dựa vào niềm tin mà họ cho là đúng đắn, những
người Sađốc bắt đầu hỏi Chúa Giêsu bằng bộ luật Môsê, theo đó khi người chồng
chết, nếu người vợ anh ta chưa có con, thì người anh (hoặc em) chồng phải cưới
bà này để nối dõi tông đường.
Họ đặt ra trường hợp một người đàn bà có bảy đời chồng,
vào lúc sống lại, bà ấy sẽ là vợ của ai trong bảy người anh em vì tất cả đã lấy
bà làm vợ? Những người Sađốc hỏi thế, không phải vì thành tâm tìm kiếm để sống
theo sự thật, mà chỉ để đùa giỡn với sự thật mà thôi.
Chúa Giêsu biết rõ họ ngoan cố và cố ý thử thách
Ngài, nhưng Ngài vẫn điềm tĩnh và chỉ cho họ thấy sự dốt nát lầm lẫn của họ: Thứ
nhất, họ thiếu hiểu biết Kinh Thánh và quyền năng của Thiên Chúa; thứ hai, hoàn
cảnh con người sau khi sống lại hoàn toàn thay đổi, không giống như lúc còn sống
ở trần gian này. Chúa Giêsu nói rõ có sự sống lại, nhưng sở dĩ họ không tin là
vì họ thiếu hiểu biết Kinh Thánh. Thật thế, trong sách Môsê, đoạn nói về bụi
gai, Thiên Chúa phán: "Ta là Chúa của Abraham, Chúa của Isaac, Chúa của
Yacob", Ngài không là Chúa của kẻ chết, mà là của kẻ sống. Hơn nữa, nếu
Thiên Chúa đã phán một lời liền có mọi sự, chẳng lẽ Ngài không thể làm cho kẻ
chết sống lại sao? Sự sống và sự chết đều do Thiên Chúa, vì thế sự sống lại
cũng thuộc về Thiên Chúa. Lại nữa, khi sống lại từ cõi chết, thân xác con người
được biến đổi hoàn toàn, nó sẽ giống như các thiên thần, giống như Chúa Kitô Phục
Sinh, nên không còn phải chết và cũng chẳng phải dựng vợ gả chồng nữa.
Từ khi Chúa Giêsu mạc khải về sự thật này, biết bao
người đã tin vào Thiên Chúa và đã sống trọn vẹn với niềm tin đó; biết bao người
đã can đảm sống sự thật được mạc khải, dù phải hy sinh mạng sống, dù phải từ bỏ
mọi danh lợi trần gian. Ðó là gương của những vị anh hùng tử đạo qua bao thế hệ
nơi các dân tộc.
Nguyện xin Chúa soi lòng mở trí chúng ta hiểu biết
và mộ mến Lời Chúa dạy trong sách Kinh Thánh, để chúng ta am tường các mầu nhiệm
của Chúa và thực thi thánh ý Chúa. Xin cho chúng ta trân trọng sự sống, trau dồi
cuộc sống tại thế tốt đẹp để được sống đời đời với Chúa.
Veritas
Asia
Thứ Tư
Tuần 9 TN2, Năm Chẵn
Bài đọc: 2 Tim 1:1-3,
6-12; Mk 12:18-27.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Tin Mừng cắt nghĩa rõ ràng phúc trường
sinh bất tử.
Sự sống đời đời hay phúc trường sinh bất tử là yếu tố
quyết định làm con người sống thế nào trong cuộc sống đời này. Nếu một người
không tin có sự sống đời đời, người đó sẽ làm mọi cách để hưởng thụ cuộc sống
ngắn ngủi đời này, vì đó là quãng thời gian duy nhất họ có để hưởng thụ. Họ sợ
đau khổ, sợ mất những gì họ có, và nhất là sợ chết vì chết là mất tất cả. Ngược
lại, nếu một người tin có cuộc sống trường sinh bất tử, người đó sẽ làm mọi
cách cho được hưởng cuộc sống hạnh phúc đời sau cho dẫu phải hy sinh chịu đau
khổ ở đời này. Họ sẽ không quan tâm lắm đến việc hưởng thụ cuộc sống đời này vì
họ biết còn cả một cuộc sống đời đời để hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa.
Các bài đọc hôm nay muốn nêu bật câu hỏi có cuộc sống
trường sinh bất tử không và làm thế nào để đạt được cuộc sống ấy. Trong bài đọc
I, thánh Phaolô nhắn nhủ Timothy, người môn đệ yêu quí của mình hãy nhớ lại Kế
hoạch cứu độ của Thiên Chúa dành cho mọi người và sự cần thiết của việc rao giảng
Tin Mừng để mọi người biết Thiên Chúa muốn họ được hưởng sự sống đời đời qua việc
sai Người Con xuống trần để chuộc tội cho họ. Trong Phúc Âm, một số người
Sadducees, những người không tin có sự sống lại, dựa vào Luật Moses bày ra một
câu hỏi để chứng minh với Chúa Giêsu không có sự sống lại. Chúa Giêsu mắng họ
đã sai lầm vì không hiểu Kinh Thánh: Thiên Chúa không phải là của kẻ chết,
nhưng là của kẻ sống.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài
đọc I: Chính Đức Kitô đã tiêu diệt thần chết, và đã dùng Tin Mừng mà làm sáng
tỏ phúc trường sinh bất tử.
1.1/ Sự hiểu biết về cuộc sống đời đời qua các thời
đại: Sự hiểu biết về sự sống lại và cuộc sống đời sau tuy đã được nói tới
trong Cựu Ước; nhưng chưa rõ nét lắm. Đa số dân chúng vẫn tin cuộc sống hạnh
phúc chỉ ở đời này, ai làm lành sẽ được Thiên Chúa cho sống lâu, cho nhiều con
cháu, và cho của cải vật chất.
Đến thế kỷ thứ 2 BC, tiên tri Daniel là một trong số
người đầu tiên nói về sự sống lại, sự phán xét và sự sống đời sau: "Trong
số những kẻ an nghỉ trong bụi đất, nhiều người sẽ trỗi dậy: người thì để hưởng
phúc trường sinh, kẻ thì để chịu ô nhục và bị ghê tởm muôn đời. Các hiền sĩ sẽ
chói lọi như bầu trời rực rỡ, những ai làm cho người người nên công chính, sẽ
chiếu sáng muôn đời như những vì sao” (Dan 12:2-3). Bà mẹ và bảy anh em nhà
Maccabees sẵn sàng chết để tuân giữ luật của cha ông, vì họ tin Thiên Chúa sẽ
trả lại thân xác và linh hồn cho họ. Bà mẹ khuyên người con út bằng những lời
tin tưởng sau đây: "Mẹ không rõ các con đã thành hình trong lòng mẹ thế
nào. Không phải mẹ ban cho các con hơi thở và sự sống. Cũng không phải mẹ sắp đặt
các phần cơ thể cho mỗi người trong các con. Chính Đấng Tạo Hoá càn khôn đã nắn
đúc nên loài người, và đã sáng tạo nguồn gốc muôn loài. Chính Người do lòng
thương xót, cũng sẽ trả lại cho các con hơi thở và sự sống, bởi vì bây giờ các
con trọng Luật Lệ của Người hơn bản thân mình" (2 Mac 7:22-23).
Đến thời Chúa Giêsu, Ngài mặc khải cho con người rõ
ràng sự sống đời đời nằm trong Kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, và Ngài chính là
Đấng mang phúc trường sinh bất tử cho con người qua cái chết và sự phục sinh
vinh hiển của Ngài. Đây chính là cốt lõi của Tin Mừng mà Phaolô rao giảng và
Ngài nhắc nhở cho môn đệ yêu quí là Timothy hôm nay: Phải đem Tin Mừng này cho
mọi người để họ cũng nhận được phúc trường sinh bất tử đó.
1.2/ Làm sao con người đạt được phúc trường sinh bất
tử: Đại đa số những người Do-thái thời Chúa Giêsu tin, họ có thể đạt được cuộc
sống đời sau bằng việc giữ cẩn thận các Lề Luật của Moses. Khi Chúa Giêsu đến,
Ngài mặc khải cho họ biết Lề Luật không có sức làm cho họ được cuộc sống trường
sinh bất tử; nhưng họ phải tin và làm những gì Ngài truyền dạy. Thánh Phaolô là
một ví dụ cho sự thay đổi này vì Ngài tin vào sức mạnh của Lề Luật cho tới khi
bị ngã ngựa trên đường đi Damascus. Ngài dạy rõ ràng trong Thư Roma và Thư
Galat: con người được công chính hóa (điều kiện để có ơn cứu độ) là do bởi niềm
tin vào Đức Kitô, chứ không do bởi việc giữ Luật vì không ai có thể giữ trọn vẹn
Luật. Ngài lặp lại điều đó với Timothy hôm nay: “Người đã cứu độ và kêu gọi
chúng ta vào dân thánh của Người, không phải vì công kia việc nọ chúng ta đã
làm, nhưng là do kế hoạch và ân sủng của Người. Ân sủng đó, Người đã ban cho
chúng ta từ muôn thuở trong Đức Giêsu Kitô, nhưng giờ đây mới được biểu lộ, vì
Đấng cứu độ chúng ta là Đức Giêsu Kitô đã xuất hiện. Chính Đức Kitô đã tiêu diệt
thần chết, và đã dùng Tin Mừng mà làm sáng tỏ phúc trường sinh bất tử.”
2/
Phúc Âm: Chúa Giêsu mặc khải về sự sống đời đời
2.1/ Khi người ta từ cõi chết sống lại, thì chẳng
còn lấy vợ lấy chồng: Trình thuật hôm nay nói về cuộc tranh luận giữa Chúa
Giêsu và những người thuộc phái Sadducees. Nhóm này chủ trương không có sự sống
lại. Họ là những người thuộc phái lãnh đạo và là thành phần giàu có, nhiều người
trong số họ là tư tế hay thượng tế. Khi họ đã có quyền hành, danh vọng, giầu có
ở đời này, họ không cần đến sự sống đời sau nữa!
Họ dựa vào Luật (Deut 25:5) để chứng minh với Chúa
Giêsu là “không có sự sống lại;” vì người vợ đó không thể thuộc về cả bảy người
nếu có sự sống lại. Chúa Giêsu trả lời họ thẳng thắn: "Chẳng phải vì không
biết Kinh Thánh và quyền năng Thiên Chúa mà các ông lầm sao? Quả vậy, khi người
ta từ cõi chết sống lại, thì chẳng còn lấy vợ lấy chồng, nhưng sẽ giống như các
thiên thần trên trời” (cf. Lk 20:35-36).
2.2/ Thiên Chúa không phải của kẻ chết, nhưng là của
kẻ sống: Chúa Giêsu nói họ không hiểu Kinh Thánh đúng đắn, vì Kinh Thánh đã nói về
sự sống lại rồi. Khi Thiên Chúa hứa với Abraham sẽ ban cho ông một dòng dõi và
đất làm gia sản. Ngài hứa cho Abraham, chứ không phải chỉ cho dòng dõi của ông.
Abraham phải sống để nhìn thấy dòng dõi và hưởng đất làm gia sản; nếu không,
ông làm sao biết lời hứa của Thiên Chúa được thực hiện. Lý luận tương tự như thế
cho những lời Thiên Chúa hứa với Isaac, Jacob, và vua David.
Trong trình thuật hôm nay, Chúa Giêsu dẫn chứng lời
Thiên Chúa nói với Moses trong đoạn nói về bụi gai: “Ta là Thiên Chúa của
Abraham, Thiên Chúa của Isaac, và Thiên Chúa của Jacob.” Động từ “là” được dùng
ở thời hiện tại để chỉ Người luôn luôn là Thiên Chúa của Abraham, Isaac và
Jacob. Điều này có nghĩa các tổ phụ đó phải đang sống. Chúa Giêsu kết luận:
“Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là của kẻ sống. Các ông lầm
to!"
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Hiểu biết mặc khải của Thiên Chúa về phúc trường
sinh bất tử là kiến thức không thể thiếu cho chúng ta và cho tất cả mọi người,
vì biết làm sao sẽ sống như vậy.
- Phúc trường sinh bất tử là do bởi tình thương
Thiên Chúa. Chúng ta không thể dựa vào bất cứ lý do gì ngoài việc tin tưởng Đức
Kitô và giữ những gì Ngài truyền dạy.
- Chúng ta đừng mô tả Thiên Đàng theo trí tưởng tượng
và sở thích con người, nhưng phải học hỏi Kinh Thánh để biết cách đúng đắn về
cuộc sống đời sau.
Lm.
Anthony ĐINHMINH TIÊN, OP.
01/06/16 THỨ TƯ ĐẦU THÁNG TUẦN 9 TN
Th. Giút-ti-nô, tử đạo
Mc 12,18-27
Suy niệm: Nhóm Xa-đốc chủ trương không có sự sống lại, đã vận dụng hiểu biết của họ về Cựu Ước để vẽ ra một trường hợp hóc búa hòng cài Chúa Giê-su
vào thế bí: Làm sao mà một người đàn bà lại có thể là vợ của cả bảy người chồng được?! Nan đề không có đáp án đó chứng tỏ không thể có sự sống lại và sự sống đời sau được. Thế nhưng Chúa Giê-su đã dùng chính những bản văn Cựu Ước để bác bỏ lập luận của họ và chứng minh rằng Thiên Chúa của các tổ phụ của họ là “Thiên Chúa của kẻ sống” và cuộc sống đời sau không còn cảnh dựng vợ gả chồng vì người ta lúc ấy giống như các thiên thần.
Mời Bạn: Như người Xa-đốc xưa, nhiều người hôm nay sống như thể không có đời sau. Đó cũng là lý do sự dữ và tội ác gia tăng, bởi một khi không tin vào Thiên Chúa và vào đời sau, người ta có thể phạm bất cứ tội ác nào. Lời Chúa mời gọi chúng ta học hiểu Thánh Kinh để nhận biết Thiên Chúa cùng với Đưc Ki-tô là Đấng được sai đến chính là“Thiên Chúa của kẻ sống”, và những ai tin vào Ngài cũng được sự sống. Đức Ki-tô phục sinh bảo đảm rằng cho những ai tin vào Ngài cũng sẽ được sống lại như Ngài; sự chết không còn quyền gì trên họ vì sau cái chết ở đời này Chúa Ki-tô sẽ ban lại cho họ sự sống đời đời.
Sống Lời Chúa: Xác tín rằng mọi việc tôi làm với niềm tin vào Đấng Phục Sinh có giá trị đưa tôi đến sự sống đời đời trong Đức Ki-tô.
Cầu nguyện: Lạy Thánh Tâm Chúa Giê-su, xin cho con ngày càng kính
mến Chúa và luôn tìm làm đẹp lòng Chúa.
Thiên Chúa của kẻ sống
Chúng ta tuyên xưng có sự sống đời sau qua kinh Tin Kính. Nhưng sống niềm tin ấy giữa thế giới vật chất và vô tín là điều không dễ.
Suy
niệm:
Khi
được hỏi về cuộc sống mai hậu,
Đức
Khổng Tử đã trả lời đại khái như sau:
chuyện
đời này còn chưa nắm hết, nói gì đến chuyện đời sau.
Nhưng
chuyện đời sau vẫn là thao thức muôn thuở của con người.
Con
người muốn biết sau cuộc sống ngắn ngủi này, mình sẽ đi về đâu.
Đi
mà không rõ đích đến thì sẽ đi lông bông vô định.
Tiếc
là có người đã tin rằng chẳng có gì sau cái chết!
Nhóm
Xađốc cũng thuộc hạng người trên.
Họ
là những tư tế Do thái giáo bảo thủ, không chấp nhận các ý tưởng mới
như
chuyện người chết sống lại hay sự hiện hữu của các thiên thần.
Trong
Kinh Thánh, họ chỉ dựa vào Ngũ Thư, trong đó có sách Đệ nhị luật.
Sách
này có nói đến chuyện một người trong họ hàng gần (Đnl 25, 5-10),
phải
lấy bà vợ góa không con của anh em mình, để có người nối dõi.
Nhóm
Xađốc đã đưa ra một trường hợp hãn hữu và buồn cười (cc. 20-23),
để
cho thấy chuyện sống lại là vô lý, và Môsê cũng chẳng tin chuyện đó.
“Khi
sống lại, bà ấy sẽ là vợ của ai? Vì cả bảy người đều đã lấy bà làm vợ.”
Đức
Giêsu đã nặng lời chê các tư tế trong nhóm này (c. 24).
Họ
đã hiểu cuộc sống đời sau như một thứ kéo dài cuộc sống hiện tại,
nơi
đó người ta vẫn cưới vợ, lấy chồng, vẫn sinh con đẻ cái.
Đức
Giêsu cho thấy một bộ mặt khác hẳn của đời sau.
Người
được sống lại là người bước vào cuộc sống hoàn toàn mới.
Họ
sống “như các thiên thần trên trời” (c. 25),
nghĩa
là sống trọn vẹn cho việc phụng sự Thiên Chúa,
với
một thân xác đã được biến đổi nên giống thân xác Đấng phục sinh.
Nhưng
đừng hiểu thiên đàng là nơi mất đi sự ấm áp của tình người.
“Hôm
nay anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng” (Lc 23, 43).
“Thầy
đi dọn chỗ cho anh em, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14,3).
Tình
yêu với Thầy Giêsu và những mối dây thân ái giữa người với người,
chẳng
có gì bị phá vỡ, nhưng trở nên hoàn hảo vững bền.
Người
ta sẽ không cưới hỏi hay sinh con,
nhưng
tình nghĩa vợ chồng được nâng lên một bình diện mới.
Đức
Giêsu trưng dẫn sách Xuất hành để minh chứng có sự sống lại.
Thiên
Chúa nhận mình là Thiên Chúa của các tổ phụ Ítraen (Xh 3,15).
Mà
người Do thái tin là Ngài không gắn mình với các anh hùng đã chết.
Vậy
Abraham, Ixaác và Giacóp phải là những người đang sống,
nghĩa
là những người đã chết và đã được phục sinh.
Chúng
ta tuyên xưng có sự sống đời sau qua kinh Tin Kính.
Nhưng
sống niềm tin ấy giữa thế giới vật chất và vô tín là điều không dễ.
Chỉ
xin cho vất vả lo toan đời này không làm ta quên đời sau.
Cầu
nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
giàu
sang, danh vọng, khoái lạc
là
những điều hấp dẫn chúng con.
Chúng
trói buộc chúng con
và
không cho chúng con tự do ngước lên cao
để
sống cho những giá trị tốt đẹp hơn.
Xin
giải phóng chúng con
khỏi
sự mê hoặc của kho tàng dưới đất,
nhờ
cảm nghiệm được phần nào
sự
phong phú của kho tàng trên trời.
Ước
gì chúng con mau mắn và vui tươi
bán
tất cả những gì chúng con có,
để
mua được viên ngọc quý là Nước Trời.
Và
ước gì chúng con không bao giờ quay lưng
trước
những lời mời gọi của Chúa,
không
bao giờ ngoảnh mặt
để
tránh cái nhìn yêu thương
Chúa
dành cho từng người trong chúng con. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
1 THÁNG SÁU
Hơi Thở Sự Sống
Bản văn Thánh Kinh trong Sách Sáng Thế cho phép chúng ta hiểu rõ rằng con người – được tạo thành như thế – khác hẳn với toàn thể thế giới hữu hình, nhất là khác hẳn với thế giới động vật. Chính “hơi thở sự sống” đã làm cho con người có thể biết các động vật, có thể đặt tên cho chúng – và có thể nhận ra mình khác với chúng (St 2, 18 – 20).
Mặc dù trình thuật Gia-vít về cuộc tạo dựng con người không nói đến “linh hồn”, ta vẫn dễ dàng nhận ra từ trình thuật này rằng sự sống con người là một sự sống siêu việt trên sự sống thuần túy chất thể của động vật, rằng sự sống vượt quá vật chất để vươn tới chiều kích tinh thần. Đây chính là nền tảng cốt yếu của “hình ảnh Thiên Chúa” mà bản văn Sáng Thế 1, 27 nói về.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
Gương Thánh Nhân
Ngày 01-06: Thánh GIUSTINÔ
Tử Đạo (+165)
Thánh Giustinô tử đạo sinh tại Nablus, Samaria ở vào đầu thế kỷ thứ II. Sinh trưởng trong một gia đình ngoại giáo, nhưng Ngài luôn nuôi dưỡng nhiệt tình tìm kiếm Thiên Chúa chân thật. Với nhiệt tình này, Ngài đã tiếp xúc với mọi triết thuyết đương thời và không thoả mãn được các đòi hỏi của trí khôn.
Trong tác phẩm "Đối thoại với Tryphon" (Dialogus cum Tryphone), chính thánh Giustinô kể lại cuộc tìm kiếm của mình: - Trước hết, Ngài tin tưởng vào một người theo phái khắc kỷ. Những người này chẳng dạy gì về Thiên Chúa. Ông ta nói rằng sư hiểu biết ấy không cần thiết gì. Sau đó, Ngài đến với một người theo thuyết của Aristote. Ông này đòi thù lao quá cao, khiến sinh viên trẻ là Giustinô phẫn uất: người ta không rao bán triết học.
Một người theo lý thuyết của Pythagore hỏi Ngài: - Anh đã học âm nhạc, thiên văn và địa lý chưa ? Bởi vì để chiêm ngưỡng điều góp phần tạo nên hạnh phúc cần phải biết học giải thoát tâm hồn khỏi các đối tượng hữu hình để có thể tiếp nhận được những đối tượng trong trí khôn và cho phép thấy được sự thiện mỹ nội tại.
Giustinô chưa biết gì về những môn học, nhưng lại thấy mình bị thúc bách tìm kiếm Thiên Chúa hơn. Ngài gặp một người theo phái Platon Ngài nói: - Sau nhiều đàm luận, tôi hiểu được những điều vô hình ở mức độ cao hơn. Việc chiêm ngưỡng thế giới tư tưởng chấp cánh cho tinh thần của tôi.
Dầu vậy, không có gì làm cho Ngài thỏa mãn được cơn khát chân lý. Tại Ephesô, Giustinô gặp một cụ già đầy khôn ngoan. Ông trách Ngài đã thích lý sự về từ ngữ hơn sự kiện. Ông đã cho Ngài một lời khuyên cao cả là hãy tìm đọc kinh thánh: phải vượt qua những giới hạn của trí khôn, phải đi xa trong thời gian hơn các triết gia, phải nghe các tiên tri là những người nói bởi Chúa Thánh Thần, nhất là phải cầu nguyện vì: - Không ai có thể thấy hay nghe được những điều này nếu Thiên Chúa và đức Kitô không cho họ hiểu biết.
Theo lời khuyên này, Giustinô đã khám phá ra Kitô giáo bảo đảm hơn triết học nhiều. Từ đấy đức tin là qui luật xử thế và sự thánh thiện lý tưỏng của Ngài, Ngài mở một trường học tại Rôma và sống đời tông đồ đích danh. - Tôi sẽ nói sự thật, không một đắn đo sợ sệt, cả vào lúc bị phân thay thành trăm mảnh.
Gương mẫu của các thánh tử đạo đánh động ngài rất nhiều: - Thấy họ kiên vững trước cái chết, tôi thầm nói rằng: họ không thể sống trong sự dữ và ham mê các khoái lạc được nữa.
Ngài sẽ tìm được ở đâu sự thăng hoa cuộc sống lớn lao hơn là trong Kitô giáo ? Bởi vậy Ngài đã tìm mở rộng môi trường hoạt động ra ngoài ranh giới lớp học và những cuộc tranh luận, bằng việc viết nhiều tác phẩm để phổ biến tư tưởng tôn giáo. Ngày nay chúng ta chỉ còn giữ lại được hai cuốn: Đối Thoại Với Tryphone, và Hộ Giáo. Nhưng với hai tác phẩm ấy, thánh Giustinô cũng tỏ ra là một nhà minh giáo có thế giá được thế kỷ thứ II và là người đã phác họa ra nền thần học Kitô giáo.
Từ một đức tin vững chắc vào các chân lý Kitô giáo. Thánh Giustinô đã không ngần ngại tìm hết khả năng trổi vượt của trí khôn để hai lần viết thơ can ngăn các bạo vương. Lần thứ nhất vào năm 138. Ngài viết cho Antonin Le Pieux và lần thứ hai cho Marcô Aurelio. Cả hai lần Ngài cố gắng chỉ dẫn đến kết quả là bị kết án tử hình.
Giustinô và các bạn bị dẫn tới trước mặt tổng trấn Rusticus, một người theo triết thuyết Khắc Kỷ. Ngài lớn tiếng tuyên xưng đức tin. - Không ai có lương tri mà lại bỏ rơi chân lý để theo sự lầm lạc cả.
Thánh nhân từ chối không chịu tố giác nơi các kitô hữu hội họp. Sau cùng Ngài và các bạn bi đánh đòn rồi bị chém đầu. Tài liệu còn ghi lai nhiều chân lý mà thánh nhân đã phát biểu trong cuộc đối thoại với Rustisus, chẳng hạn: - Mọi nguyên tắc chính đáng mà các triết gia và các nhà lập luật khám phá được và trình bày cũng phải nhớ ở điều mà Ngôi lời đã diễn tả một phần.
Ngài còn nói: - Không ai tin Socrate đến độ chết vì điều ông ta dạy. Chính vì những lý do khác hẳn với lãnh vực văn chương mà bao nhiêu giáo phụ đã lấy máu mình để ký nhận các công trình của các Ngài, chính tình yêu Thiên Chúa nhập lòng các Ngài.
(daminhvn.net)
01 Tháng Sáu
Con Người Khờ Khạo
Một cuốn phim Pháp với tựa đề
"Gigot", đã kể lại cuộc đời cao thượng nhưng vô cùng đáng thương của
một người câm tên là Gigot. Ðúng như cái tên có thể gợi lên, Gigot là một người
khờ khạo nhưng có một tâm hồn cao quí. Ngày ngày anh quét đường, kiếm từng đồng
xu nhỏ để mua những mẩu bánh mì vụn sống qua ngày. Nơi trú ngụ của anh là một
cầu thang bẩn thỉu nằm bên dưới một ngôi nhà. Những người bạn duy nhất của anh
là các chú chó và một con mèo hoang. Hằng ngày, từ tiệm bánh mì đi ra, anh đều
mang theo thức ăn cho chúng. Anh đi đâu, chúng quấn quít bên người đến đó...
Những con thú thương anh như một người bạn, nhưng những người đồng bào của anh
chỉ nhìn anh như trò đùa. Mỗi khi cần có một trận cười, người ta gọi Gigot đến
cho anh uống rượu để anh có thể nhảy múa trong cơn say và làm trò hề cho họ.
Một đêm nọ, sau khi say túy lúy
và làm đủ trò hề cho thiên hạ cười, Gigot đi ngã ngiêng về nhà giữa cơn mưa.
Anh bắt gặp một người đàn bà và một đứa con gái nhỏ đang nằm co ro trong góc hè
phố, mình mẩy ướt như chuột lột. Anh dìu hai mẹ con người đàn bà về nhà mình và
dọn chỗ cho họ qua đêm. Trong những ngày kế tiếp, anh tìm đủ mọi cách để làm
cho người đàn bà được hạnh phúc và cô bé được vui cười. Anh đưa cô bé đến nhà
thờ và dùng thứ ngôn ngữ câm của mình để nói với nó về Chúa Giêsu... Một hôm,
người mẹ muốn đi nơi khác vì không chịu nổi cảnh thiếu thốn trong căn nhà của
anh. Người câm không biết làm gì hơn là đành phải đến hiệu bánh mì quen để đánh
cắp một số tiền. Với số tiền ấy, anh có thể sắm sửa tươm tất cho hai mẹ con
người đàn bà...
Thế nhưng, một hôm, khi thức
giấc, anh không còn thấy người đàn bà trong căn gác của mình nữa. Anh đưa cô bé
vào sâu trong cầu thang và làm trò đùa cho nó cười. Vô tình, căn gác đổ nát sụp
xuống trên anh và đứa bé. Anh vừa mang đứa bé đến nhà thờ để xin cha sở chạy
chữa, thì người ta cũng phát giác ra sự mất tích của nó... Người ta tri hô lên
anh là thủ phạm bắt cóc đứa bé. Cuộc săn đuổi đã làm anh trượt té xuống một
dòng sông... Một chiếc phà chạy qua. Chiếc mũ của anh trồi lên. Mọi người tưởng
rằng anh đã chết chìm giữa dòng sông... Sự cảm thông và thương tiếc bỗng bừng
dậy, người ta lấy chiếc mũ của anh, đặt lên một chiếc quan tài và cử hành nghi
lễ tống táng. Người người sụt sùi khóc. Bao nhiêu bài điếu văn được đọc lên để
ôn lại tấm lòng cao thượng của người quá cố... Nhưng từ một chòm cây trong
nghĩa địa, Gigot lắng nghe tất cả, anh bật thành tiếng khóc, khóc vì sự cảm
thông quá muộn màng của người đồng loại, mà có lẽ cũng khóc khi nghĩ đến thân
phận của anh.
Hôm nay chúng ta bước vào tháng
dành riêng để tôn kính Trái Tim Chúa Giêsu.... Có riêng một tháng để nhắc nhớ
cho con người về Tình Yêu của Thiên Chúa, bởi lẽ con người không hiểu mà cũng
dễ quên tình yêu của Thiên Chúa...
Thiên Chúa cũng giống như một người
tình câm. Ngài làm mọi sự và tìm đủ mọi cách để cho con người hiểu được Tình
Yêu của Ngài. Không còn ngôn ngữ nào nữa, Thiên Chúa đành phải dùng chính cái
chết, bởi lẽ không có tình yêu nào trọng đại cho bằng mối tình của người chết
vì người mình yêu...
"Chúng sẽ nhìn xem Ðấng chúng
sẽ đâm thâu qua". Qua cái chết của Ðức Kitô trên thập giá, con người mới
có thể thấy được tình yêu của Thiên Chúa đối với mình. Cái chết là ngôn ngữ
cuối cùng của Tình Yêu. Mối tình câm lặng nhất đã được bày tỏ...
Lẽ
Sống