Trang

Thứ Bảy, 11 tháng 6, 2016

12-06-2016 : (phần I) CHÚA NHẬT XI THƯỜNG NIÊN năm C

12/06/2016
Chúa Nhật tuần 11 thường niên năm C
(phân I)


Bài Ðọc I: 2 Sm 12, 7-10. 13
"Chúa cũng đã tha tội cho vua rồi và vua sẽ không phải chết".
Trích sách Samuel quyển thứ hai.
Trong những ngày ấy, Nathan thưa cùng Ðavít rằng: "Ngài chính là người đó". Chúa là Thiên Chúa Israel phán rằng: "Ta đã xức dầu phong cho ngươi làm vua Israel và đã cứu ngươi khỏi tay Saolê. Ta đã ban cho ngươi nhà của chủ ngươi, trao cả cung phi của chủ ngươi vào lòng ngươi. Và tặng cho ngươi nhà Israel và Giuđa. Nếu bấy nhiêu đó còn ít, Ta cho ngươi thêm nhiều nữa. Vậy tại sao ngươi khinh thường lời Chúa mà làm điều gian ác trước mặt Ta? Ngươi đã dùng gươm giết Uria người Hêthê và bắt vợ y làm vợ mình, ngươi còn dùng gươm con cái Ammon mà giết y nữa. Do đó, lưỡi gươm sẽ không rời khỏi dòng dõi ngươi cho đến muôn đời, vì ngươi đã khinh dể Ta, và cướp vợ của Uria người Hêthê làm vợ mình". Ðavít liền nói với Nathan rằng: "Trẫm đã phạm tội cùng Chúa". Nathan thưa lại Ðavít rằng: "Chúa cũng đã tha tội cho vua rồi, và vua sẽ không phải chết".
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 31, 1-2. 5. 7. 11
Ðáp: Lạy Chúa, Chúa đã tha thứ tội lỗi cho con (c. 5c).
Xướng: 1) Phúc thay người được tha thứ lỗi lầm, và tội phạm của người được ơn che đậy! Phúc thay người mà Chúa không trách cứ lỗi lầm, và trong lòng người đó chẳng có mưu gian. - Ðáp.
2) Tôi xưng ra cùng Chúa tội phạm của tôi, và lỗi lầm của tôi, tôi đã không che giấu. Tôi nói: Tôi thú thực cùng Chúa điều gian ác của tôi, và Chúa đã tha thứ tội lỗi cho tôi. - Ðáp.
3) Chúa là chỗ dung thân, Chúa giữ tôi khỏi điều nguy khổ, Chúa đùm bọc tôi trong niềm vui ơn cứu độ. - Ðáp.
4) Chư vị hiền nhân, hãy vui mừng hân hoan trong Chúa, và mọi người lòng ngay hãy hớn hở reo mừng! - Ðáp.

Bài Ðọc II: Gl 2, 16. 19-21
"Không phải tôi sống, mà là chính Ðức Kitô sống trong tôi".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Galata.
Anh em thân mến, anh em biết rằng con người được công chính hoá không phải do các việc làm của lề luật dạy, nhưng chỉ là nhờ lòng tin vào Ðức Giêsu Kitô. Nên chúng ta đã tin vào Ðức Giêsu Kitô để được công chính hoá do lòng tin vào Ðức Kitô, chớ không phải do các việc làm của lề luật dạy. Do đó, không một ai được công chính hoá do các việc làm của lề luật dạy. Quả vậy, phần tôi, chính do lề luật mà tôi đã chết cho lề luật, để được sống cho Thiên Chúa. Tôi đã chịu đóng đinh vào thập giá làm một với Ðức Kitô. Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là chính Ðức Kitô sống trong tôi. Hiện giờ tôi sống trong thân xác, là tôi sống trong lòng tin vào Con Thiên Chúa, Ðấng đã yêu mến tôi và đã phó mình vì tôi. Tôi không loại bỏ ơn Thiên Chúa. Nhưng nếu có sự công chính nào bởi lề luật, thì quả thực Ðức Kitô đã chết cách luống công.
Ðó là lời Chúa.

Alleluia: Lc 19, 38
Alleluia, alleluia! - Chúc tụng Ðức Vua, Ðấng nhân danh Chúa mà đến, bình an trên trời, và vinh quang trên các tầng trời. - Alleluia.

Phúc Âm: Lc 7, 36-50 {hoặc Lc 7, 36 - 8, 3}
"Tội bà rất nhiều mà đã được tha rồi, vì bà đã yêu mến nhiều".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, có một người biệt phái kia mời Chúa Giêsu đến dùng bữa với mình; Người vào nhà người biệt phái và vào bàn ăn. Chợt có một người đàn bà tội lỗi trong thành, nghe biết Người đang dùng bữa trong nhà người biệt phái, liền mang đến một bình bạch ngọc đựng thuốc thơm. Bấy giờ bà đứng phía chân Người khóc nức nở, nước mắt ướt đẫm chân Người, bà lấy tóc lau, rồi hôn chân và xức thuốc thơm. Thấy thế, người biệt phái đã mời Người nghĩ thầm rằng: "Nếu ông này là tiên tri thì phải biết người đàn bà đang động đến mình là ai và thuộc hạng người nào: là một người tội lỗi". Nhưng Chúa Giêsu lên tiếng bảo ông rằng: "Hỡi Simon, Tôi có điều muốn nói với ông". Simon thưa: "Xin Thầy cứ nói".
- "Một người chủ nợ có hai con nợ, một người nợ năm trăm đồng, người kia nợ năm mươi. Vì cả hai không có gì trả, nên chủ nợ tha cho cả hai. Vậy trong hai người đó, người nào sẽ yêu chủ nợ nhiều hơn?" Simon đáp: "Tôi nghĩ là kẻ đã được tha nhiều hơn". Chúa Giêsu bảo ông: "Ông đã xét đoán đúng". Và quay lại phía người đàn bà, Người bảo Simon: "Ông thấy người đàn bà này chứ? Tôi đã vào nhà ông, ông đã không đổ nước rửa chân Tôi; còn bà này đã lấy nước mắt rửa chân Tôi, rồi lấy tóc mình mà lau. Ông đã không hôn chào Tôi, còn bà này từ lúc vào không ngớt hôn chân Tôi. Ông đã không xức dầu trên đầu Tôi, còn bà này đã lấy thuốc thơm xức chân Tôi. Vì vậy, Tôi bảo ông, tội bà rất nhiều mà đã được tha rồi, vì bà đã yêu mến nhiều. Kẻ được tha ít, thì yêu mến ít".
Rồi Người bảo người đàn bà: "Tội con đã được tha rồi". Những người đồng bàn liền nghĩ trong lòng rằng: "Ông này là ai mà lại tha tội được?" Và Người nói với người đàn bà: "Ðức tin con đã cứu con, con hãy về bình an".
{Sau đó Người rảo qua các thành thị và xóm làng, giảng dạy và loan báo Nước Thiên Chúa. Có nhóm Mười Hai cùng đi với Người, cũng có cả mấy người phụ nữ đã được chữa khỏi tà thần và bệnh tật: Maria gọi là Mađalêna, đã được chữa khỏi bảy quỷ ám, Gioanna vợ của Cusa viên quản lý của Hêrôđê, Susanna và nhiều bà khác: họ đã lấy của cải mình mà giúp Người.}
Ðó là lời Chúa.


Suy Niệm: Muốn được ơn tha thứ phải có nhiều lòng tin và lòng mến

Thiên Chúa đã bỏ qua lỗi lầm cho Ðavít; Chúa Giêsu đã tha tội cho một người phụ nữ. Những bài Kinh Thánh như vậy đáng được những ai biết mình có tội, đọc lại và ngẫm nghĩ. Những người chưa thấy ngay tội lỗi của mình cũng hãy đọc lại để không bỏ mất ơn Chúa. Và nếu họ tiếp tục tưởng mình xa lạ với những câu chuyện trên, bài thư Phaolô sẽ đến để giúp họ suy nghĩ đúng về đời sống đạo đức.
Do đó cả ba bài Kinh Thánh ngày hôm nay đều gần chúng ta và muốn xây dựng chúng ta lớn lên trong ơn cứu độ của Thiên Chúa. Chúng ta hãy đọc lại với lòng yêu mến, biết ơn.

1. Ðavít Ðược Chiếu Cố
Bài sách Samuen nhắc lại chuyện Ðavít. Ông là vị hoàng đế được con cái Israen yêu chuộng. Họ còn tin vào Lời Chúa hứa ban cho dòng dõi Ðavít một triều đại vững bền. Do đó nghĩ đến Ðavít, con cái Israen chỉ có một lòng kính yêu. Dù vậy, các tác giả thánh cũng không bỏ qua các lỗi lầm của Ðavít. Các người vẫn còn nhắc lại. Phải chăng để nói với chúng ta rằng: Chẳng có ai vô tội trước mặt Chúa? Các tác giả thánh còn nói đến các hình phạt Thiên Chúa giáng xuống trên Ðavít vì tội lỗi của ông. Há chẳng phải để nói rằng: Chúa vẫn không dung tha lỗi phạm của cả những người được Người tuyển chọn? Tuy nhiên khi kể lại các tội của Ðavít, các tác giả thánh dường như chú trọng nhiều hơn đến lòng thống hối ăn năn của nhà vua được mến chuộng ấy, và để nói lên lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa đối với Ðavít, cả khi ông lỗi phạm. Ít ra đó là những điều chúng ta gặp thấy trong bài sách Samuen hôm nay.
Ðể dễ hiểu chúng ta vắn tắt nhắc lại câu chuyện mà nhiều người đã biết. Vào buổi chiều nọ, Ðavít dậy khỏi giường và đi tản bộ trên sân thượng. Ông thấy một phụ nữ đang tắm, dáng vẻ rất xinh đẹp. Ông sai người đi hỏi tung tích, mời nàng ấy đến và rồi nàng có thai. Chẳng may nàng đã có chồng, và ông đang ở ngoài mặt trận. Ðavít cho người đi, liệu cách giết người chồng xấu số kia và Ðavít cưới người phụ nữ ấy.
Thiên Chúa sai tiên tri Natan đến gặp Ðavít. Natan bắt đầu gợi cho Ðavít biết những tội ông vừa phạm thật là nặng nề. Chúa đã xử với ông quá đại lượng. Người đã tuyển chọn, đặt ông làm vua, ban cho ông đủ mọi sự; và nếu ông còn cho như thế là ít, thì Chúa sẽ ban thêm gấp mấy ngần ấy nữa... Thế là ông đã khinh Lời Chúa; dám làm sự dữ trước mắt Người, đã cướp vợ người khác lại còn dùng gươm đâm chết chồng người ta, và họ là dân ngoại... Thế nên gươm sẽ không rời khỏi nhà ông bao giờ nữa.
Ðavít thấy lỗi của mình. Ông đã phạm những tội tày đình. Ông thật là người nhà giàu đã đi bắt con chiên nhỏ của người nhà nghèo đem về làm thịt đãi khách, đang khi ông có cả một đàn chiên lớn. Ông làm cho Danh Thiên Chúa bị nhục trước mặt dân ngoại. Có lẽ ông đã suy nghĩ không kỹ. Nhưng bây giờ được người của Thiên Chúa mở mắt cho, ông cúi đầu thú nhận: "Tôi đã phạm tội nghịch với Giavê".
Không phải ai cũng biết mau nhận lỗi như Ðavít. Càng không có nhà vua nào có thể khiêm nhường ngay như thế. Rõ ràng Ðavít chưa bỏ mất hẳn tính đơn thật chất phác của thời được Chúa gọi. Lòng thành nhận biết tội lỗi như thế quả thật đã kéo xuống được lòng chạnh thương cứu độ của Chúa.
Natan bây giờ nói với Ðavít: "Cả Giavê nữa, Người cũng bỏ qua lỗi lầm của ông". Nhưng sự việc này đã để lại trong cuộc đời của Ðavít nhiều hậu quả. Gươm vẫn không rời khỏi nhà Ðavít. Nhất là một tâm tình hối tiếc ăn năn không ngớt dâng lên trong lòng nhà vua, khiến ông trở thành hình ảnh gương mẫu cho những kẻ sám hối và nhiều thánh thi thú nhận tội lỗi đã được truyền tụng như là của ông.
Tuy nhiên vẫn có thể nói Ðavít vẫn chưa được phúc như người tội lỗi trong bài Tin Mừng hôm nay. Ông đã gặp Natan chứ không phải Chúa Giêsu. Và điều này khiến chúng ta thấy lòng thống hối trong Cựu Ước chưa gặp được niềm hân hoan cứu độ thực sự. Nhưng chúng ta hãy bắt đầu đọc lại bài Tin Mừng đã.

2. Người Tội Lỗi Ðược Tha Thứ
Nhiều người coi đoạn văn này như một kiệt tác của nhà văn Luca. Nhưng phân tách một chút người ta thấy có một vài nét hơi bất thường. Câu chuyện hai người mắc nợ lồng trong câu chuyện người phụ nữ được tha thứ, có cần hẳn không? Nó làm cho bài tường thuật dài ra. Cắt bỏ đi, nó chẳng làm thiệt hại gì. Ðàng khác trong câu chuyện hai người mắc nợ, Chúa bảo: Ai được tha nhiều thì mến nhiều. Còn câu chuyện người phụ nữ tội lỗi Chúa lại khẳng định: bà ta được tha nhiều vì mến nhiều. Như vậy, hai lời tuyên bố không ăn với nhau, khiến hai câu chuyện không cần và theo lẽ không nên đi với nhau.
Rồi trong các sách Tin Mừng khác, cũng có chuyện một người phụ nữ xức dầu cho Chúa Giêsu ở Bêtania. Câu chuyện của Luca kể hôm nay có phải là câu chuyện của các tác giả kia không? Những thắc mắc này, cuối cùng, như chúng ta sẽ thấy, chỉ làm tăng giá trị cho bài tường thuật của Luca thôi. Và đó là điều nên để ý.
Thật ra câu chuyện hai người mắc nợ lồng giữa câu chuyện người phụ nữ tội lỗi không cần thiết. Nhưng nếu cắt bỏ đi thì thật là tiếc. Nó không làm tăng giá trị cho câu chuyện chính, nhưng có một tác động tâm lý rất quan trọng để người ta được điều kiện đón nhận bài học đạo đức sâu xa. Chúng ta cứ xem. Khi Ðức Giêsu vào nhà người Biệt phái để dùng bữa, người ta để ý quan sát Người biết mấy. Nhất là khi đột xuất có một người phụ nữ bước vào đi đến gần Người. Ai cũng sửng sốt vì biết rõ bà ta nổi tiếng tội lỗi ở trong thành. Kìa, bà ta đến đứng đàng sau Ðức Giêsu, khóc lóc nức nở. Thấy nước mắt mình chảy xuống làm ướt đẫm chân Người, bà vội cúi xuống, lấy ngay tóc xõa trên đầu cố lau cho sạch, rồi tha thiết hôn chân Người và lấy dầu thơm đổ xuống. Bằng ấy cử chỉ của bà ta chẳng làm cho người ta ngạc nhiên. Lạ thật! Họ vẫn suy nghĩ một cách cũ kỹ: Nếu Người là tiên tri ắt biết đứa động đến mình kia là ai. Nó là đứa tội lỗi mà... Ði thẳng vào vấn đề và lý luận cho họ hiểu ư, Ðức Giêsu thấy không được. Người phải nhẹ nhàng lôi cuốn họ đến chân lý. Người dùng khoa sư phạm của các bậc thầy thời bấy giờ. Người nói với chủ nhà: Simon, tôi có điều muốn nói với ông... Rồi Người kể một dụ ngôn, tức là câu chuyện về hai người mắc nợ. Người lôi cuốn suy nghĩ và tâm lý của người ta đến một chân lý dễ hiểu để từ đó so sánh với thực tại họ đang sống. Và vì là so sánh nên hai việc không nhất thiết phải hoàn toàn giống nhau. Những câu chuyện trong dụ ngôn chỉ là bàn đạp cần thiết cho người ta nhảy lên những thực tại tự nhiên khó nhận ra.
Và quả thật, sau khi nghe câu chuyện hai người mắc nợ, người ta đã được chuẩn bị tâm lý và tâm hồn để hiểu sự việc đang xảy ra trước mắt. Người ta thấy gì? Một người đàn bà tội lỗi ư? Không, bà ta đến đây không còn là người tội lỗi nữa. Bà đã chà đạp dư luận và những cái nhìn phán xét để đến đứng đàng sau Ðức Giêsu. Bà khóc lóc nức nở, biểu lộ tâm hồn ăn năn hối lỗi; bà lấy tóc mình mà lau chân Chúa; bà còn hôn chân Người một cách tha thiết. Bà đổ cả dầu thơm nữa. Bà có lòng mến nhiều. Không ai chối cãi được. Và đây là lòng mến sám hối tìm lại được con đường thánh thiện. Nó đã xuất từ một niềm tin, tin Ðức Giêsu là Ðấng Thánh, có thể làm cho mình khỏi tội. Không có niềm tin này, bà đã không làm như vậy. Niềm tin ấy còn gia tăng, từ khi bà có ý tưởng đến gặp Chúa Giêsu. Thoạt đầu bà đã dám đến đứng đàng sau Người; rồi bà khóc; rồi không thấy bị đuổi và thấy nước mắt mình làm ướt chân Người, bà đã vội vụng về lau bằng chính tóc của mình. Rồi bạo dạn thêm, bà hôn chân Chúa và đổ dầu. Bao nhiêu cử chỉ là bằng ấy chứng cớ về mức độ gia tăng của lòng tin và lòng mến. Bà không còn là người tội lỗi nữa. Bà đã đủ điều kiện để được nghe lời an ủi: "Tội của ngươi đã được tha... Hãy đi bằng yên". Chắc chắn bà đã được sung sướng hơn Ðavít, bà được tiếp xúc thẳng với Thiên Chúa. Người hiền từ và thông cảm làm sao! Người bênh vực kẻ tội lỗi. Người ban ơn tha tội. Người để họ ra về bình yên vì Người đã đổi mới họ.
Tất cả chúng ta đã được hưởng kinh nghiệm êm ái của người phụ nữ trong bài Tin Mừng hôm nay. Khi viết câu: "Tội của ngươi đã được tha. Hãy đi bằng yên", tác giả Luca không ám chỉ đến ơn tha tội và công thức tha tội trong Hội Thánh của chúng ta sao? Và nếu như vậy, hẳn người cũng đã muốn nói với chúng ta rằng: muốn được ơn tha thứ, phải có nhiều lòng tin và lòng mến.
Rồi khi kết thúc bài Tin Mừng hôm nay, Luca viết có nhiều phụ nữ được chữa lành khỏi quỉ dữ đã đi theo Chúa và phục vụ Người. Tác giả há không muốn ngụ ý rằng: sau khi được tha tội, chúng ta ra đi bằng yên bằng cách đi theo và phục vụ Chúa sao? Nhưng phục vụ thế nào?

3. Phaolô Phục Vụ Chúa
Thánh Tông đồ nêu gương cho chúng ta. Người đang tranh luận với những kẻ muốn duy trì tinh thần và tập tục Do Thái giáo ở ngay trong Hội Thánh. Họ muốn người dân Galát phải cắt bì và giữ luật Môsê, cho rằng chỉ những việc này mới ban ơn tha tội khiến con người được trở nên công chính. Như vậy, Ðức Giêsu Kitô và sự nghiệp của Người sẽ bằng thừa. Người ta cứ theo luật mà làm thì tội lỗi sẽ được tha và người ta được nên công chính. Ðức Giêsu Kitô không còn chỗ đứng nào nữa trong một quan niệm như vậy. Và điều này phủ nhận hẳn kinh nghiệm sâu xa của Phaolô và làm cho cuộc rao giảng Tin Mừng trở nên vô ích.
Phaolô là người như ngày nay không phải vì các việc làm theo lề luật. Ngược lại những việc này đã biến Phaolô nên người hăng say đi tìm bắt những kẻ theo đạo. Chính nhờ sự tỏ hiện của Chúa Giêsu Kitô và nhờ lòng tin của Người mà Phaolô được ơn tha thứ và trở nên công chính. Từ đó nhìn lại Luật pháp Môsê, người ta đã thấy chính Tổ phụ của dân đang giữ luật này cũng đã được công nhận là công chính, không phải do các việc ông làm, nhưng tự lòng ông đã tin Lời Chúa. Rồi hiện nay dân Do Thái đang làm không biết bao nhiêu việc theo lề luật, mà tội lỗi họ vẫn còn y nguyên đó.
Qua miệng các tiên tri, Thiên Chúa còn nói rõ: nhờ đau khổ, người Tôi Tớ của Người sẽ công chính hóa các tội nhân. Ðức Giêsu Kitô trong mầu nhiệm thánh giá không phải là người Tôi Tớ này hay sao? Do đó Phaolô viết: Ðời sống của tôi lúc này trong thân xác, tôi sống nó trong lòng tin vào Con Thiên Chúa, Ðấng đã yêu mến tôi và phó nộp mình vì tôi. Chính Chúa Giêsu Kitô khi bị lề luật đóng đinh vào thập giá, đã đóng đinh lề luật vào sự chết của Người, để khi sống lại Người ban cho những ai tin vào Người ơn tha thứ tội lỗi và sự sống mới, không phải sự sống theo lề luật nữa, nhưng là sự sống làm con Thiên Chúa nhờ lòng tin và lòng mến.
Chúng ta đã sung sướng đồng ý với thánh Phaolô rồi khi Người nói: Chính nhờ lòng tin vào Chúa Giêsu Kitô chịu đóng đinh và sống lại mà chúng ta đã được tha thứ tội lỗi. Chúng ta còn phải thi hành cũng chính lời Người đã nói theo cùng một ý đó rằng: nay tôi sống, nhưng không phải tôi, mà là chính Ðức Kitô sống trong tôi. Tức là chúng ta phải phát huy sự sống của Ðức Giêsu Kitô Cứu Thế trong thân xác và cuộc đời của chúng ta. Không những chúng ta phải từ bỏ nếp sống tội lỗi trước đây, mà còn phải bày tỏ đời sống làm con Thiên Chúa và làm anh em đồng bào với mọi người.
Chính Chúa Giêsu, trong mầu nhiệm cử hành nơi bàn thờ bây giờ muốn làm công việc ấy nơi chúng ta. Người ban ơn tha tội, cho chúng ta nhận lấy Người để chúng ta được làm con Thiên Chúa hơn và làm anh em với mọi người hơn. Ðời sống của chúng ta phải là đời sống phục vụ, như chính Chúa Giêsu đã đi trên đường phục vụ khi ở trần gian. Chúng ta không phải chỉ như người phụ nữ trong bài Tin Mừng: được tha thứ rồi bà sung sướng đi theo phục vụ Chúa. Chúng ta còn được thay mặt Chúa để làm công việc cứu thế. Và như vậy hạnh phúc của chúng ta trổi vượt hơn Ðavít ngày xưa biết mấy. Xin cho chúng ta biết đón nhận và sống ơn Chúa hôm nay ban như vậy.

(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)


LI CHÚA MI NGÀY
Chủ Nhật 11 Thường NiênNăm C
Bài đọc: 2 Sam 12:7-10, 13; Gal 2:16-19, 21; Lk 7:36-50.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Nhu cầu cần xét mình để nhận ra tội và đừng kết án tha nhân.
 Trong cuộc đời, con người thường nghĩ các quyết định của mình là đúng, cho tới giây phút nào đó, Thiên Chúa gởi người đến soi sáng và vạch ra những sai lầm của mình. Trong những giây phút được soi sáng như thế, con người phải khiêm nhường nhìn nhận khuyết điểm thì mới nhận được sự tha thứ của Thiên Chúa. Nếu không, giây phút hồng ân đó qua đi và con người sẽ ôm hận suốt đời.
Các bài đọc hôm nay muốn nêu bật những trường hợp được Thiên Chúa soi sáng. Trong bài đọc I, tiên tri Nathan sửa lỗi vua David rất khéo, bằng cách kể cho nhà vua nghe một câu truyện bất công. Thoạt nghe, vua David nổi xung buộc tội anh nhà giàu giết chiên hàng xóm; nhưng Nathan tuyên án vua David: anh nhà giàu đó chính là nhà vua! Lúc đó vua David mới nhận ra lỗi mình mà kêu xin lòng thương xót của Thiên Chúa. Trong bài đọc II, trước biến cố ngã ngựa trên đường đi Damascus, Phaolô vẫn nghĩ con người có thể được cứu độ bằng việc giữ trọn vẹn Lề Luật; nhưng sau biến cố được soi sáng đó, Phaolô phải khiêm nhường nhìn nhận: không ai có thể giữ trọn vẹn Lề Luật. Vì thế, mọi người phải tin vào Đức Kitô mới được hưởng ơn cứu độ. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu cũng kể một câu truyện và đòi người kinh sư phải trả lời; sau đó Chúa mới vạch trần sự khinh thường đón khách và sự kết án người khác của anh.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC
1/ Bài đọc I: Tiên tri Nathan giúp cho vua David xét mình.
Để hiểu rõ trình thuật hôm nay, độc giả cần đọc lại những chương trước; nhất là câu truyện tiên tri Nathan kể về hai người hàng xóm trước đoạn này (2 Sam 12:1-6).
1.1/ Nhận ra những hồng ân Thiên Chúa đã làm cho nhà vua:
Sau khi Nathan kể chuyện, vua David bừng bừng nổi giận kết tội anh nhà giàu và ra hình phạt cho anh. Nhưng Nathan nói với vua David: "Kẻ đó chính là ngài! Đức Chúa, Thiên Chúa của Israel, phán thế này: Chính Ta đã xức dầu phong ngươi làm vua cai trị Israel, chính Ta đã giải thoát ngươi khỏi tay vua Saul. Ta đã ban cho ngươi nhà của chúa thượng ngươi, và đã đặt các người vợ của chúa thượng ngươi vào vòng tay ngươi. Ta đã cho ngươi nhà Israel và Judah. Nếu bấy nhiêu mà còn quá ít, thì Ta sẽ ban thêm cho ngươi gấp mấy lần như thế nữa.”
1.2/ Nhận ra tội lỗi nhà vua đã xúc phạm đến Thiên Chúa:
Vua David biết Nathan ám chỉ mình chính là người giàu có trong chuyện, và những gì xảy ra trong quá khứ David tưởng không ai biết giờ được Nathan thuật lại từng chi tiết.
(1) Tội giết người không vũ khí của David: Nathan tiếp tục: “Vậy tại sao ngươi lại khinh dể lời Đức Chúa mà làm điều dữ trái mắt Người? Ngươi đã dùng gươm đâm Uriah, người Hittite; vợ y, ngươi đã cướp làm vợ ngươi; còn chính y, ngươi đã dùng gươm của con cái Ammonites mà giết. Ấy vậy, gươm sẽ không bao giờ ngừng chém người nhà của ngươi, bởi vì ngươi đã khinh dể Ta và cướp vợ của Uriah, người Hittite, làm vợ ngươi.” David không trực tiếp dùng gươm đâm, nhưng âm mưu gởi Uriah ra chỗ mặt trận gay cấn nhất mà không cho quân cứu viện để Uriah phải tử trận vào tay quân thù. Mục đích là để David lấy được bà Batsheba, vợ của Uriah.
(2) Vua David ăn năn thống hối: Bấy giờ vua David nói với ông Nathan: "Tôi đắc tội với Đức Chúa." Ông Nathan nói với vua David: "Về phía Đức Chúa, Người đã bỏ qua tội của ngài; ngài sẽ không phải chết.” Kể từ đó, bao nhiêu điều khốn khổ đã xảy ra trong nhà David; nhưng nhà vua không dám than phiền Thiên Chúa vì đã biết tội mình.
2/ Bài đọc II: Không phàm nhân nào sẽ được nên công chính vì làm những gì Luật dạy.
2.1/ Xét mình theo tương quan với Lề Luật:
Trình thuật của Thư Galat hôm nay là trọng tâm đạo lý của Thư. Để hiểu tại sao Phaolô có thể kết luận: “con người được nên công chính không phải nhờ làm những gì Luật dạy, nhưng nhờ tin vào Đức Giêsu Kitô, nên chúng ta cũng tin vào Đức Giêsu Kitô, để được nên công chính, nhờ tin vào Đức Kitô, chứ không phải nhờ làm những gì Luật dạy. Quả thế, không phàm nhân nào sẽ được nên công chính vì làm những gì Luật dạy.” Chúng ta phải trở lại biến cố đã xảy ra cho Phaolô trên đường đi Damascus. Lúc đó, Phaolô còn là một “kinh sư thủ cựu” đang trên đường đi bắt bớ các tín hữu theo Đức Kitô tại Damascus; vì Phaolô nghĩ họ là những người chống lại Lề Luật tốt lành của cha ông để lại. Nhưng một luồng ánh sáng từ trời chiếu xuống làm ông ngã ngựa và bị mù. Sau đó, Đức Kitô Phục Sinh thân hành hiện đến với Phaolô và chứng minh cho ông Ngài vẫn sống.
Sau đó, Ngài mở mắt cả phần xác lẫn phần hồn cho Phaolô để ông hiểu: Lề Luật tốt lành, nhưng không một ai có thể giữ tất cả Lề Luật. Theo Lời Chúa phán với Moses, chỉ cần vi phạm một Luật thôi, con người cũng phải mang án tử. Vì vậy, không ai trở nên công chính nhờ việc giữ Luật, vì mọi người đều phạm tội. Hậu quả của tội là mọi người đều phải chết.
2.2/ Tại sao Đức Kitô phải đến?
Vì không ai có thể nên công chính và được cứu độ, nên Đức Kitô phải đến và lãnh hình phạt thay cho con người. Khi con người được xóa tội, con người được nên công chính với Thiên Chúa. Khi đã nên công chính, con người không phải chết nữa.
Vì thế, Phaolô xác tín: “Quả thế, tại vì Lề Luật mà tôi đã chết đối với Lề Luật, để sống cho Thiên Chúa. Tôi cùng chịu đóng đinh với Đức Kitô vào thập giá. Tôi không làm cho ân huệ của Thiên Chúa ra vô hiệu, vì nếu người ta được nên công chính do Lề Luật, thì hoá ra Đức Kitô đã chết vô ích.”
3/ Phúc Âm: "Lòng tin của chị đã cứu chị. Chị hãy đi bình an."
Tại sao ông Pharisee Simon mời Chúa dùng bữa ăn? Chắc hẳn là không như một khách quí, vì ông đã không chu toàn nhiệm vụ hiếu khách. Chắc hẳn cũng không tìm cách hại Chúa như các kinh sư khác vì ông gọi Chúa bằng danh xưng Rabbi (Thầy). Nhưng có lẽ ông là người ở giữa muốn được phổ thông và cũng muốn được nghe Chúa dạy.
Người phụ nữ phải là khán giả của Chúa. Chị đã được nghe và cải hóa bởi những lời giảng dạy nên bày tỏ lòng ăn năn và tình yêu với Chúa. Sự kiện chị ấy xõa tóc trước công chúng bị coi là hành động không thể chấp nhận của một phụ nữ đứng đắn; nhưng chị không quan tâm vì chị sống thực lòng mình. Chị biết chị là người tội lỗi và nghĩ mọi người chung quanh biết điều đó, nên chẳng cần phải che đậy gì nữa.
Phong tục của người Do-thái: Khi khách đến thăm, chủ nhà sẽ đặt một tay trên vai khách và hôn khách, sau đó sẽ lấy nước rửa chân cho khách, sau cùng sẽ nhỏ trên đầu khách vài giọt dầu thơm. Ông kinh sư này đã không làm bất cứ thủ tục nào theo truyền thống cho Chúa Giêsu cả.
Không những thế, ông còn xét đoán cả Chúa và người phụ nữ: "Nếu quả thật ông này là ngôn sứ, thì hẳn phải biết người đàn bà đang đụng vào mình là ai, là thứ người nào: một người tội lỗi!"
3.1/ Chúa Giêsu mời ông Pharisee xét mình.
Giống như trình thuật Nathan-David trong bài đọc I, Chúa Giêsu cũng kể một câu truyện cho ông kinh sư. Thoạt nghe, ông kinh sư thấy chẳng có gì liên quan đến mình cả.
(1) Qua ví dụ hai con nợ: Đức Giêsu lên tiếng bảo ông: "Này ông Simon, tôi có điều muốn nói với ông!" Ông ấy thưa: "Dạ, xin Thầy cứ nói." Đức Giêsu nói: "Một chủ nợ kia có hai con nợ: một người nợ năm trăm quan tiền, một người năm chục. Vì họ không có gì để trả, nên chủ nợ đã thương tình tha cho cả hai. Vậy trong hai người đó, ai mến chủ nợ hơn?" Ông Simon đáp: "Tôi thiết tưởng là người đã được tha nhiều hơn." Đức Giêsu bảo: "Ông xét đúng lắm."
(2) Qua trường hợp cụ thể: Quay lại phía người phụ nữ, Người nói với ông Simon: "Ông thấy người phụ nữ này chứ? Tôi vào nhà ông: nước lã, ông cũng không đổ lên chân tôi, còn chị ấy đã lấy nước mắt tưới ướt chân tôi, rồi lấy tóc mình mà lau. Ông đã chẳng hôn tôi một cái, còn chị ấy từ lúc vào đây, đã không ngừng hôn chân tôi. Dầu ôliu, ông cũng không đổ lên đầu tôi, còn chị ấy thì lấy dầu thơm mà đổ lên chân tôi. Vì thế, tôi nói cho ông hay: tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều. Còn ai được tha ít thì yêu mến ít."
3.2/ Chúa Giêsu tha tội cho người phụ nữ.
Rồi Đức Giêsu nói với người phụ nữ: "Tội của chị đã được tha rồi." Bấy giờ những người đồng bàn liền nghĩ bụng: "Ông này là ai mà lại tha được tội?" Nhưng Đức Giêsu nói với người phụ nữ: "Lòng tin của chị đã cứu chị. Chị hãy đi bình an."
Niềm tin của người phụ nữ biểu lộ qua tình thương chị dành cho Chúa Giêsu. Chúa không khen tội của người phụ nữ; nhưng Chúa tuyên dương hành động thống hối của chị. Chị biết mình có tội, và tội rất nhiều; nhưng chị tin vào lòng thương xót của Chúa Giêsu sẽ tha mọi tội cho chị. Vì chị có tội nhiều, nên chị biết ơn nhiều khi được tha nhiều. Và chị tìm thấy sự bình an.
Còn ông Pharisee, chúng ta không thấy trình thuật nói về phản ứng của ông, một lời xin lỗi Chúa cũng không thấy đề cập đến. Thực ra, mọi người đều có tội. Khi một người không cảm thấy có tội là do bởi xét mình chưa kỹ thôi. Điều nguy hiểm cho những người tự cho mình là công chính là họ không cần đến Chúa và tình thương tha thứ của Ngài.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta cần phải thường xuyên xét mình để nhận ra tội lỗi và khẩn cầu ơn tha thứ của Chúa. Người không năng xét mình sẽ không nhận ra các tội để chừa.
- Sau khi đã hòa giải với Thiên Chúa, chúng ta phải rộng lòng tha nhứ cho những người đã xúc phạm đến chúng ta.
- Chúng ta cần phải tránh xa việc xét đoán tha nhân. Hãy để việc đó cho Thiên Chúa. Chúng ta chỉ cần biết một điều: đã là người ai cũng có những giây phút yếu lòng cả.
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.


12/06/16 CHÚA NHT TUN 11 TN – C
Lc 7,36-8,3

Suy nim: Va qua, mt nhiếp nh gia M đã gây sng st khi công b b nh chp cnh dùng máy cưa nát chiếc túi Birkin tr giá trên 100.000 đô la. Gii thích lý do tiêu hy đ vt đt tin đó, người bn thân ca nhà nhiếp nh cho biết: h mun chng li thói l thuc ca con người vào nhng giá tr vt cht. Người ph n trong Tin Mng hôm nay có mt hành đng tương t, đ c chai du thơm ho hng đ xc chân Chúa. Ch không ch bày t quyết đnh chm dt l thuc vt cht, nhng th mà sut nhng năm dài qua ch đã bán mình đ kiếm ly và dùng nó đ bôi thơm cho con người ti li ca ch, mà còn bày t s dt khoát đi vi ti li. Chính Chúa là đng lc đ ch đi đến quyết đnh gây sng st đó. S thay đi như thế xut phát t lòng yêu mến Chúa.
Mi Bn: Có nhng th vt cht nào đang lôi kéo bn xa Chúa? Nhng quyến luyến bt chính nào đang ràng buc bn? Bn có dám ri khi nhng dan díu y đ bày t đc tin và lòng yêu mến ca bn vào Chúa Giê-su không?
Chia s vi nhau mt kinh nghim bày t lòng yêu mến Chúa có n tượng vi bn nht.
Sng Li Chúa: Quyết tâm t b mt tt xu đ bày t lòng yêu mến Chúa.
Cu nguyn: Ly Chúa Giê-su, Chúa đã không chê ghét người ph n ti li, xin cũng đng b rơi chúng con, nhưng xin cho chúng con biết sn sàng bày t lòng yêu mến Chúa trong nhng hành đng ca chúng con. Amen.

Ch hãy đi bình an (12.6.2016 – Chúa nht 11 Mùa Thường niên, năm C)

Suy nim:
Ch Luca mi nói đến chuyn các người Pharisêu mi Đc Giêsu dùng ba.
H mi Đc Giêsu d tic ba ln (7, 36; 11, 37; 14, 1).
H còn báo cho ngài biết v vic Hêrôđê toan ám hi ngài (13, 31).
Xem ra không phi mi người Pharisêu đu có ác cm vi Đc Giêsu.
Hôm nay Đc Giêsu là khách mi ca ông Simon.
Ngài chng ngi đáp li li mi ca mt người thuc phái Pharisêu,
cũng như ngài đã chng s làm bn vi người thu thuế và ti li (Lc 7, 34).
Khi ăn tic ln x Palestine thi đó
các v khách thường ng người nm trên nhng chiếc ghế dài, có gi,
chân đưa ra ngoài, tay trái dùng đ ta, còn tay phi đ ly thc ăn.
Khi nhà có đi tic, người ngoài được t do ra vào.
Bt ng có mt ph n mnh dn bước vào phòng tic.
Người ta nhn ra ch là mt người ti li sng trong thành ph,
nhưng không chc ch có phi là mt cô gái điếm không.
Ch c ý đến đây vì biết Đc Giêsu đang có mt trong ba tic.
Đây là người mà ch đã tng gp và đã nhn được ơn tha th.
Ch đã chun b khá k và biết rt rõ vic mình sp làm cho Ngài.
Ch đem theo mt bình bch ngc đng du thơm (c. 37).
Đng gn chân Đc Giêsu, ch bt khóc nc n.
Nước mt ch làm ướt chân Ngài.
Nhng git nước mt ăn năn vì ti li quá kh,
hay vui sướng vì biết mình đã đoc th tha ?
Sau đó ch ci khăn choàng đu và xõa tóc đ lau khô chân Đc Giêsu.
Cui cùng, ch còn hôn lên chân và xc du thơm na.
Nói chung, nhng c ch táo bo ca ch tht hết sc chướng mt
đi vi nhng người d tic trong xã hi thi đó (và bây gi cũng vy !).
Xõa tóc trước công chúng là điu ph n Do Thái không được phép làm,
vut ve và hôn chân mt người đàn ông hn là nhng c ch khêu gi.
Hơn na, ch li là mt người ti li có tiếng trong thành.
Mt con người nhơ uế như ch khi đng chm s làm người khác nhơ uế.
Chúng ta không ngc nhiên khi thy ông Simon nghĩ thm:
“Nếu qu tht ông này là ngôn s, thì hn ông phi biết
người ph n đang đng vào mình là ai, vì ch ta là mt người ti li.
Đc Giêsu có biết không? Nếu không, thì Ngài không phi là ngôn s.
Nhưng nếu Ngài biết, mà ngài li c đ ch làm như vy,
thì còn gì là danh d ca ông Simon và ca chính Ngài na!
Đc Giêsu biết ch là ai, biết c điu Simon thm nghĩ (x. 5, 21-22; 6, 7-8).
Ngài không phn ng gì vì ngài hiu ý nghĩa điu ch làm.
Đó không phi là c ch khêu gi ca mt cô gái làng chơi,
nhưng là nhng hành vi din t lòng biết ơn ca người được tha th.
Đc Giêsu hiu nhng git nước mt ca ch, va hi hn, va hnh phúc. 
Ngài hiu c nhng c ch có v quyến rũ ca ch trên đôi chân mình:
ra chân bng nước mt, lau chân bng tóc, hôn chân và xc du thơm.
Ngài đc thy trong đó lòng trân trng và biết ơn.
Đó là s trào dâng không th cưỡng li được ca tâm tình yêu mến.
Tuyt đi không có chút nhơ uế nào nơi nhng c ch y.
Và Đc Giêsu đã đón nhn tt c vi trái tim thanh khiết ca mình.
Đ soi sáng cho ông Simon hiu v hành đng ca người ph n
Đc Giêsu k cho ông nghe mt d ngôn kèm theo mt câu hi (cc. 41-42)
Hai người cùng mc n, mt người 500 quan tin, mt người 50.
c hai cùng được ch n tha vì h không có gì đ tr
“Vy trong hai người đó, ai s yêu mến ch n hơ?”
Câu h
i chng có gì khó đi vi Simon và ông đã tr li đúng.
Ta nên lưu ýyêu mến  đây có nghĩa là biết ơn.
T nhiên người được tha nhiu thì s biết ơn nhiu, k được tha ít s biết ơn ít.
D ngôn đơn gin ca Đc Giêsu được áp dng vào thc tế.
Rõ ràng là ch ph n đã yêu mến Đc Giêsu hơông Simon.
Đc Giêsu làm mt so sánh gia cách tiếp đón ca hai người (cc.44-46).
Simon đã chng cho Ngài nước đ ra chân, chng hôn, chng xc du trên đu.
Dĩ nhiên đó chng phi là nhng đòi hi bt buc khi tiếp khách,
nhưng dù sao cách tiếp khách ca Simon cũng nht nho hơn so vi ch kia.
Câu 47 là mt câu quan trng đ hiu đúng ý ca đon Tin Mng này.
Câu này trước đây thường được dch như sau:
“Ti ca ch y tuy nhiu, nhưng đã được tha, vì (hoti) ch đã yêu mến nhiu.
Còn ai được tha ít thì yêu mến ít,
Dch như thế d gây hiu lm rng vì yêu nhiu nên ch được tha nhiu.
Tht ra phi hiu ngược li mi đúng.
Chính vì ch được tha nhinên ch mi yêu mến biết ơn nhiu.
Lòng yêu mến là kết qu, ch không phi là nguyên nhân ca s tha th.
Lòng biết ơn đến sau khi nhn ơn.
Hiu như thế s hp vi ý nghĩa ca d ngôn (cc. 41-42), 
và hp vi vế sau ca câu 47: còn ai được tha ít thì yêu mến ít.
Chng rõ ông Simon có nhn ra mình là ai chưa.
Ông đúng là người yêu ít hơn ch ph n ti li kia,
vì ông được tha ít hơn, vì ông có ít ti hơn !!!
Nhưng có tht ông ít ti hơn người ph n ti li này không?
Hay vì t hào mà ông không thy cn đến s tha th ca Thiên Chúa?
T hào v đo đc vn là mt vt cn khiến người ta khép li và vô ơn.
Người ph n ti li là ngườyêu hơn (c. 42) và yêu nhiu (c. 47).
Ti quá kh, khi được tha, li to nên mt hng khi mi đ người ta yêu hơn.
Nhng vp ngã khi được cha lành li tr nên mt khi đu cho cuc sng mi,
can đm hơn, qung đi hơn và nng cháy hơn.
Cui cùng, Đc Giêsu đã quay li nói chuyn vi người ph n.
Ngài khng đnh lơn mà ch đã lãnh nhn trước khi ch bước vào phòng tic:
“Ti ca ch đã được tha ri, Ngài nhc cho mi người biết chuyn đó.
Như thế Đc Giêsu không phi ch là mt ngôn s như Simon nghĩ.
Ngài còn ln hơn mt ngôn s na khi dám tha ti cho ch.
Cui cùng, Đc Giêsu li ca ngi lòng tin ca ch.
Lòng tin thm đượm tình yêu, hay tình yêu thm đượm lòng tin.
C hai quyn vào nhau giúp ch đón ly ơn cu đ, ơn bình an:
Lòng tin ca ch đã cch. Ch hãy đbình an” (c. 50).
Chúng ta có th hc được nhiu điu nơi người ph n:
lòng tin mãnh lit vào s tha th, lòng mến táo bo ca s biết ơn,
Chúng ta cũng cm nghim được sc mnh ca ơn tha th ca Thiên Chúa.
Sc mnh y có th làm mi li cuc đi mt ph n hư hng,
và dy ch biết yêu như yêu ln đu.
Chng rõ ông Simon có hc được điu gì t biến c này không?
Cu nguyn:
Ly Thiên Chúa, đây li tôi cu nguyn :
Xin t
n dit, tn dit trong tim tôi
m
i bin ln tm thường.
Xin cho tôi sc mnh thn nhiên
đ gánh chu mi bun vui.
Xin cho tôi sc mnh hiên ngang
đ
đem tình yêu gánh vác vic đi.
Xin cho tôi sc mnh ngoan cường
đ chng bao gi khinh r người nghèo khó,
hay c
úi đu khut phc trước ngo mn, quyn uy.
Xin cho tôi sc mnh do dai
đ nâng tâm hn vươn lên khi ti tin hng ngày.
Và cho tôi sc mnh tràn tr
đ âu yếm dâng mình theo ý Người mun.
R. Tagore
(
Đ Khánh Hoan dch)
Lm. Antôn Nguyn Cao Siêu, S.J.

12 Tháng Sáu
Ngọn Lửa Không Hề Tắt

Tong tác phẩm Ðại Học Máu, văn sĩ Hà Thúc Sinh cũng giống như văn hào Nga Solzenitzyn ghi lại thân phận tù đày của các tù nhân Việt Nam trong các trại học tập. Nhưng giữa những đọa đày cùng cực của kiếp người, Hà Thúc Sinh vẫn có cái nhìn lạc quan về thân phận con người. Con người bị bạo hành ở những mức độ vô nhân nhất mà vẫn khôi hài, cười đùa, bỡn cợt được.
Trong tác phẩm đầu tay của ông có tựa đề "Hai chị em", Hà Thúc Sinh đã nêu bật được hình ảnh con người tranh đấu lạc quan, chẳng còn biết gì để sợ, sẵn sàng kịch liệt chống lại định mệnh để tự thắng và tự cứu mình... Hai chị em Lan và Trực bị đắm tàu trong một cuộc vượt biên đầy nguy hiểm. Là hai người duy nhất còn sống sót, họ trôi dạt và tấp vào một hoang đảo giữa Thái Bình Dương. Trong nguyên một tuần lễ, tác giả đề cao sức chịu đựng, tinh thần tháo vát của hai chị em. Sau một tuần lễ chịu đựng, người chị ngã bệnh, Trực bèn kết bè để ra khơi mong tìm lại được chiếc ghe đắm trên đó còn chút ít lương thực, thuốc men và quần áo. Khi ra đi, anh đã nhóm đã nhóm được một ngọn lửa trên núi cao vừa làm dấu hiệu để kêu gọi sự chú ý của thuyền bè qua lại trong vùng, vừa lấy đó như ngọn hải đăng để còn có thể quay lại đảo... Nhưng anh đã ra đi và không bao giờ trở lại hoang đảo... Sóng to gió lớn có lẽ đã chôn vùi anh giữa lòng đại dương. Người chị tất tả chạy ra bãi cát giữa cơn giông bão để réo gọi tên em.
Tác giả đã kết thúc câu chuyện như sau: "Nếu có thuyền bè chạy qua eo biển, một vùng hoang đảo trên Thái Bình Dương những ngày biển lặng sau đó, chú mục, người ta có thể nhìn thấy một ngọn lửa. Ngịn lửa ấy đốt bập bùng trên một triền núi, khi lớn, khi nhỏ, khi tỏ, khi mờ. Nhưng có điều chắc chắn là nó chưa hề tắt".
Sống là một cuộc chiến đấu không ngừng. Chiến đấu chống lại với những khắc nghiệt của thiên nhiên, chống lại không biết bao nhiêu kẻ thù, chống lại với chính bản thân đầy ươn hèn, xấu xa.
Nhưng người Kitô hữu không phải là một thứ anh hùng khắc kỷ, tự chiến đấu một mình và tin ở sức mạnh vô song của ý chí. Chúa Giêsu đã chiến đấu, nhưng Ngài không là một anh hùng của một ý chí sắt đá. Sức mạnh duy nhất của Ngài chính là Thiên Chúa. Lương thực của Ngài chính là Thánh ý Chúa Cha. Khí giới của Ngài là sự kết hiệp với Chúa Cha.
Qua ba cơn cám dỗ, Chúa Giêsu đã luôn luôn qui chiếu vào Lời Chúa. Lời của Chúa là khí giới, là thuẫn đỡ của Ngài.
Tôi sống nhưng không phải là tôi sống, mà chính là Ðức Kitô sống trong tôi. Ðó phải là ý lực sống của chúng ta. Chúng ta cũng hãy nói: tôi chiến đấu, nhưng không phải là tôi chiến đấu, mà chính Ðức Kitô chiến đấu trong tôi. Sức mạnh của Kitô giáo, bản chất của Kitô giáo không phải là tổng số của các tín hữu, mà chính là Sự Sống của Ðức Kitô đang châu lưu trong từng người tín hữu.
Lẽ Sống


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét