09/06/2016
Thứ Năm tuần 10 thường niên
Bài Ðọc
I: (Năm II) 1 V 18, 41-46
"Êlia
cầu nguyện và trời đổ mưa" (Gc 5, 18).
Trích
sách Các Vua quyển thứ nhất.
Trong
những ngày ấy, Êlia tâu cùng Acáp rằng: "Xin bệ hạ lên ăn uống, vì tôi
nghe có tiếng mưa to". Acáp liền lên ăn uống. Phần Êlia, ông trèo lên đỉnh
núi Carmel, cúi mình xuống đất, gục mặt vào hai đầu gối. Ðoạn ông nói với người
đầy tớ rằng: "Hãy lên đây nhìn về phía biển". Người đầy tớ leo lên,
đưa mắt nhìn, rồi thưa ông: "Không có gì hết." Êlia lại nói với y:
"Cứ xem lại bảy lần". Ðến lần thứ bảy (nó báo:) "Kìa, có đám mây
nhỏ bằng vết chân người, từ biển kéo lên". Êlia liền bảo: "Hãy lên
tâu với Acáp chuẩn bị xe xuống gấp kẻo mắc mưa". Ðang lúc vua còn loay
hoay thì bỗng trời tối om, mây bao phủ, gió thổi lên, trời đổ mưa như trút.
Acáp lên xe đi Giêrahel. Tay Chúa phù hộ Êlia: Ông thắt lưng chạy trước Acáp
cho đến khi tới Giêrahel.
Ðó là
lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 64, 10abcd. 10e-11. 12-13
Ðáp: Lạy Chúa, Chúa đáng ca tụng trên
núi Sion (c. 2a).
Xướng:
1) Chúa đã viếng thăm ruộng đất và tưới giội, Ngài làm cho đất trở nên phong
phú bội phần. Sông ngòi của Thiên Chúa tràn trề nước, Ngài đã chuẩn bị cho
thiên hạ có lúa mì. - Ðáp.
2) Vì
Ngài đã chuẩn bị như thế này cho ruộng đất: Ngài đã tưới giội nước vào những luống
cày, và Ngài san bằng mô cao của ruộng đất, Ngài làm cho đất mềm bởi thấm nước
mưa, Ngài chúc phúc cho mầm cây trong đất. - Ðáp.
3)
Chúa đã ban cho năm hồng ân, và lốt xe ngự giá của Người khơi nguồn phong phú.
Ðống đất hoang vu có nước chảy đầm đìa, và các đồi núi bận xiêm y hoan hỉ. -
Ðáp.
Alleluia:
Ga 14, 29
Alleluia,
alleluia! - Chúa phán: "Nếu ai yêu Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy
sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy". - Alleluia.
Phúc
Âm: Mt 5, 20-26
"Bất
cứ ai phẫn nộ với anh em mình, thì sẽ bị toà án luận phạt".
Tin Mừng
Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy,
Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Nếu các con không công chính hơn
các luật sĩ và biệt phái, thì các con chẳng được vào Nước Trời đâu.
"Các
con đã nghe dạy người xưa rằng: "Không được giết người. Ai giết người, sẽ
bị luận phạt nơi toà án". Còn Thầy, Thầy sẽ bảo các con: Bất cứ ai phẫn nộ
với anh em mình, thì sẽ bị toà án luận phạt. Ai bảo anh em là "ngốc",
thì bị phạt trước công nghị. Ai rủa anh em là "khùng", thì sẽ bị vạ lửa
địa ngục. Nếu con đang dâng của lễ nơi bàn thờ mà sực nhớ người anh em đang có
điều bất bình với con, thì con hãy để của lễ lại trước bàn thờ, đi làm hoà với
người anh em con trước đã, rồi hãy trở lại dâng của lễ. Hãy liệu làm hoà với kẻ
thù ngay lúc còn đi dọc đường với nó, kẻo kẻ thù sẽ đưa con ra trước mặt quan
toà, quan toà lại trao con cho tên lính canh và con sẽ bị tống ngục. Ta bảo thật
cho con biết: Con sẽ không thoát khỏi nơi ấy cho đến khi trả hết đồng xu cuối
cùng!"
Ðó là
lời Chúa.
Suy Niệm: Sự thánh thiện đích thực
Chân
phước Marchello, một kỹ nghệ gia giàu có người Italia, đã bán hết tất cả gia sản
và sang Châu Mỹ La tinh phục vụ những người phong cùi, có kể lại câu chuyện như
sau: tại một viện bài phung giữa rừng già miền Amazone, có một người đàn bà thoạt
nhìn qua ai cũng thấy đáng thương. Từ nhiều năm qua, vì phong cùi, bà bị chồng
con bỏ rơi, bà sống đơn độc trong một túp lều gỗ, mặt mũi đã bị đục khoét đến độ
không còn hình tượng con người nữa.
Mang
đến cho bà vài món quà, chân phước Marchello hỏi bà:
- Bà
làm gì suốt ngày? Có ai đến thăm bà không?
Người
đàn bà trả lời:
- Tôi
sống đơn độc một mình. Tôi không còn làm được gì nữa, tay chân bại liệt, mắt mũi
lại chẳng còn trông thấy gì nữa.
Marchello
tỏ ra cảm thông trước nỗi khổ của bà, ngài hỏi:
- Vậy
chắc bà phải cô đơn buồn chán lắm phải không?
Người
đàn bà liền nói:
-
Thưa ngài, không. Tôi cô độc thì có, nhưng tôi không hề cảm thấy buồn hoặc bị bỏ
rơi, bởi vì tôi cầu nguyện suốt ngày và tôi luôn cảm thấy có Chúa bên cạnh.
Ngạc
nhiên về lòng tin của bà, chân phước Marchello hỏi tiếp:
- Thế
bà cầu nguyện cho ai?
Người
đàn bà như mở to được đôi mắt mù lòa, bà nói:
- Tôi
cầu nguyện cho Ðức Giáo Hoàng, cho các Giám Mục, Linh mục, Tu sĩ. Tôi cầu nguyện
cho những người phong cùi bị bỏ rơi, cho các trẻ em mồ côi, cho tất cả những ai
giúp đỡ trung tâm này.
Chân
phước Marchello ngắt lời bà:
- Bà
không cầu nguyện cho bà sao?
Với một
nụ cười rạng rỡ, người đàn bà quả quyết:
- Tôi
chỉ cầu nguyện cho những người khác mà thôi, bởi vì khi người khác được hạnh
phúc, thì tôi cũng được hạnh phúc.
Thái
độ sống và cầu nguyện của người đàn bà phong cùi trên đây minh họa cho sự thánh
thiện đích thực là người chỉ sống cho người khác, lấy hạnh phúc của người khác
làm của mình. Ðể có được thái độ như thế, chắc chắn phải có một đức tin sâu xa,
một đức tin luôn đòi hỏi con người nhận ra hình ảnh của Thiên Chúa trong mọi
người và yêu thương mọi người. Như vậy, thánh thiện và bác ái cũng là một:
thánh thiện mà không có bác ái là thánh thiện giả hình.
Chúa
Giêsu đã đến để đem lại cho sự thánh thiện một nội dung đích thực. Ngài đề ra một
mẫu mực thánh thiện hoàn toàn khác với quan niệm và thực hành của người Biệt
Phái và Luật Sĩ, tức là những nhà lãnh đạo tôn giáo thời đó. Theo họ, thánh thiện
là chu toàn một cách chi li và máy móc những luật lệ đã được quy định mà không
màng đến linh hồn của lề luật là lòng bác ái; họ có thể trung thành tuyệt đối với
những qui luật về ăn chay và cầu nguyện, nhưng lại sẵn sàng khước từ và loại bỏ
tha nhân.
Ðả
phá quan niệm và cách thực hành của những người Biệt Phái và Luật Sĩ, Chúa
Giêsu đưa bác ái vào trọng tâm của lề luật; hay đúng hơn, Ngài tóm lại tất cả lề
luật thành một luật duy nhất, đó là lòng bác ái. Ai muốn làm môn đệ Ngài, người
đó phải vượt qua quan niệm và cách thực hành đạo của những người Biệt Phái và
Luật Sĩ, nghĩa là cần phải lấy bác ái làm linh hồn và động lực cho toàn cuộc sống:
"Nếu các con không ăn ở công chính hơn những Biệt Phái và Luật Sĩ, thì sẽ
chẳng được vào Nước Trời."
Quả
thật, nếu an bình, hân hoan, hạnh phúc là thể hiện của Nước Trời ngay trong cuộc
sống này, thì chúng ta chỉ được vào Nước Trời, nếu chúng ta biết sống cho tha
nhân mà thôi. Sống vui và hạnh phúc, phải chăng không là mơ ước của mọi người,
nhưng liệu mỗi người có ý thức rằng bí quyết của hạnh phúc và niềm vui ấy chính
là sống cho tha nhân không? Kỳ thực, các thánh là những người đạt được niềm vui
và hạnh phúc ấy ngay từ cuộc sống này. Người Tây phương đã chẳng nói: "Một
vị thánh buồn là một vị thánh đáng buồn" đó sao?
Nguyện
xin Chúa cho chúng ta luôn biết tìm kiếm và cảm mến được niềm vui và hạnh phúc
đích thực trong yêu thương và phục vụ.
Veritas Asia
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Năm Tuần 10 TN2, Năm Chẵn
Bài đọc: 1 Kgs 18:41-46; Mt 5:20-26.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phải kiên nhẫn đưa tha nhân về với Thiên
Chúa.
Con
người sống xa cách Thiên Chúa vì rất nhiều lý do: không có cơ hội được nghe Lời
Chúa, sống trong gia đình cha mẹ không thực hành đức tin, sống trong xã hội quá
chú trọng tới vật chất và chống những giá trị tôn giáo... Rất dễ cho chúng ta kết
tội tha nhân và “đường ai nấy đi, mạnh ai nấy sống.” Đức Kitô không cho phép
các môn đệ kết tội tha nhân cách dễ dàng như thế; nhưng muốn họ trở thành muối
và ánh sáng để đưa những anh chị em lầm đường lạc lối trở về.
Các
bài đọc hôm nay đưa ra những bài học cụ thể để làm gương cho các tín hữu. Trong
bài đọc I, ngôn sứ Elijah sau khi đã chứng minh cho con cái Israel biết đâu là
Chúa thật bằng phép lạ Đức Chúa khiến lửa từ trời xuống thiêu rụi của lễ, ông
ra lệnh cho vua Ahab và toàn dân phải ăn chay để tỏ lòng ăn năn thống hối trước
khi cầu khẩn Thiên Chúa cho mưa rơi để chấm dứt những năm hạn hán. Trong Phúc
Âm, Chúa Giêsu kết tội mọi hình thức tức giận, khinh thường và kết tội tha
nhân. Thay vào đó, các môn đệ phải luôn có lòng tha thứ và sống hòa thuận với mọi
người.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài
đọc I: Thiên Chúa sửa phạt
rồi lại xót thương Dân Ngài.
1.1/ Những
việc làm tỏ lòng ăn năn thống hối: Mục đích Thiên Chúa sửa phạt là vì yêu thương: để dân chúng nhận
ra lỗi lầm và trở về với Ngài, chứ không phải vì tức giận mà tiêu diệt. Sau khi
toàn dân đã nhận ra sai lầm của việc thờ thần Baal, Elijah yêu cầu vua Ahab và
toàn dân ăn chay để tỏ lòng thống hối, và ông sẽ cầu nguyện với Thiên Chúa để
Ngài đổ mưa xuống trên dân. Khi hết thời hạn ăn chay, ông Elijah nói với vua
Ahab: "Xin mời vua lên mà ăn uống, bởi vì có tiếng mưa rào!" Vua Ahab
liền lên ăn uống.
Trong
khi đó, ngôn sứ Elijah trèo lên núi Carmen. Đỉnh núi Carmen là ngọn núi cao nhất
gần Sidon, nhìn ra biển Mediterranean, tại đây, ngôn sứ Elijah có thể nhìn thấy
những đám mây đen mang nước mưa vào từ biển. Elijah “cúi xuống đất, gục mặt vào
hai đầu gối.” Đây có lẽ là vị thế cầu nguyện nghiêm trọng nhất để khẩn cầu ơn
Chúa xuống. Trên đỉnh núi này, ngày nay vẫn còn một nhà nguyện và chỗ cầu xin của
ngôn sứ Elijah cho khách hành hương kính viếng. Vào ngày đẹp trời, du khách có
thể nhìn thấy đồng bằng Jezreel chạy cho tới biển hồ Galilee từ đỉnh núi này về
phía Đông Nam.
1.2/ Hạn
hán chấm dứt: Ông Elijah bảo
đầy tớ: "Con đi lên và nhìn về phía biển." Nó đi lên, nhìn và nói:
"Không có gì cả!" Ông bảo: "Hãy trở lại bảy lần." Ngôn sứ
Elizah cầu nguyện kiên trì bảy để xin ơn Thiên Chúa lần mỗi khi đầy tớ lên đỉnh
núi. Lần thứ bảy, nó nói: "Kìa có một đám mây nhỏ bằng bàn tay người đang
từ biển bốc lên." Ông nói: "Con hãy lên thưa với vua Ahab: xin vua thắng
xe và xuống kẻo bị kẹt mưa." Lập tức trời kéo mây đen nghịt và nổi gió, rồi
trút mưa lớn. Vua Ahab cỡi xe đi Jezreel.
Trong
khi đó, “tay Đức Chúa đặt trên ông Elijah; ông thắt lưng và chạy trước vua Ahab
cho tới lúc vào vùng đồng bằng Jezreel.” Đây là cuộc chạy đua chiến thắng vì
ngôn sứ Elijah đã được Thiên Chúa cho thắng trận huy hoàng. Ông đã làm cho vua
Ahab và toàn dân quay trở về với Thiên Chúa và chấm dứt hạn hán.
2/
Phúc Âm: Nếu anh em không
ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pharisees, thì sẽ chẳng được vào Nước
Trời.
Tôn
trọng phẩm giá của tha nhân: Chúa Giêsu cảnh cáo các môn đệ: “Thầy bảo cho anh
em biết, nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pharisees,
thì sẽ chẳng được vào Nước Trời.” Chúng ta cần nhớ chương 5 của Tin Mừng
Matthew bắt đầu bằng Bát Phúc là những lời dạy của Chúa Giêsu giúp các môn đệ
trở nên trọn lành như Cha trên trời là Đấng trọn lành. Chúa Giêsu thường dùng
công thức: “Người xưa dạy... còn Ta, Ta dạy... ” Trong trình thuật hôm nay,
Ngài đòi các môn đệ phải ăn ở tốt lành và công chính hơn các kinh sư trong hai
lãnh vực:
2.1/ Phải
tôn trọng phẩm giá của tha nhân: "Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng: Chớ giết người; ai
giết người, thì đáng bị đưa ra toà. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Ai giận
anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị
đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân vô đạo, thì đáng
bị lửa hoả ngục thiêu đốt."
Chúa
Giêsu muốn cho các môn đệ biết có nhiều cách giết người, chứ không phải chỉ giết
người về phương diện thể lý. Chúng ta có thể giết tha nhân bằng việc:
- Giận
dữ: Hai chữ được dùng trong Hy-lạp: thurmos (giận dữ) cho những
cơn giận nóng lên rồi hạ hỏa ngay và orge (cho những cơn giận
dai dẳng, giận cho đến mãn đời). Chúa Giêsu ngăn cấm các môn đệ không được giận
dữ, “ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà.”
-
Khinh thường tha nhân: Raca trong Hy-lạp là chữ khó dịch, có
thể dịch như “đồ ngu ngốc hay điên rồ về phương diện trí tuệ.” Chúa Giêsu luận
tội: “Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng.”
Căn bản cho lời luận tội này là mọi người đều được Thiên Chúa dựng nên.
- Mắng
anh em là moros (điên rồ về phương diện luân lý): Những người
này có thể là những người vô thần hay sống một cuộc sống đồi trụy. Chúa Giêsu
luận tội: “Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì đáng bị lửa hoả ngục
thiêu đốt.” Bổn phận của các môn đệ là phải kiên nhẫn đưa họ về, chứ không phải
mắng mỏ, buộc tội.
2.2/ Cần
phải tha thứ: Truyền thống
Do-thái cũng như Kitô hữu tin mối liên hệ hàng dọc với Thiên Chúa tùy thuộc vào
mối liên hệ hàng ngang với tha nhân: một người phải tha thứ cho anh em trước
khi muôn được Thiên Chúa tha thứ. Theo truyền thống Do-thái, mỗi khi vô tình phạm
tội, hối nhân phải dâng lễ vật để xin Thiên Chúa tha thứ cho những tội đã phạm.
Trường hợp liên quan tới mối liên hệ với con người, họ phải làm hòa với nhau
trước khi có thể giao hòa với Thiên Chúa. Thần học về Bí-tích Giải Tội cũng đòi
hối nhân phải tha thứ cho người xúc phạm đến mình như Thiên Chúa đã tha thứ cho
hối nhân.
Ngoài
ra, ăn ở hài hòa giúp con người tránh được những nhức đầu trong cuộc sống: Cha
ông chúng ta vẫn dạy "dĩ hòa vi quí;" người hiền lành sẽ được mọi người
thương mến. Ngược lại, những người khó chịu, cau có, sẽ chuốc cho mình những
ghen ghét, tranh tụng, và mất bình an. Chúa Giêsu khuyên các môn đệ: ''Anh hãy
mau mau dàn xếp với đối phương, khi còn đang trên đường đi với người ấy tới cửa
công, kẻo người ấy nộp anh cho quan toà, quan toà lại giao anh cho thuộc hạ, và
anh sẽ bị tống ngục. Thầy bảo thật cho anh biết: anh sẽ không ra khỏi đó, trước
khi trả hết đồng xu cuối cùng."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Chúng ta không được giận dữ, khinh thường, hay buộc tội tha nhân; nhưng phải
luôn tìm dịp cho họ có cơ hội ăn năn thống hối và trở lại với Thiên Chúa.
- Trở
nên tốt là một tiến trình đòi kiên nhẫn và thời gian. Chúng ta cần kiên nhẫn
giáo dục tha thứ, và khuyến khích tội nhân trên đường về với Thiên Chúa.
Linh
mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
09/06/16 THỨ NĂM TUẦN 10 TN
Th. Ép-rem, phó tế, tiến sĩ HT
Mt 5,20-26
Th. Ép-rem, phó tế, tiến sĩ HT
Mt 5,20-26
Suy niệm: “Nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh..., hãy đi làm hòa với người anh em ấy đã...” Chưa khi nào Chúa Giê-su nối kết tôn giáo và tình bác ái huynh
đệ chặt chẽ như vậy. Quả thật, hiểu sâu sắc thì mỗi thánh lễ và lời cầu nguyện của tôi phải đẩy tôi tiến thêm một bước nữa trong tình yêu thương huynh đệ. Về điều này, Lời Chúa hôm nay đòi tôi phải thực hiện hai cái trước:
1. Sống tốt mối tương quan huynh đệ trước, rồi mới có thể sống đẹp mối tương quan với Chúa sau.
2. Chúa
muốn tôi đi bước trước, khi dạy: “Hãy
làm hòa với người anh em ấy đã.” Ngay cả dù tôi là kẻ vô tội trong chuyện này, hay tôi là kẻ đang bất bình với người anh em đã gây ra sự việc, Chúa đều muốn tôi đi bước trước để hòa giải. Như thế của lễ tôi dâng lại càng đẹp lòng Chúa vì thơm hương nhân ái, tha thứ, quảng đại.
Mời Bạn: Nhớ lại những lần chúng ta dự lễ, rước lễ mà trong lòng còn chất chứa ghen ghét, bất bình với người anh em, lúc đó trong tâm hồn chúng ta chẳng còn chỗ cho Chúa, và Chúa không vui thích được đón tiếp trong một tâm hồn hẹp hòi nhỏ nhen như vậy.
Chia sẻ: Đạo Chúa dạy ta sống nhân ái từ trong tư tưởng, đến lời nói và việc làm. Nguyên sự giận dỗi trong lòng, mắng chửi ngoài miệng đã là lỗi phạm nặng nề đức yêu thương rồi (c.22).
Sống Lời Chúa: Tập làm người kiến tạo hoà bình nơi chính tâm hồn mình, không nuôi lòng giận hờn ghen ghét ai.
Cầu nguyện: Hát: “Đâu có tình yêu thương, ở đó có Đức Chúa Trời. Đâu có lòng từ bi, ở đó có ân sủng người…”
Chớ giết người
Kitô hữu được mời gọi tôn trọng nhân vị của từng người, trong trái tim, trong lời nói cũng như hành động, vì mỗi người mang hình ảnh của chính Thiên Chúa.
Suy
niệm:
“Chớ
giết người”, đó là một trong những giới luật quan trọng.
Dân
Do thái đã nhận giới luật này từ Thiên Chúa
qua
trung gian ông Môsê trên núi Xinai (Xh 20, 13; Đnl 5, 17).
Đức
Giêsu không đến để bãi bỏ Luật Môsê.
Ngài
nâng Luật này lên một tầng cao mới.
Không
phải chỉ hành vi giết người mới là tội.
Ngay
cả ai giận ghét anh em trong lòng
và
biểu lộ ra bằng những lời nhục mạ, mắng chửi,
cũng
phải chịu những hình phạt tương tự (c. 22).
Đức
Giêsu đẩy giới răn này đến chỗ triệt để, tận căn.
Ngài
tìm về cội nguồn của hành vi sát nhân nơi tâm con người.
Nếu
lòng con người không còn giận ghét anh em,
và
lời nói giữ được sự kính trọng, ôn hòa,
thì
tội giết người hoàn toàn có thể tránh được.
Sống
với nhau tránh sao khỏi những tranh chấp, cọ sát.
Đi
làm hòa với người anh em trong cộng đoàn là điều khẩn trương.
Thậm
chí phải để lại lễ vật sắp dâng trước bàn thánh
mà
đi làm hòa với một người anh em đang bất bình với mình,
rồi
sau đó mới trở lại dâng lễ vật cho Chúa (cc. 23-24).
Phải
chăng người ta chỉ đến được với Chúa và được đoái nhận lễ vật
khi
người ta đến được với anh em trong sự an hòa thứ tha?
Để
đến được với người đang xích mích với mình,
cần
khiêm hạ, ra khỏi mình và lên đường đến với người ấy.
Đi
bước trước để đến với người khác, dù lỗi không thuộc về mình,
đó
là cách làm hòa và làm lành những vết thương.
Hòa
giải với tha nhân phải được coi là việc cần làm ngay
trước
khi ta có thể hiệp thông với Thiên Chúa qua việc dâng của lễ.
“Chớ
giết người”, giới răn này xem ra bị coi nhẹ trong thế giới hôm nay,
một
thế giới tự hào là văn minh, nhưng mạng sống con người bị rẻ rúng.
Những
vụ phá thai, những tai nạn xe cộ mỗi ngày,
những
cuộc chiến không ngừng giữa các quốc gia thù nghịch.
Bao
cuộc khủng bố đã làm hàng ngàn người chết.
Những
tội ác diệt chủng đã xóa sổ cả triệu con người.
“Chớ
giết mình”, con người cũng không biết quý mạng sống mình.
Những
vụ tự tử, những cái chết do sử dụng ma túy hay ăn chơi,
những
bệnh tật do con người tự phá hoại thân xác mình.
Cain
đã giết em là Abel vì ghen tương và giận dữ.
Tội
ác đó vẫn xuất hiện mãi trên mặt đất cho đến nay.
Làm
thế nào để ta biết trân trọng sự sống của người khác và của mình?
Làm
thế nào để Thiên Chúa được nhìn nhận như Chủ Tể của sự sống?
Kitô
hữu được mời gọi tôn trọng nhân vị của từng người,
trong
trái tim, trong lời nói cũng như hành động,
vì
mỗi người mang hình ảnh của chính Thiên Chúa.
Cầu
nguyện:
Giữa một thế giới đề cao quyền lực và lợi nhuận,
xin
dạy con biết phục vụ âm thầm.
Giữa
một thế giới say mê thống trị và chiếm đoạt,
xin
dạy con biết yêu thương tự hiến.
Giữa
một thế giới đầy phe phái chia rẽ,
xin
dạy con biết cộng tác và đồng trách nhiệm.
Giữa
một thế giới đầy hàng rào kỳ thị,
xin
dạy con biết coi mọi người như anh em.
Lạy
Chúa Ba Ngôi,
Ngài
là mẫu mực của tình yêu tinh ròng,
xin
cho các Kitô hữu chúng con
trở
thành tình yêu
cho
trái tim khô cằn của thế giới.
Xin
dạy chúng con biết yêu như Ngài,
biết
sống nhờ và sống cho tha nhân,
biết
quảng đại cho đi
và
khiêm nhường nhận lãnh.
Lạy
Ba Ngôi chí thánh,
xin
cho chúng con tin vào sự hiện diện của Chúa
ở
sâu thẳm lòng chúng con,
và
trong lòng từng con người bé nhỏ.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
9
THÁNG SÁU
Trật
Tự Của Tạo Vật Trong Ý Định Của Thiên Chúa
Trong
trật tự của tạo vật, con người tham dự vào toàn bộ các mối tương quan: tương
quan với thế giới, tương quan giữa nam và nữ, tương quan với đồng loại. Ơn gọi
“thống trị mặt đất” cho chúng ta thấy đặc tính quan hệ của sự sống con người.
Con người cai quản mọi loài; con người xây dựng và phát triển một gia đình cùng
với người bạn đời của mình; con người hợp tác với đồng loại để hình thành một
xã hội phục vụ thiện ích chung. Những mối quan hệ này thật xứng hợp với nhân vị
xét như hình ảnh của Thiên Chúa. Ngay tự đầu tiên, những mối quan hệ ấy đã thiết
định vai trò của con người ở giữa vạn vật.
Chính
vì định mệnh ấy mà con người đã được kêu gọi vào hiện hữu trong tư cách là một
chủ thể (một cái ‘tôi’ cụ thể), được ban cho trí tuệ, lương tâm và tự do. Khả
năng suy nghĩ làm cho con người khác biệt một cách nền tảng so với toàn thể thế
giới động vật. Động vật chỉ có thể cảm nhận các thứ qua các giác quan của
chúng. Còn trí năng con người giúp con người biện biệt phân định giữa thật và
giả. Khả năng ấy mở ra cho con người các lãnh vực khoa học, tư duy, triết lý,
thần học. Chính nhờ bản tính của mình mà con người nắm bắt được chân lý nơi mọi
sự. Con người ở trong một tương quan với chân lý – và mối tương quan này thiết
định vai trò của con người xét như một sinh vật có định mệnh thuộc linh. Khả
năng hiểu biết chân lý bộc lộ nơi mọi mối tương quan giữa con người với thế giới
và với người khác. Nó thiết lập một nền tảng khẩn thiết cho mọi sắc dạng văn
hóa.
-
suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm.
Lê Công Đức dịch
từ nguyên tác
LIFT
UP YOUR HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày
09 – 6
Thánh
Ephrem, phó tế, tiến sĩ Hội Thánh
1V
18,41-46; Mt 5,20-26.
Lời
suy niệm: “Nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ,
mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ tại
đó trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của
mình.”.
Những
lời dạy của Chúa Giêsu, không như những lời hay ý đẹp của người đời. Nhưng những
lời của Chúa dạy, đều có ơn ban kèm theo của Chúa, để tăng thêm khôn ngoan, hiểu
biết, cam đảm và sức mạnh đức tin để chúng ta có thể thực thi Lời Chúa.
Lạy
Chúa Giêsu, mỗi người trong chúng con rất kém về lòng yêu thương tha thứ đối với
nhau, nhưng lại không biết cám ơn những gì đã nhận lãnh. Xin thương ban cho mỗi
người chúng con luôn giữ hòa khí vui tươi và an bình yêu thương với hết mọi
người đang sống chung quanh chúng con.
Mạnh
Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày
09-06: Thánh EPHREM
Phó
Tế, Tiến Sĩ Hội Thánh (306 - 373)
Thánh
nhân sinh tại Nisibis, miền Mesopotamia vào khoảng đầu thế kỷ thứ IV. Có truyện
kể rằng: hồi nhỏ, một lần Ngài lấy đá chọi con bò mẹ gần chết. Khi chủ nhân hỏi
thăm có thấy con bò ở đâu Ngài đã trả lời xấc xược để chữa lỗi. Ephrem đã khóc
suốt đời về sự độc ác và hèn nhát này.
Sau
này có lần vào đêm khuya bị lạc vào giữa đồng, một đứa chăn chiên cho Ngài trú
ngụ trong lều của nó. Nhưng đứa chăn chiên này đã xấu bụng lại đang say rượu.
Đêm ấy chó sói vào tàn sát đàn chiên. Để chữa mình, thằng chăn chiên đổ lỗi cho
Ephrem. Trong tù Ngài nghe nhiều người than thở vì bị hàm oan. Một buồi chiều,
trong giấc mơ, Ngài thấy thiên thần cho biết lần này Ngài vô tội nhưng phải khổ
để đền bù vào những lỗi lầm khác. Thức dậy, Ephrem nhớ lại con bò và thú nhận với
mọi người.
Thân
phụ Ephrem là một thày cả thờ thần Abnil. Hình như Ngài bị đuổi khỏi nnhà vì có
thiện cảm với các Kitô hữu. Thánh Giacôbê, giám mục Nisibis tiếp nhận dạy dỗ và
rửa tội cho Ngài hồi 10 tuổi. Để sống, Ngài làm việc ở những hồ tắm công cộng.
Nhưng sau đó Ngài lại vào sa mạc sống với sự hướng dẫn của thánh Abbê ẩn tu; dệt
vải để sống như thói quen của các ẩn sĩ Ai cập và Mêsôpôtamia thời đó.
Ephrem
thường khóc tội mình và tội người khác. Các tập "tự thú" Ngài viết
cho thấy Ngài rất mực khiêm tốn, Ngài rất ghét tính kiêu căng: - Tính kiêu căng
phá đổ ơn Chúa và thiêu hủy mọi nhân đức.
Thánh
Ephrem luôn ao ước sống đời ẩn dật. Nhưng một cuộc chiến đã bùng ra giữa người
Rôma và người Batư. Người Batư bách hại các Kitô hữu cách tàn bạo. Nghe tin
này, Ephrem về Nisibis để giúp đỡ và khích lệ họ. Danh thơm nhân đức của Ngài
lan rộng đến nỗi người ta cho việc giải phóng khỏi ách thống trị của Sapor II
là bởi lỗi cầu nguyện của thánh nhân.
Được
thụ phong phó tế, nhưng rồi thánh nhân đã từ chối chức linh mục vì khiêm tốn.
Được Đức giám mục Nisibis trao cho trách nhiệm rao giảng lời Chúa, Ngài dùng hết
tài lợi khẩu để khêu gợi nhiệt tình nơi các linh hồn: - "Thần dữ nói: Ta
đi tìm những người khô khan là bạn hữu của ta, và ta không cần phải tìm đến mưu
kế, ta chỉ cần giữ chúng trong xiềng xích mà chúng ưa thích là đủ".
Thánh
Ephrem đã gặp thánh Basiliô thánh Cappadocia. Truyền thuyết cho rằng: hai vị hiểu
nhau dầu ngôn ngữ bất đồng.
Chiến
tranh tái phát, Nisibis rơi vào tay người Batư, thánh Ephrem trốn đến Sdessa.
Nơi đây, Ngài tận tâm phục vụ bệnh nhân và người nghèo, hoạt động trí thức bằng
việc viết sách và giải thích thơ phú. Thánh Ephrem đã viết các bài giảng bằng
thơ, các thánh thi ca ngôi vinh quang Chúa Kitô và Đức Trinh Nữ Maria.
Người
luôn được gọi là "cây đàn của Thánh Linh" là một trong những người
rao truyền việc VÔ NHIỄM THAI. - Lạy Chúa, chỉ có Chúa và Mẹ Chúa là tuyệt mỹ.
Nơi mẹ Chúa không vương một tì tích nào.
Một
năm trước khi thánh nhân qua đời, Edessa bi một cơn đói. Ngài kêu gọi lòng quảng
đại của mọi người và người ta đã rộng tay đóng góp vào công cuộc phát chẩn của
thánh. Cơn đói chấm dứt, thánh nhân trở lại chòi của mình. Lên cơn sốt, Ngài
nghĩ tới lúc chết: - Đừng liệm xác tôi bằng đồ quí giá, cũng đừng dựng đài tưởng
niệm. Hãy đối xử với tôi như một người lữ khách vì thực sự tôi là một lữ khách
xa lạ trên mặt đất này thôi.
Ngài
qua đời có lẽ vào tháng 6 năm 373. Thánh Gregoriô miền Nyssa viết về thánh
Ephrem: - Vinh quang đời sống và giáo thuyết của thánh nhân chiếu giãi khắp
hoàn cầu.
Năm
1820, Đức Benedictô XI tôn phong Ngài làm tiến sĩ Hội Thánh.
(daminhvn.net)
09
Tháng Sáu
Muôn Vàn Phép Lạ
Một
vị ẩn sĩ nọ, sau 60 năm sống khắc khổ giữa sa mạc, bỗng cảm thấy chán nản khi
nghĩ rằng mình chưa hề làm được phép lạ nào như các vị tiền bối.
Ông
quyết định rời bỏ sa mạc để trở về đô thị sống một cuộc sống tiện nghi, bình
thường như mọi người.
Nhưng
đôi mắt Chúa lúc nào cũng dõi theo từng suy nghĩ, từng đường đi nước bước của
ông. Biết ông đang toan tính bỏ cuộc để trở lại đô thị, Thiên Chúa bèn sai một
thiên thần đến với ông. Vị sứ thần đã nói với ông như sau: "Ngài đang toan
tính điều gì thế? Ngươi hãy thử nghĩ có phép lạ nào kỳ diệu nào hơn chính cuộc
sống của ngươi không? Ai đã ban cho ngươi sức mạnh để có thể cầm cự được trong
nơi hoang vu này trong mấy chục năm qua? Ai đã chúc lành cho cây cỏ ngươi đã
dùng trong thời gian qua mà không hề gây nguy hại cho ngươi? Ngươi lại đây và
xin Chúa ban cho ngươi thêm lòng kiên nhượng...".
Ðược
lời của vị sứ thần nâng đỡ, nhà ẩn sĩ ở lại trong sa mạc và tiếp tục cuộc sống
tu trì của ông với niềm tin vững rằng mỗi một phút giây qua đi trong cuộc sống
là một phép lạ mà Thiên Chúa đang thực hiện cho ông.
"Ðây
là lúc thuận tiện, đây là ngày cứu độ". Giáo Hội mượn lời Kinh Thánh này để
mời gọi chúng ta sống một cách sung mãn giây phút hiện tại. Mỗi một giây phút
hiện tại là một hồng ân cứu độ. Thiên Chúa vẫn tiếp tục biến mỗi phút giây của
cuộc sống chúng ta thành một phép lạ.
Không là phép lạ sao tim của chúng ta vẫn tiếp tục đập, mũi chúng ta vẫn tiếp tục hít thở! Còn gì kỳ diệu bằng chính sự sống mà Thiên Chúa vẫn tiếp tục trao ban cho chúng ta. Còn gì kỳ diệu bằng niềm tin Ngài đã trao ban để chúng ta tiếp tục tiến bước trong cuộc lữ hành này.
Không là phép lạ sao tim của chúng ta vẫn tiếp tục đập, mũi chúng ta vẫn tiếp tục hít thở! Còn gì kỳ diệu bằng chính sự sống mà Thiên Chúa vẫn tiếp tục trao ban cho chúng ta. Còn gì kỳ diệu bằng niềm tin Ngài đã trao ban để chúng ta tiếp tục tiến bước trong cuộc lữ hành này.
Chúng
ta vẫn thường nói: ngạc nhiên là khởi đầu của khám phá! Nếu tất cả những khám
phá của khoa học đều bắt nguồn từ những câu hỏi mà con người tự đặt ra khi nhìn
ngắm vũ trụ, thì sự ngây ngất trước những kỳ công của sáng tạo, trước cuộc sống,
trước tình người cũng phải là động lực giúp người tín hữu Kitô chúng ta thấy được,
cảm mến được sự hiện diện và tác động kỳ diệu của Thiên Chúa.
Cái
nhìn ấy sẽ giúp chúng ta thấy được giá trị của những công việc âm thầm từng
ngày của chúng ta. Cái nhìn ấy sẽ mang lại cho chúng ta sức mạnh để tiếp tục phấn
đấu khi phải đương đầu với bệnh tật, với thử thách, với mất mát trong cuộc sống.
Một Thiên Chúa luôn làm những kỳ diệu cũng chính là Ðấng có mặt trong từng phút
giây của cuộc sống chúng ta để đem lại cho chúng ta những điều thiện hảo đôi
khi vượt quá khỏi cái nhìn nông cạn, sự thẩm định giới hạn của chúng ta.
(Lẽ
Sống)







Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét