12/06/2016
Chúa Nhật tuần 11 thường niên năm C
(phân I)
Bài Ðọc I: 2 Sm 12, 7-10. 13
"Chúa cũng đã tha tội cho
vua rồi và vua sẽ không phải chết".
Trích sách Samuel quyển thứ hai.
Trong những ngày ấy, Nathan thưa
cùng Ðavít rằng: "Ngài chính là người đó". Chúa là Thiên Chúa Israel
phán rằng: "Ta đã xức dầu phong cho ngươi làm vua Israel và đã cứu ngươi
khỏi tay Saolê. Ta đã ban cho ngươi nhà của chủ ngươi, trao cả cung phi của chủ
ngươi vào lòng ngươi. Và tặng cho ngươi nhà Israel và Giuđa. Nếu bấy nhiêu đó
còn ít, Ta cho ngươi thêm nhiều nữa. Vậy tại sao ngươi khinh thường lời Chúa mà
làm điều gian ác trước mặt Ta? Ngươi đã dùng gươm giết Uria người Hêthê và bắt
vợ y làm vợ mình, ngươi còn dùng gươm con cái Ammon mà giết y nữa. Do đó, lưỡi
gươm sẽ không rời khỏi dòng dõi ngươi cho đến muôn đời, vì ngươi đã khinh dể
Ta, và cướp vợ của Uria người Hêthê làm vợ mình". Ðavít liền nói với
Nathan rằng: "Trẫm đã phạm tội cùng Chúa". Nathan thưa lại Ðavít rằng:
"Chúa cũng đã tha tội cho vua rồi, và vua sẽ không phải chết".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 31, 1-2. 5. 7. 11
Ðáp: Lạy Chúa, Chúa đã tha thứ tội lỗi cho con (c. 5c).
Xướng: 1) Phúc thay người được
tha thứ lỗi lầm, và tội phạm của người được ơn che đậy! Phúc thay người mà Chúa
không trách cứ lỗi lầm, và trong lòng người đó chẳng có mưu gian. - Ðáp.
2) Tôi xưng ra cùng Chúa tội phạm
của tôi, và lỗi lầm của tôi, tôi đã không che giấu. Tôi nói: Tôi thú thực cùng
Chúa điều gian ác của tôi, và Chúa đã tha thứ tội lỗi cho tôi. - Ðáp.
3) Chúa là chỗ dung thân, Chúa
giữ tôi khỏi điều nguy khổ, Chúa đùm bọc tôi trong niềm vui ơn cứu độ. - Ðáp.
4) Chư vị hiền nhân, hãy vui mừng
hân hoan trong Chúa, và mọi người lòng ngay hãy hớn hở reo mừng! - Ðáp.
Bài Ðọc II: Gl 2, 16. 19-21
"Không phải tôi sống, mà là
chính Ðức Kitô sống trong tôi".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi
tín hữu Galata.
Anh em thân mến, anh em biết rằng
con người được công chính hoá không phải do các việc làm của lề luật dạy, nhưng
chỉ là nhờ lòng tin vào Ðức Giêsu Kitô. Nên chúng ta đã tin vào Ðức Giêsu Kitô
để được công chính hoá do lòng tin vào Ðức Kitô, chớ không phải do các việc làm
của lề luật dạy. Do đó, không một ai được công chính hoá do các việc làm của lề
luật dạy. Quả vậy, phần tôi, chính do lề luật mà tôi đã chết cho lề luật, để được
sống cho Thiên Chúa. Tôi đã chịu đóng đinh vào thập giá làm một với Ðức Kitô.
Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là chính Ðức Kitô sống trong tôi. Hiện
giờ tôi sống trong thân xác, là tôi sống trong lòng tin vào Con Thiên Chúa, Ðấng
đã yêu mến tôi và đã phó mình vì tôi. Tôi không loại bỏ ơn Thiên Chúa. Nhưng nếu
có sự công chính nào bởi lề luật, thì quả thực Ðức Kitô đã chết cách luống
công.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Lc 19, 38
Alleluia, alleluia! - Chúc tụng
Ðức Vua, Ðấng nhân danh Chúa mà đến, bình an trên trời, và vinh quang trên các
tầng trời. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 7, 36-50 {hoặc Lc 7, 36 - 8, 3}
"Tội bà rất nhiều mà đã được
tha rồi, vì bà đã yêu mến nhiều".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Luca.
Khi ấy, có một người biệt phái
kia mời Chúa Giêsu đến dùng bữa với mình; Người vào nhà người biệt phái và vào
bàn ăn. Chợt có một người đàn bà tội lỗi trong thành, nghe biết Người đang dùng
bữa trong nhà người biệt phái, liền mang đến một bình bạch ngọc đựng thuốc
thơm. Bấy giờ bà đứng phía chân Người khóc nức nở, nước mắt ướt đẫm chân Người,
bà lấy tóc lau, rồi hôn chân và xức thuốc thơm. Thấy thế, người biệt phái đã mời
Người nghĩ thầm rằng: "Nếu ông này là tiên tri thì phải biết người đàn bà
đang động đến mình là ai và thuộc hạng người nào: là một người tội lỗi".
Nhưng Chúa Giêsu lên tiếng bảo ông rằng: "Hỡi Simon, Tôi có điều muốn nói
với ông". Simon thưa: "Xin Thầy cứ nói".
- "Một người chủ nợ có hai
con nợ, một người nợ năm trăm đồng, người kia nợ năm mươi. Vì cả hai không có
gì trả, nên chủ nợ tha cho cả hai. Vậy trong hai người đó, người nào sẽ yêu chủ
nợ nhiều hơn?" Simon đáp: "Tôi nghĩ là kẻ đã được tha nhiều
hơn". Chúa Giêsu bảo ông: "Ông đã xét đoán đúng". Và quay lại
phía người đàn bà, Người bảo Simon: "Ông thấy người đàn bà này chứ? Tôi đã
vào nhà ông, ông đã không đổ nước rửa chân Tôi; còn bà này đã lấy nước mắt rửa
chân Tôi, rồi lấy tóc mình mà lau. Ông đã không hôn chào Tôi, còn bà này từ lúc
vào không ngớt hôn chân Tôi. Ông đã không xức dầu trên đầu Tôi, còn bà này đã lấy
thuốc thơm xức chân Tôi. Vì vậy, Tôi bảo ông, tội bà rất nhiều mà đã được tha rồi,
vì bà đã yêu mến nhiều. Kẻ được tha ít, thì yêu mến ít".
Rồi Người bảo người đàn bà:
"Tội con đã được tha rồi". Những người đồng bàn liền nghĩ trong lòng
rằng: "Ông này là ai mà lại tha tội được?" Và Người nói với người đàn
bà: "Ðức tin con đã cứu con, con hãy về bình an".
{Sau đó Người rảo qua các thành thị và xóm làng, giảng dạy và
loan báo Nước Thiên Chúa. Có nhóm Mười Hai cùng đi với Người, cũng có cả mấy
người phụ nữ đã được chữa khỏi tà thần và bệnh tật: Maria gọi là Mađalêna, đã
được chữa khỏi bảy quỷ ám, Gioanna vợ của Cusa viên quản lý của Hêrôđê, Susanna
và nhiều bà khác: họ đã lấy của cải mình mà giúp Người.}
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Muốn được ơn tha thứ phải có nhiều lòng tin và lòng mến
Thiên Chúa đã bỏ qua lỗi lầm cho
Ðavít; Chúa Giêsu đã tha tội cho một người phụ nữ. Những bài Kinh Thánh như vậy
đáng được những ai biết mình có tội, đọc lại và ngẫm nghĩ. Những người chưa thấy
ngay tội lỗi của mình cũng hãy đọc lại để không bỏ mất ơn Chúa. Và nếu họ tiếp
tục tưởng mình xa lạ với những câu chuyện trên, bài thư Phaolô sẽ đến để giúp họ
suy nghĩ đúng về đời sống đạo đức.
Do đó cả ba bài Kinh Thánh ngày
hôm nay đều gần chúng ta và muốn xây dựng chúng ta lớn lên trong ơn cứu độ của
Thiên Chúa. Chúng ta hãy đọc lại với lòng yêu mến, biết ơn.
1. Ðavít Ðược Chiếu Cố
Bài sách Samuen nhắc lại chuyện
Ðavít. Ông là vị hoàng đế được con cái Israen yêu chuộng. Họ còn tin vào Lời
Chúa hứa ban cho dòng dõi Ðavít một triều đại vững bền. Do đó nghĩ đến Ðavít,
con cái Israen chỉ có một lòng kính yêu. Dù vậy, các tác giả thánh cũng không bỏ
qua các lỗi lầm của Ðavít. Các người vẫn còn nhắc lại. Phải chăng để nói với
chúng ta rằng: Chẳng có ai vô tội trước mặt Chúa? Các tác giả thánh còn nói đến
các hình phạt Thiên Chúa giáng xuống trên Ðavít vì tội lỗi của ông. Há chẳng phải
để nói rằng: Chúa vẫn không dung tha lỗi phạm của cả những người được Người tuyển
chọn? Tuy nhiên khi kể lại các tội của Ðavít, các tác giả thánh dường như chú
trọng nhiều hơn đến lòng thống hối ăn năn của nhà vua được mến chuộng ấy, và để
nói lên lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa đối với Ðavít, cả khi ông lỗi phạm.
Ít ra đó là những điều chúng ta gặp thấy trong bài sách Samuen hôm nay.
Ðể dễ hiểu chúng ta vắn tắt nhắc
lại câu chuyện mà nhiều người đã biết. Vào buổi chiều nọ, Ðavít dậy khỏi giường
và đi tản bộ trên sân thượng. Ông thấy một phụ nữ đang tắm, dáng vẻ rất xinh đẹp.
Ông sai người đi hỏi tung tích, mời nàng ấy đến và rồi nàng có thai. Chẳng may
nàng đã có chồng, và ông đang ở ngoài mặt trận. Ðavít cho người đi, liệu cách
giết người chồng xấu số kia và Ðavít cưới người phụ nữ ấy.
Thiên Chúa sai tiên tri Natan đến
gặp Ðavít. Natan bắt đầu gợi cho Ðavít biết những tội ông vừa phạm thật là nặng
nề. Chúa đã xử với ông quá đại lượng. Người đã tuyển chọn, đặt ông làm vua, ban
cho ông đủ mọi sự; và nếu ông còn cho như thế là ít, thì Chúa sẽ ban thêm gấp mấy
ngần ấy nữa... Thế là ông đã khinh Lời Chúa; dám làm sự dữ trước mắt Người, đã
cướp vợ người khác lại còn dùng gươm đâm chết chồng người ta, và họ là dân ngoại...
Thế nên gươm sẽ không rời khỏi nhà ông bao giờ nữa.
Ðavít thấy lỗi của mình. Ông đã
phạm những tội tày đình. Ông thật là người nhà giàu đã đi bắt con chiên nhỏ của
người nhà nghèo đem về làm thịt đãi khách, đang khi ông có cả một đàn chiên lớn.
Ông làm cho Danh Thiên Chúa bị nhục trước mặt dân ngoại. Có lẽ ông đã suy nghĩ
không kỹ. Nhưng bây giờ được người của Thiên Chúa mở mắt cho, ông cúi đầu thú
nhận: "Tôi đã phạm tội nghịch với Giavê".
Không phải ai cũng biết mau nhận
lỗi như Ðavít. Càng không có nhà vua nào có thể khiêm nhường ngay như thế. Rõ
ràng Ðavít chưa bỏ mất hẳn tính đơn thật chất phác của thời được Chúa gọi. Lòng
thành nhận biết tội lỗi như thế quả thật đã kéo xuống được lòng chạnh thương cứu
độ của Chúa.
Natan bây giờ nói với Ðavít:
"Cả Giavê nữa, Người cũng bỏ qua lỗi lầm của ông". Nhưng sự việc này
đã để lại trong cuộc đời của Ðavít nhiều hậu quả. Gươm vẫn không rời khỏi nhà
Ðavít. Nhất là một tâm tình hối tiếc ăn năn không ngớt dâng lên trong lòng nhà
vua, khiến ông trở thành hình ảnh gương mẫu cho những kẻ sám hối và nhiều thánh
thi thú nhận tội lỗi đã được truyền tụng như là của ông.
Tuy nhiên vẫn có thể nói Ðavít vẫn
chưa được phúc như người tội lỗi trong bài Tin Mừng hôm nay. Ông đã gặp Natan
chứ không phải Chúa Giêsu. Và điều này khiến chúng ta thấy lòng thống hối trong
Cựu Ước chưa gặp được niềm hân hoan cứu độ thực sự. Nhưng chúng ta hãy bắt đầu
đọc lại bài Tin Mừng đã.
2. Người Tội Lỗi Ðược Tha Thứ
Nhiều người coi đoạn văn này như
một kiệt tác của nhà văn Luca. Nhưng phân tách một chút người ta thấy có một
vài nét hơi bất thường. Câu chuyện hai người mắc nợ lồng trong câu chuyện người
phụ nữ được tha thứ, có cần hẳn không? Nó làm cho bài tường thuật dài ra. Cắt bỏ
đi, nó chẳng làm thiệt hại gì. Ðàng khác trong câu chuyện hai người mắc nợ,
Chúa bảo: Ai được tha nhiều thì mến nhiều. Còn câu chuyện người phụ nữ tội lỗi
Chúa lại khẳng định: bà ta được tha nhiều vì mến nhiều. Như vậy, hai lời tuyên
bố không ăn với nhau, khiến hai câu chuyện không cần và theo lẽ không nên đi với
nhau.
Rồi trong các sách Tin Mừng
khác, cũng có chuyện một người phụ nữ xức dầu cho Chúa Giêsu ở Bêtania. Câu
chuyện của Luca kể hôm nay có phải là câu chuyện của các tác giả kia không? Những
thắc mắc này, cuối cùng, như chúng ta sẽ thấy, chỉ làm tăng giá trị cho bài tường
thuật của Luca thôi. Và đó là điều nên để ý.
Thật ra câu chuyện hai người mắc
nợ lồng giữa câu chuyện người phụ nữ tội lỗi không cần thiết. Nhưng nếu cắt bỏ
đi thì thật là tiếc. Nó không làm tăng giá trị cho câu chuyện chính, nhưng có một
tác động tâm lý rất quan trọng để người ta được điều kiện đón nhận bài học đạo
đức sâu xa. Chúng ta cứ xem. Khi Ðức Giêsu vào nhà người Biệt phái để dùng bữa,
người ta để ý quan sát Người biết mấy. Nhất là khi đột xuất có một người phụ nữ
bước vào đi đến gần Người. Ai cũng sửng sốt vì biết rõ bà ta nổi tiếng tội lỗi ở
trong thành. Kìa, bà ta đến đứng đàng sau Ðức Giêsu, khóc lóc nức nở. Thấy nước
mắt mình chảy xuống làm ướt đẫm chân Người, bà vội cúi xuống, lấy ngay tóc xõa
trên đầu cố lau cho sạch, rồi tha thiết hôn chân Người và lấy dầu thơm đổ xuống.
Bằng ấy cử chỉ của bà ta chẳng làm cho người ta ngạc nhiên. Lạ thật! Họ vẫn suy
nghĩ một cách cũ kỹ: Nếu Người là tiên tri ắt biết đứa động đến mình kia là ai.
Nó là đứa tội lỗi mà... Ði thẳng vào vấn đề và lý luận cho họ hiểu ư, Ðức Giêsu
thấy không được. Người phải nhẹ nhàng lôi cuốn họ đến chân lý. Người dùng khoa
sư phạm của các bậc thầy thời bấy giờ. Người nói với chủ nhà: Simon, tôi có điều
muốn nói với ông... Rồi Người kể một dụ ngôn, tức là câu chuyện về hai người mắc
nợ. Người lôi cuốn suy nghĩ và tâm lý của người ta đến một chân lý dễ hiểu để từ
đó so sánh với thực tại họ đang sống. Và vì là so sánh nên hai việc không nhất
thiết phải hoàn toàn giống nhau. Những câu chuyện trong dụ ngôn chỉ là bàn đạp
cần thiết cho người ta nhảy lên những thực tại tự nhiên khó nhận ra.
Và quả thật, sau khi nghe câu
chuyện hai người mắc nợ, người ta đã được chuẩn bị tâm lý và tâm hồn để hiểu sự
việc đang xảy ra trước mắt. Người ta thấy gì? Một người đàn bà tội lỗi ư?
Không, bà ta đến đây không còn là người tội lỗi nữa. Bà đã chà đạp dư luận và
những cái nhìn phán xét để đến đứng đàng sau Ðức Giêsu. Bà khóc lóc nức nở, biểu
lộ tâm hồn ăn năn hối lỗi; bà lấy tóc mình mà lau chân Chúa; bà còn hôn chân
Người một cách tha thiết. Bà đổ cả dầu thơm nữa. Bà có lòng mến nhiều. Không ai
chối cãi được. Và đây là lòng mến sám hối tìm lại được con đường thánh thiện.
Nó đã xuất từ một niềm tin, tin Ðức Giêsu là Ðấng Thánh, có thể làm cho mình khỏi
tội. Không có niềm tin này, bà đã không làm như vậy. Niềm tin ấy còn gia tăng,
từ khi bà có ý tưởng đến gặp Chúa Giêsu. Thoạt đầu bà đã dám đến đứng đàng sau
Người; rồi bà khóc; rồi không thấy bị đuổi và thấy nước mắt mình làm ướt chân
Người, bà đã vội vụng về lau bằng chính tóc của mình. Rồi bạo dạn thêm, bà hôn
chân Chúa và đổ dầu. Bao nhiêu cử chỉ là bằng ấy chứng cớ về mức độ gia tăng của
lòng tin và lòng mến. Bà không còn là người tội lỗi nữa. Bà đã đủ điều kiện để
được nghe lời an ủi: "Tội của ngươi đã được tha... Hãy đi bằng yên".
Chắc chắn bà đã được sung sướng hơn Ðavít, bà được tiếp xúc thẳng với Thiên
Chúa. Người hiền từ và thông cảm làm sao! Người bênh vực kẻ tội lỗi. Người ban
ơn tha tội. Người để họ ra về bình yên vì Người đã đổi mới họ.
Tất cả chúng ta đã được hưởng
kinh nghiệm êm ái của người phụ nữ trong bài Tin Mừng hôm nay. Khi viết câu:
"Tội của ngươi đã được tha. Hãy đi bằng yên", tác giả Luca không ám
chỉ đến ơn tha tội và công thức tha tội trong Hội Thánh của chúng ta sao? Và nếu
như vậy, hẳn người cũng đã muốn nói với chúng ta rằng: muốn được ơn tha thứ, phải
có nhiều lòng tin và lòng mến.
Rồi khi kết thúc bài Tin Mừng
hôm nay, Luca viết có nhiều phụ nữ được chữa lành khỏi quỉ dữ đã đi theo Chúa
và phục vụ Người. Tác giả há không muốn ngụ ý rằng: sau khi được tha tội, chúng
ta ra đi bằng yên bằng cách đi theo và phục vụ Chúa sao? Nhưng phục vụ thế nào?
3. Phaolô Phục Vụ Chúa
Thánh Tông đồ nêu gương cho
chúng ta. Người đang tranh luận với những kẻ muốn duy trì tinh thần và tập tục
Do Thái giáo ở ngay trong Hội Thánh. Họ muốn người dân Galát phải cắt bì và giữ
luật Môsê, cho rằng chỉ những việc này mới ban ơn tha tội khiến con người được
trở nên công chính. Như vậy, Ðức Giêsu Kitô và sự nghiệp của Người sẽ bằng thừa.
Người ta cứ theo luật mà làm thì tội lỗi sẽ được tha và người ta được nên công
chính. Ðức Giêsu Kitô không còn chỗ đứng nào nữa trong một quan niệm như vậy.
Và điều này phủ nhận hẳn kinh nghiệm sâu xa của Phaolô và làm cho cuộc rao giảng
Tin Mừng trở nên vô ích.
Phaolô là người như ngày nay
không phải vì các việc làm theo lề luật. Ngược lại những việc này đã biến
Phaolô nên người hăng say đi tìm bắt những kẻ theo đạo. Chính nhờ sự tỏ hiện của
Chúa Giêsu Kitô và nhờ lòng tin của Người mà Phaolô được ơn tha thứ và trở nên
công chính. Từ đó nhìn lại Luật pháp Môsê, người ta đã thấy chính Tổ phụ của
dân đang giữ luật này cũng đã được công nhận là công chính, không phải do các
việc ông làm, nhưng tự lòng ông đã tin Lời Chúa. Rồi hiện nay dân Do Thái đang
làm không biết bao nhiêu việc theo lề luật, mà tội lỗi họ vẫn còn y nguyên đó.
Qua miệng các tiên tri, Thiên
Chúa còn nói rõ: nhờ đau khổ, người Tôi Tớ của Người sẽ công chính hóa các tội
nhân. Ðức Giêsu Kitô trong mầu nhiệm thánh giá không phải là người Tôi Tớ này
hay sao? Do đó Phaolô viết: Ðời sống của tôi lúc này trong thân xác, tôi sống
nó trong lòng tin vào Con Thiên Chúa, Ðấng đã yêu mến tôi và phó nộp mình vì
tôi. Chính Chúa Giêsu Kitô khi bị lề luật đóng đinh vào thập giá, đã đóng đinh
lề luật vào sự chết của Người, để khi sống lại Người ban cho những ai tin vào
Người ơn tha thứ tội lỗi và sự sống mới, không phải sự sống theo lề luật nữa,
nhưng là sự sống làm con Thiên Chúa nhờ lòng tin và lòng mến.
Chúng ta đã sung sướng đồng ý với
thánh Phaolô rồi khi Người nói: Chính nhờ lòng tin vào Chúa Giêsu Kitô chịu
đóng đinh và sống lại mà chúng ta đã được tha thứ tội lỗi. Chúng ta còn phải
thi hành cũng chính lời Người đã nói theo cùng một ý đó rằng: nay tôi sống,
nhưng không phải tôi, mà là chính Ðức Kitô sống trong tôi. Tức là chúng ta phải
phát huy sự sống của Ðức Giêsu Kitô Cứu Thế trong thân xác và cuộc đời của
chúng ta. Không những chúng ta phải từ bỏ nếp sống tội lỗi trước đây, mà còn phải
bày tỏ đời sống làm con Thiên Chúa và làm anh em đồng bào với mọi người.
Chính Chúa Giêsu, trong mầu nhiệm
cử hành nơi bàn thờ bây giờ muốn làm công việc ấy nơi chúng ta. Người ban ơn
tha tội, cho chúng ta nhận lấy Người để chúng ta được làm con Thiên Chúa hơn và
làm anh em với mọi người hơn. Ðời sống của chúng ta phải là đời sống phục vụ,
như chính Chúa Giêsu đã đi trên đường phục vụ khi ở trần gian. Chúng ta không
phải chỉ như người phụ nữ trong bài Tin Mừng: được tha thứ rồi bà sung sướng đi
theo phục vụ Chúa. Chúng ta còn được thay mặt Chúa để làm công việc cứu thế. Và
như vậy hạnh phúc của chúng ta trổi vượt hơn Ðavít ngày xưa biết mấy. Xin cho
chúng ta biết đón nhận và sống ơn Chúa hôm nay ban như vậy.
(Trích dẫn từ tập sách Giải
Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô
Nguyễn Sơn Lâm)
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Chủ Nhật 11 Thường Niên, Năm C
Bài đọc: 2 Sam 12:7-10, 13; Gal 2:16-19, 21; Lk 7:36-50.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Nhu cầu cần xét mình để nhận ra
tội và đừng kết án tha nhân.
Trong cuộc đời, con người thường nghĩ các quyết định của mình là
đúng, cho tới giây phút nào đó, Thiên Chúa gởi người đến soi sáng và vạch ra những
sai lầm của mình. Trong những giây phút được soi sáng như thế, con người phải
khiêm nhường nhìn nhận khuyết điểm thì mới nhận được sự tha thứ của Thiên Chúa.
Nếu không, giây phút hồng ân đó qua đi và con người sẽ ôm hận suốt đời.
Các bài đọc hôm nay muốn nêu bật
những trường hợp được Thiên Chúa soi sáng. Trong bài đọc I, tiên tri Nathan sửa
lỗi vua David rất khéo, bằng cách kể cho nhà vua nghe một câu truyện bất công.
Thoạt nghe, vua David nổi xung buộc tội anh nhà giàu giết chiên hàng xóm; nhưng
Nathan tuyên án vua David: anh nhà giàu đó chính là nhà vua! Lúc đó vua David mới
nhận ra lỗi mình mà kêu xin lòng thương xót của Thiên Chúa. Trong bài đọc II,
trước biến cố ngã ngựa trên đường đi Damascus, Phaolô vẫn nghĩ con người có thể
được cứu độ bằng việc giữ trọn vẹn Lề Luật; nhưng sau biến cố được soi sáng đó,
Phaolô phải khiêm nhường nhìn nhận: không ai có thể giữ trọn vẹn Lề Luật. Vì thế,
mọi người phải tin vào Đức Kitô mới được hưởng ơn cứu độ. Trong Phúc Âm, Chúa
Giêsu cũng kể một câu truyện và đòi người kinh sư phải trả lời; sau đó Chúa mới
vạch trần sự khinh thường đón khách và sự kết án người khác của anh.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC
1/ Bài đọc I: Tiên tri Nathan giúp cho vua David xét mình.
Để hiểu rõ trình thuật hôm nay,
độc giả cần đọc lại những chương trước; nhất là câu truyện tiên tri Nathan kể về
hai người hàng xóm trước đoạn này (2 Sam 12:1-6).
1.1/ Nhận ra những hồng ân Thiên
Chúa đã làm cho nhà vua:
Sau khi Nathan kể chuyện, vua
David bừng bừng nổi giận kết tội anh nhà giàu và ra hình phạt cho anh. Nhưng
Nathan nói với vua David: "Kẻ đó chính là ngài! Đức Chúa, Thiên Chúa của
Israel, phán thế này: Chính Ta đã xức dầu phong ngươi làm vua cai trị Israel,
chính Ta đã giải thoát ngươi khỏi tay vua Saul. Ta đã ban cho ngươi nhà của chúa
thượng ngươi, và đã đặt các người vợ của chúa thượng ngươi vào vòng tay ngươi.
Ta đã cho ngươi nhà Israel và Judah. Nếu bấy nhiêu mà còn quá ít, thì Ta sẽ ban
thêm cho ngươi gấp mấy lần như thế nữa.”
1.2/ Nhận ra tội lỗi nhà vua đã xúc
phạm đến Thiên Chúa:
Vua David biết Nathan ám chỉ
mình chính là người giàu có trong chuyện, và những gì xảy ra trong quá khứ
David tưởng không ai biết giờ được Nathan thuật lại từng chi tiết.
(1) Tội giết người không vũ khí
của David: Nathan tiếp tục: “Vậy tại sao ngươi lại khinh dể lời Đức Chúa mà làm
điều dữ trái mắt Người? Ngươi đã dùng gươm đâm Uriah, người Hittite; vợ y,
ngươi đã cướp làm vợ ngươi; còn chính y, ngươi đã dùng gươm của con cái
Ammonites mà giết. Ấy vậy, gươm sẽ không bao giờ ngừng chém người nhà của ngươi,
bởi vì ngươi đã khinh dể Ta và cướp vợ của Uriah, người Hittite, làm vợ ngươi.”
David không trực tiếp dùng gươm đâm, nhưng âm mưu gởi Uriah ra chỗ mặt trận gay
cấn nhất mà không cho quân cứu viện để Uriah phải tử trận vào tay quân thù. Mục
đích là để David lấy được bà Batsheba, vợ của Uriah.
(2) Vua David ăn năn thống hối:
Bấy giờ vua David nói với ông Nathan: "Tôi đắc tội với Đức Chúa." Ông
Nathan nói với vua David: "Về phía Đức Chúa, Người đã bỏ qua tội của ngài;
ngài sẽ không phải chết.” Kể từ đó, bao nhiêu điều khốn khổ đã xảy ra trong nhà
David; nhưng nhà vua không dám than phiền Thiên Chúa vì đã biết tội mình.
2/ Bài đọc II: Không phàm nhân nào sẽ được nên công chính vì làm những gì Luật dạy.
2.1/ Xét mình theo tương quan với Lề
Luật:
Trình thuật của Thư Galat hôm
nay là trọng tâm đạo lý của Thư. Để hiểu tại sao Phaolô có thể kết luận: “con
người được nên công chính không phải nhờ làm những gì Luật dạy, nhưng nhờ tin
vào Đức Giêsu Kitô, nên chúng ta cũng tin vào Đức Giêsu Kitô, để được nên công
chính, nhờ tin vào Đức Kitô, chứ không phải nhờ làm những gì Luật dạy. Quả thế,
không phàm nhân nào sẽ được nên công chính vì làm những gì Luật dạy.” Chúng ta
phải trở lại biến cố đã xảy ra cho Phaolô trên đường đi Damascus. Lúc đó,
Phaolô còn là một “kinh sư thủ cựu” đang trên đường đi bắt bớ các tín hữu theo
Đức Kitô tại Damascus; vì Phaolô nghĩ họ là những người chống lại Lề Luật tốt
lành của cha ông để lại. Nhưng một luồng ánh sáng từ trời chiếu xuống làm ông
ngã ngựa và bị mù. Sau đó, Đức Kitô Phục Sinh thân hành hiện đến với Phaolô và
chứng minh cho ông Ngài vẫn sống.
Sau đó, Ngài mở mắt cả phần xác
lẫn phần hồn cho Phaolô để ông hiểu: Lề Luật tốt lành, nhưng không một ai có thể
giữ tất cả Lề Luật. Theo Lời Chúa phán với Moses, chỉ cần vi phạm một Luật thôi,
con người cũng phải mang án tử. Vì vậy, không ai trở nên công chính nhờ việc giữ
Luật, vì mọi người đều phạm tội. Hậu quả của tội là mọi người đều phải chết.
2.2/ Tại sao Đức Kitô phải đến?
Vì không ai có thể nên công
chính và được cứu độ, nên Đức Kitô phải đến và lãnh hình phạt thay cho con người.
Khi con người được xóa tội, con người được nên công chính với Thiên Chúa. Khi
đã nên công chính, con người không phải chết nữa.
Vì thế, Phaolô xác tín: “Quả thế,
tại vì Lề Luật mà tôi đã chết đối với Lề Luật, để sống cho Thiên Chúa. Tôi cùng
chịu đóng đinh với Đức Kitô vào thập giá. Tôi không làm cho ân huệ của Thiên
Chúa ra vô hiệu, vì nếu người ta được nên công chính do Lề Luật, thì hoá ra Đức
Kitô đã chết vô ích.”
3/ Phúc Âm: "Lòng tin của chị đã cứu chị. Chị hãy đi bình an."
Tại sao ông Pharisee Simon mời
Chúa dùng bữa ăn? Chắc hẳn là không như một khách quí, vì ông đã không chu toàn
nhiệm vụ hiếu khách. Chắc hẳn cũng không tìm cách hại Chúa như các kinh sư khác
vì ông gọi Chúa bằng danh xưng Rabbi (Thầy). Nhưng có lẽ ông là người ở giữa muốn
được phổ thông và cũng muốn được nghe Chúa dạy.
Người phụ nữ phải là khán giả của
Chúa. Chị đã được nghe và cải hóa bởi những lời giảng dạy nên bày tỏ lòng ăn
năn và tình yêu với Chúa. Sự kiện chị ấy xõa tóc trước công chúng bị coi là
hành động không thể chấp nhận của một phụ nữ đứng đắn; nhưng chị không quan tâm
vì chị sống thực lòng mình. Chị biết chị là người tội lỗi và nghĩ mọi người
chung quanh biết điều đó, nên chẳng cần phải che đậy gì nữa.
Phong tục của người Do-thái: Khi
khách đến thăm, chủ nhà sẽ đặt một tay trên vai khách và hôn khách, sau đó sẽ lấy
nước rửa chân cho khách, sau cùng sẽ nhỏ trên đầu khách vài giọt dầu thơm. Ông
kinh sư này đã không làm bất cứ thủ tục nào theo truyền thống cho Chúa Giêsu cả.
Không những thế, ông còn xét
đoán cả Chúa và người phụ nữ: "Nếu quả thật ông này là ngôn sứ, thì hẳn phải
biết người đàn bà đang đụng vào mình là ai, là thứ người nào: một người tội lỗi!"
3.1/ Chúa Giêsu mời ông Pharisee
xét mình.
Giống như trình thuật Nathan-David
trong bài đọc I, Chúa Giêsu cũng kể một câu truyện cho ông kinh sư. Thoạt nghe,
ông kinh sư thấy chẳng có gì liên quan đến mình cả.
(1) Qua ví dụ hai con nợ: Đức
Giêsu lên tiếng bảo ông: "Này ông Simon, tôi có điều muốn nói với
ông!" Ông ấy thưa: "Dạ, xin Thầy cứ nói." Đức Giêsu nói: "Một
chủ nợ kia có hai con nợ: một người nợ năm trăm quan tiền, một người năm chục.
Vì họ không có gì để trả, nên chủ nợ đã thương tình tha cho cả hai. Vậy trong
hai người đó, ai mến chủ nợ hơn?" Ông Simon đáp: "Tôi thiết tưởng là
người đã được tha nhiều hơn." Đức Giêsu bảo: "Ông xét đúng lắm."
(2) Qua trường hợp cụ thể: Quay
lại phía người phụ nữ, Người nói với ông Simon: "Ông thấy người phụ nữ này
chứ? Tôi vào nhà ông: nước lã, ông cũng không đổ lên chân tôi, còn chị ấy đã lấy
nước mắt tưới ướt chân tôi, rồi lấy tóc mình mà lau. Ông đã chẳng hôn tôi một
cái, còn chị ấy từ lúc vào đây, đã không ngừng hôn chân tôi. Dầu ôliu, ông cũng
không đổ lên đầu tôi, còn chị ấy thì lấy dầu thơm mà đổ lên chân tôi. Vì thế,
tôi nói cho ông hay: tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị
đã yêu mến nhiều. Còn ai được tha ít thì yêu mến ít."
3.2/ Chúa Giêsu tha tội cho người
phụ nữ.
Rồi Đức Giêsu nói với người phụ
nữ: "Tội của chị đã được tha rồi." Bấy giờ những người đồng bàn liền
nghĩ bụng: "Ông này là ai mà lại tha được tội?" Nhưng Đức Giêsu nói với
người phụ nữ: "Lòng tin của chị đã cứu chị. Chị hãy đi bình an."
Niềm tin của người phụ nữ biểu lộ
qua tình thương chị dành cho Chúa Giêsu. Chúa không khen tội của người phụ nữ;
nhưng Chúa tuyên dương hành động thống hối của chị. Chị biết mình có tội, và tội
rất nhiều; nhưng chị tin vào lòng thương xót của Chúa Giêsu sẽ tha mọi tội cho
chị. Vì chị có tội nhiều, nên chị biết ơn nhiều khi được tha nhiều. Và chị tìm
thấy sự bình an.
Còn ông Pharisee, chúng ta không
thấy trình thuật nói về phản ứng của ông, một lời xin lỗi Chúa cũng không thấy
đề cập đến. Thực ra, mọi người đều có tội. Khi một người không cảm thấy có tội
là do bởi xét mình chưa kỹ thôi. Điều nguy hiểm cho những người tự cho mình là
công chính là họ không cần đến Chúa và tình thương tha thứ của Ngài.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta cần phải thường xuyên
xét mình để nhận ra tội lỗi và khẩn cầu ơn tha thứ của Chúa. Người không năng
xét mình sẽ không nhận ra các tội để chừa.
- Sau khi đã hòa giải với Thiên
Chúa, chúng ta phải rộng lòng tha nhứ cho những người đã xúc phạm đến chúng ta.
- Chúng ta cần phải tránh xa việc
xét đoán tha nhân. Hãy để việc đó cho Thiên Chúa. Chúng ta chỉ cần biết một điều:
đã là người ai cũng có những giây phút yếu lòng cả.
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.
12/06/16 CHÚA NHẬT TUẦN 11 TN – C
Lc 7,36-8,3
Lc 7,36-8,3
Suy niệm: Vừa qua, một nhiếp ảnh gia Mỹ đã gây sửng sốt khi công bố bộ ảnh chụp cảnh dùng máy cưa nát chiếc túi Birkin trị giá
trên 100.000 đô la. Giải thích lý do tiêu hủy đồ vật đắt tiền đó, người bạn thân của nhà
nhiếp ảnh cho biết: họ muốn chống lại thói lệ thuộc của con người vào những giá
trị vật chất. Người phụ nữ trong Tin Mừng hôm nay có một hành
động tương tự, đổ cả chai dầu thơm hảo hạng để xức chân Chúa. Chị không
chỉ bày tỏ quyết định chấm dứt lệ thuộc vật chất, những thứ mà suốt những năm dài qua chị đã bán mình để kiếm lấy và dùng nó để bôi thơm cho
con người tội lỗi của chị, mà còn bày tỏ sự dứt khoát đối với tội lỗi. Chính Chúa là động lực để chị đi đến quyết định gây sửng sốt đó. Sự thay đổi như thế xuất phát từ lòng yêu mến Chúa.
Mời Bạn: Có những thứ vật chất nào đang lôi kéo bạn xa Chúa? Những quyến luyến bất chính nào đang ràng buộc bạn? Bạn có dám rời khỏi những dan díu ấy để bày tỏ đức tin và lòng yêu mến của bạn vào Chúa Giê-su không?
Chia sẻ với nhau một kinh
nghiệm bày tỏ lòng yêu mến Chúa có ấn tượng với bạn nhất.
Sống Lời Chúa: Quyết tâm từ bỏ một tật xấu để bày tỏ lòng yêu mến Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, Chúa đã không chê ghét người phụ nữ tội lỗi, xin
cũng đừng bỏ rơi chúng con, nhưng xin
cho chúng con
biết sẵn sàng bày tỏ lòng yêu mến Chúa trong những hành động của chúng con. Amen.
Chị hãy đi bình an
(12.6.2016 – Chúa nhật 11 Mùa Thường niên, năm C)
Suy
niệm:
Chỉ Luca mới nói đến chuyện các người Pharisêu mời Đức Giêsu dùng bữa.
Họ mời Đức Giêsu dự tiệc ba lần (7, 36; 11, 37; 14, 1).
Họ còn báo cho ngài biết về việc Hêrôđê toan ám hại ngài (13, 31).
Xem ra không phải mọi người Pharisêu đều có ác cảm với Đức Giêsu.
Hôm nay Đức Giêsu là khách mời của ông Simon.
Ngài chẳng ngại đáp lại lời mời của một người thuộc phái Pharisêu,
cũng như ngài đã chẳng sợ làm bạn với người thu thuế và tội lỗi (Lc 7, 34).
Khi ăn tiệc lớn ở xứ Palestine thời đó,
các vị khách thường ngả người nằm trên những chiếc ghế dài, có gối,
chân đưa ra ngoài, tay trái dùng để tựa, còn tay phải để lấy thức ăn.
Họ mời Đức Giêsu dự tiệc ba lần (7, 36; 11, 37; 14, 1).
Họ còn báo cho ngài biết về việc Hêrôđê toan ám hại ngài (13, 31).
Xem ra không phải mọi người Pharisêu đều có ác cảm với Đức Giêsu.
Hôm nay Đức Giêsu là khách mời của ông Simon.
Ngài chẳng ngại đáp lại lời mời của một người thuộc phái Pharisêu,
cũng như ngài đã chẳng sợ làm bạn với người thu thuế và tội lỗi (Lc 7, 34).
Khi ăn tiệc lớn ở xứ Palestine thời đó,
các vị khách thường ngả người nằm trên những chiếc ghế dài, có gối,
chân đưa ra ngoài, tay trái dùng để tựa, còn tay phải để lấy thức ăn.
Khi nhà có đại tiệc, người ngoài được tự do ra vào.
Bất ngờ có một phụ nữ mạnh dạn bước vào phòng tiệc.
Người ta nhận ra chị là một người tội lỗi sống trong thành phố,
nhưng không chắc chị có phải là một cô gái điếm không.
Chị cố ý đến đây vì biết Đức Giêsu đang có mặt trong bữa tiệc.
Đây là người mà chị đã từng gặp và đã nhận được ơn tha thứ.
Chị đã chuẩn bị khá kỹ và biết rất rõ việc mình sắp làm cho Ngài.
Chị đem theo một bình bạch ngọc đựng dầu thơm (c. 37).
Đứng ở gần chân Đức Giêsu, chị bật khóc nức nở.
Nước mắt chị làm ướt chân Ngài.
Những giọt nước mắt ăn năn vì tội lỗi quá khứ,
hay vui sướng vì biết mình đã đựoc thứ tha ?
Sau đó chị cởi khăn choàng đầu và xõa tóc để lau khô chân Đức Giêsu.
Cuối cùng, chị còn hôn lên chân và xức dầu thơm nữa.
Nói chung, những cử chỉ táo bạo của chị thật hết sức chướng mắt
đối với những người dự tiệc trong xã hội thời đó (và bây giờ cũng vậy !).
Xõa tóc trước công chúng là điều phụ nữ Do Thái không được phép làm,
vuốt ve và hôn chân một người đàn ông hẳn là những cử chỉ khêu gợi.
Hơn nữa, chị lại là một người tội lỗi có tiếng trong thành.
Một con người nhơ uế như chị khi đụng chạm sẽ làm người khác nhơ uế.
Chúng ta không ngạc nhiên khi thấy ông Simon nghĩ thầm:
“Nếu quả thật ông này là ngôn sứ, thì hẳn ông phải biết
người phụ nữ đang đụng vào mình là ai, vì chị ta là một người tội lỗi.”
Đức Giêsu có biết không? Nếu không, thì Ngài không phải là ngôn sứ.
Nhưng nếu Ngài biết, mà ngài lại cứ để chị làm như vậy,
thì còn gì là danh dự của ông Simon và của chính Ngài nữa!
Bất ngờ có một phụ nữ mạnh dạn bước vào phòng tiệc.
Người ta nhận ra chị là một người tội lỗi sống trong thành phố,
nhưng không chắc chị có phải là một cô gái điếm không.
Chị cố ý đến đây vì biết Đức Giêsu đang có mặt trong bữa tiệc.
Đây là người mà chị đã từng gặp và đã nhận được ơn tha thứ.
Chị đã chuẩn bị khá kỹ và biết rất rõ việc mình sắp làm cho Ngài.
Chị đem theo một bình bạch ngọc đựng dầu thơm (c. 37).
Đứng ở gần chân Đức Giêsu, chị bật khóc nức nở.
Nước mắt chị làm ướt chân Ngài.
Những giọt nước mắt ăn năn vì tội lỗi quá khứ,
hay vui sướng vì biết mình đã đựoc thứ tha ?
Sau đó chị cởi khăn choàng đầu và xõa tóc để lau khô chân Đức Giêsu.
Cuối cùng, chị còn hôn lên chân và xức dầu thơm nữa.
Nói chung, những cử chỉ táo bạo của chị thật hết sức chướng mắt
đối với những người dự tiệc trong xã hội thời đó (và bây giờ cũng vậy !).
Xõa tóc trước công chúng là điều phụ nữ Do Thái không được phép làm,
vuốt ve và hôn chân một người đàn ông hẳn là những cử chỉ khêu gợi.
Hơn nữa, chị lại là một người tội lỗi có tiếng trong thành.
Một con người nhơ uế như chị khi đụng chạm sẽ làm người khác nhơ uế.
Chúng ta không ngạc nhiên khi thấy ông Simon nghĩ thầm:
“Nếu quả thật ông này là ngôn sứ, thì hẳn ông phải biết
người phụ nữ đang đụng vào mình là ai, vì chị ta là một người tội lỗi.”
Đức Giêsu có biết không? Nếu không, thì Ngài không phải là ngôn sứ.
Nhưng nếu Ngài biết, mà ngài lại cứ để chị làm như vậy,
thì còn gì là danh dự của ông Simon và của chính Ngài nữa!
Đức Giêsu
biết chị là ai,
biết cả điều Simon thầm nghĩ (x. 5, 21-22; 6, 7-8).
Ngài không phản ứng gì vì ngài hiểu ý nghĩa điều chị làm.
Đó không phải là cử chỉ khêu gợi của một cô gái làng chơi,
nhưng là những hành vi diễn tả lòng biết ơn của người được tha thứ.
Đức Giêsu hiểu những giọt nước mắt của chị, vừa hối hận, vừa hạnh phúc.
Ngài hiểu cả những cử chỉ có vẻ quyến rũ của chị trên đôi chân mình:
rửa chân bằng nước mắt, lau chân bằng tóc, hôn chân và xức dầu thơm.
Ngài đọc thấy trong đó lòng trân trọng và biết ơn.
Đó là sự trào dâng không thể cưỡng lại được của tâm tình yêu mến.
Tuyệt đối không có chút nhơ uế nào nơi những cử chỉ ấy.
Và Đức Giêsu đã đón nhận tất cả với trái tim thanh khiết của mình.
Ngài không phản ứng gì vì ngài hiểu ý nghĩa điều chị làm.
Đó không phải là cử chỉ khêu gợi của một cô gái làng chơi,
nhưng là những hành vi diễn tả lòng biết ơn của người được tha thứ.
Đức Giêsu hiểu những giọt nước mắt của chị, vừa hối hận, vừa hạnh phúc.
Ngài hiểu cả những cử chỉ có vẻ quyến rũ của chị trên đôi chân mình:
rửa chân bằng nước mắt, lau chân bằng tóc, hôn chân và xức dầu thơm.
Ngài đọc thấy trong đó lòng trân trọng và biết ơn.
Đó là sự trào dâng không thể cưỡng lại được của tâm tình yêu mến.
Tuyệt đối không có chút nhơ uế nào nơi những cử chỉ ấy.
Và Đức Giêsu đã đón nhận tất cả với trái tim thanh khiết của mình.
Để soi sáng
cho ông
Simon hiểu về hành động của người phụ nữ,
Đức Giêsu kể cho ông nghe một dụ ngôn kèm theo một câu hỏi (cc. 41-42)
Hai người cùng mắc nợ, một người 500 quan tiền, một người 50.
cả hai cùng được chủ nợ tha vì họ không có gì để trả.
“Vậy trong hai người đó, ai sẽ yêu mến chủ nợ hơn ?”
Câu hỏi chẳng có gì khó đối với Simon và ông đã trả lời đúng.
Ta nên lưu ý: yêu mến ở đây có nghĩa là biết ơn.
Tự nhiên người được tha nhiều thì sẽ biết ơn nhiều, kẻ được tha ít sẽ biết ơn ít.
Dụ ngôn đơn giản của Đức Giêsu được áp dụng vào thực tế.
Rõ ràng là chị phụ nữ đã yêu mến Đức Giêsu hơn ông Simon.
Đức Giêsu làm một so sánh giữa cách tiếp đón của hai người (cc.44-46).
Simon đã chẳng cho Ngài nước để rửa chân, chẳng hôn, chẳng xức dầu trên đầu.
Dĩ nhiên đó chẳng phải là những đòi hỏi bắt buộc khi tiếp khách,
nhưng dù sao cách tiếp khách của Simon cũng nhạt nhẽo hơn so với chị kia.
Đức Giêsu kể cho ông nghe một dụ ngôn kèm theo một câu hỏi (cc. 41-42)
Hai người cùng mắc nợ, một người 500 quan tiền, một người 50.
cả hai cùng được chủ nợ tha vì họ không có gì để trả.
“Vậy trong hai người đó, ai sẽ yêu mến chủ nợ hơn ?”
Câu hỏi chẳng có gì khó đối với Simon và ông đã trả lời đúng.
Ta nên lưu ý: yêu mến ở đây có nghĩa là biết ơn.
Tự nhiên người được tha nhiều thì sẽ biết ơn nhiều, kẻ được tha ít sẽ biết ơn ít.
Dụ ngôn đơn giản của Đức Giêsu được áp dụng vào thực tế.
Rõ ràng là chị phụ nữ đã yêu mến Đức Giêsu hơn ông Simon.
Đức Giêsu làm một so sánh giữa cách tiếp đón của hai người (cc.44-46).
Simon đã chẳng cho Ngài nước để rửa chân, chẳng hôn, chẳng xức dầu trên đầu.
Dĩ nhiên đó chẳng phải là những đòi hỏi bắt buộc khi tiếp khách,
nhưng dù sao cách tiếp khách của Simon cũng nhạt nhẽo hơn so với chị kia.
Câu 47 là một câu
quan trọng để hiểu đúng ý của đoạn
Tin Mừng này.
Câu này trước đây thường được dịch như sau:
“Tội của chị ấy tuy nhiều, nhưng đã được tha, vì (hoti) chị đã yêu mến nhiều.
Còn ai được tha ít thì yêu mến ít,”
Dịch như thế dễ gây hiểu lầm rằng vì yêu nhiều nên chị được tha nhiều.
Thật ra phải hiểu ngược lại mới đúng.
Chính vì chị được tha nhiều nên chị mới yêu mến biết ơn nhiều.
Lòng yêu mến là kết quả, chứ không phải là nguyên nhân của sự tha thứ.
Lòng biết ơn đến sau khi nhận ơn.
Hiểu như thế sẽ hợp với ý nghĩa của dụ ngôn (cc. 41-42),
và hợp với vế sau của câu 47: còn ai được tha ít thì yêu mến ít.
Câu này trước đây thường được dịch như sau:
“Tội của chị ấy tuy nhiều, nhưng đã được tha, vì (hoti) chị đã yêu mến nhiều.
Còn ai được tha ít thì yêu mến ít,”
Dịch như thế dễ gây hiểu lầm rằng vì yêu nhiều nên chị được tha nhiều.
Thật ra phải hiểu ngược lại mới đúng.
Chính vì chị được tha nhiều nên chị mới yêu mến biết ơn nhiều.
Lòng yêu mến là kết quả, chứ không phải là nguyên nhân của sự tha thứ.
Lòng biết ơn đến sau khi nhận ơn.
Hiểu như thế sẽ hợp với ý nghĩa của dụ ngôn (cc. 41-42),
và hợp với vế sau của câu 47: còn ai được tha ít thì yêu mến ít.
Chẳng rõ ông Simon có nhận ra mình là ai chưa.
Ông đúng là người yêu ít hơn chị phụ nữ tội lỗi kia,
vì ông được tha ít hơn, vì ông có ít tội hơn !!!
Nhưng có thật ông ít tội hơn người phụ nữ tội lỗi này không?
Hay vì tự hào mà ông không thấy cần đến sự tha thứ của Thiên Chúa?
Tự hào về đạo đức vẫn là một vật cản khiến người ta khép lại và vô ơn.
Người phụ nữ tội lỗi là người yêu hơn (c. 42) và yêu nhiều (c. 47).
Tội quá khứ, khi được tha, lại tạo nên một hứng khởi mới để người ta yêu hơn.
Những vấp ngã khi được chữa lành lại trở nên một khởi đầu cho cuộc sống mới,
can đảm hơn, quảng đại hơn và nồng cháy hơn.
Ông đúng là người yêu ít hơn chị phụ nữ tội lỗi kia,
vì ông được tha ít hơn, vì ông có ít tội hơn !!!
Nhưng có thật ông ít tội hơn người phụ nữ tội lỗi này không?
Hay vì tự hào mà ông không thấy cần đến sự tha thứ của Thiên Chúa?
Tự hào về đạo đức vẫn là một vật cản khiến người ta khép lại và vô ơn.
Người phụ nữ tội lỗi là người yêu hơn (c. 42) và yêu nhiều (c. 47).
Tội quá khứ, khi được tha, lại tạo nên một hứng khởi mới để người ta yêu hơn.
Những vấp ngã khi được chữa lành lại trở nên một khởi đầu cho cuộc sống mới,
can đảm hơn, quảng đại hơn và nồng cháy hơn.
Cuối cùng, Đức Giêsu đã quay lại nói chuyện với người phụ nữ.
Ngài khẳng định lại ơn mà chị đã lãnh nhận trước khi chị bước vào phòng tiệc:
“Tội của chị đã được tha rồi”, Ngài nhắc cho mọi người biết chuyện đó.
Như thế Đức Giêsu không phải chỉ là một ngôn sứ như Simon nghĩ.
Ngài còn lớn hơn một ngôn sứ nữa khi dám tha tội cho chị.
Cuối cùng, Đức Giêsu lại ca ngợi lòng tin của chị.
Lòng tin thắm đượm tình yêu, hay tình yêu thắm đượm lòng tin.
Cả hai quyện vào nhau giúp chị đón lấy ơn cứu độ, ơn bình an:
“Lòng tin của chị đã cứu chị. Chị hãy đi bình an” (c. 50).
Ngài khẳng định lại ơn mà chị đã lãnh nhận trước khi chị bước vào phòng tiệc:
“Tội của chị đã được tha rồi”, Ngài nhắc cho mọi người biết chuyện đó.
Như thế Đức Giêsu không phải chỉ là một ngôn sứ như Simon nghĩ.
Ngài còn lớn hơn một ngôn sứ nữa khi dám tha tội cho chị.
Cuối cùng, Đức Giêsu lại ca ngợi lòng tin của chị.
Lòng tin thắm đượm tình yêu, hay tình yêu thắm đượm lòng tin.
Cả hai quyện vào nhau giúp chị đón lấy ơn cứu độ, ơn bình an:
“Lòng tin của chị đã cứu chị. Chị hãy đi bình an” (c. 50).
Chúng ta có thể học được
nhiều điều nơi người phụ nữ:
lòng tin mãnh liệt vào sự tha thứ, lòng mến táo bạo của sự biết ơn,
Chúng ta cũng cảm nghiệm được sức mạnh của ơn tha thứ của Thiên Chúa.
Sức mạnh ấy có thể làm mới lại cuộc đời một phụ nữ hư hỏng,
và dạy chị biết yêu như yêu lần đầu.
Chẳng rõ ông Simon có học được điều gì từ biến cố này không?
lòng tin mãnh liệt vào sự tha thứ, lòng mến táo bạo của sự biết ơn,
Chúng ta cũng cảm nghiệm được sức mạnh của ơn tha thứ của Thiên Chúa.
Sức mạnh ấy có thể làm mới lại cuộc đời một phụ nữ hư hỏng,
và dạy chị biết yêu như yêu lần đầu.
Chẳng rõ ông Simon có học được điều gì từ biến cố này không?
Cầu nguyện:
Lạy Thiên Chúa, đây lời tôi cầu nguyện :
Xin tận diệt, tận diệt trong tim tôi
mọi biển lận tầm thường.
Xin tận diệt, tận diệt trong tim tôi
mọi biển lận tầm thường.
Xin cho tôi sức mạnh thản
nhiên
để gánh chịu mọi buồn vui.
để gánh chịu mọi buồn vui.
Xin cho tôi sức mạnh hiên ngang
để đem tình yêu gánh vác việc đời.
để đem tình yêu gánh vác việc đời.
Xin cho tôi sức mạnh ngoan cường
để chẳng bao giờ khinh rẻ người nghèo khó,
hay cúi đầu khuất phục trước ngạo mạn, quyền uy.
để chẳng bao giờ khinh rẻ người nghèo khó,
hay cúi đầu khuất phục trước ngạo mạn, quyền uy.
Xin cho tôi sức mạnh dẻo
dai
để nâng tâm hồn vươn lên khỏi ti tiện hằng ngày.
để nâng tâm hồn vươn lên khỏi ti tiện hằng ngày.
Và cho tôi sức mạnh tràn trề
để âu yếm dâng mình theo ý Người muốn.
R. Tagore
(Đỗ Khánh Hoan dịch)
để âu yếm dâng mình theo ý Người muốn.
R. Tagore
(Đỗ Khánh Hoan dịch)
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
12 Tháng Sáu
Ngọn Lửa Không Hề Tắt
Tong tác phẩm Ðại Học Máu, văn
sĩ Hà Thúc Sinh cũng giống như văn hào Nga Solzenitzyn ghi lại thân phận tù đày
của các tù nhân Việt Nam trong các trại học tập. Nhưng giữa những đọa đày cùng
cực của kiếp người, Hà Thúc Sinh vẫn có cái nhìn lạc quan về thân phận con người.
Con người bị bạo hành ở những mức độ vô nhân nhất mà vẫn khôi hài, cười đùa, bỡn
cợt được.
Trong tác phẩm đầu tay của ông
có tựa đề "Hai chị em", Hà Thúc Sinh đã nêu bật được hình ảnh con người
tranh đấu lạc quan, chẳng còn biết gì để sợ, sẵn sàng kịch liệt chống lại định
mệnh để tự thắng và tự cứu mình... Hai chị em Lan và Trực bị đắm tàu trong một
cuộc vượt biên đầy nguy hiểm. Là hai người duy nhất còn sống sót, họ trôi dạt
và tấp vào một hoang đảo giữa Thái Bình Dương. Trong nguyên một tuần lễ, tác giả
đề cao sức chịu đựng, tinh thần tháo vát của hai chị em. Sau một tuần lễ chịu đựng,
người chị ngã bệnh, Trực bèn kết bè để ra khơi mong tìm lại được chiếc ghe đắm
trên đó còn chút ít lương thực, thuốc men và quần áo. Khi ra đi, anh đã nhóm đã
nhóm được một ngọn lửa trên núi cao vừa làm dấu hiệu để kêu gọi sự chú ý của
thuyền bè qua lại trong vùng, vừa lấy đó như ngọn hải đăng để còn có thể quay lại
đảo... Nhưng anh đã ra đi và không bao giờ trở lại hoang đảo... Sóng to gió lớn
có lẽ đã chôn vùi anh giữa lòng đại dương. Người chị tất tả chạy ra bãi cát giữa
cơn giông bão để réo gọi tên em.
Tác giả đã kết thúc câu chuyện
như sau: "Nếu có thuyền bè chạy qua eo biển, một vùng hoang đảo trên Thái
Bình Dương những ngày biển lặng sau đó, chú mục, người ta có thể nhìn thấy một
ngọn lửa. Ngịn lửa ấy đốt bập bùng trên một triền núi, khi lớn, khi nhỏ, khi tỏ,
khi mờ. Nhưng có điều chắc chắn là nó chưa hề tắt".
Sống là một cuộc chiến đấu không
ngừng. Chiến đấu chống lại với những khắc nghiệt của thiên nhiên, chống lại
không biết bao nhiêu kẻ thù, chống lại với chính bản thân đầy ươn hèn, xấu xa.
Nhưng người Kitô hữu không phải
là một thứ anh hùng khắc kỷ, tự chiến đấu một mình và tin ở sức mạnh vô song của
ý chí. Chúa Giêsu đã chiến đấu, nhưng Ngài không là một anh hùng của một ý chí
sắt đá. Sức mạnh duy nhất của Ngài chính là Thiên Chúa. Lương thực của Ngài
chính là Thánh ý Chúa Cha. Khí giới của Ngài là sự kết hiệp với Chúa Cha.
Qua ba cơn cám dỗ, Chúa Giêsu đã
luôn luôn qui chiếu vào Lời Chúa. Lời của Chúa là khí giới, là thuẫn đỡ của
Ngài.
Tôi sống nhưng không phải là tôi
sống, mà chính là Ðức Kitô sống trong tôi. Ðó phải là ý lực sống của chúng ta.
Chúng ta cũng hãy nói: tôi chiến đấu, nhưng không phải là tôi chiến đấu, mà
chính Ðức Kitô chiến đấu trong tôi. Sức mạnh của Kitô giáo, bản chất của Kitô
giáo không phải là tổng số của các tín hữu, mà chính là Sự Sống của Ðức Kitô
đang châu lưu trong từng người tín hữu.
Lẽ Sống





Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét