22/06/2016
Thứ Tư tuần 12 thường niên
Bài Ðọc
I: (Năm II) 2 V 22, 8-13; 23, 1-3
"Vua
đọc cho mọi người nghe lời sách giao ước đã tìm thấy trong Nhà Chúa, ký kết
giao ước trước mặt Chúa".
Trích
sách Các Vua quyển thứ hai.
Trong
những ngày ấy, thượng tế Helcia nói với thư ký Saphan rằng: "Tôi tìm thấy
sách luật trong Nhà Chúa". Helcia trao sách cho Saphan đọc. Rồi thư ký
Saphan đến cùng vua, và thuật lại cho vua rằng: Tôi tớ vua đã thu lượm số bạc
dâng cúng trong nhà Chúa, và trao cho đốc công nơi Ðền thờ Chúa, để phát lương
cho thợ. Thư ký Saphan cũng thuật cho vua rằng: "Tư tế Helcia đã trao cho
tôi cuốn sách". Thư ký Saphan đã đọc sách đó trước mặt vua. Khi nghe lời
sách luật Chúa, vua liền xé áo mình, rồi truyền cho tư tế Helcia và Ahica con
Saphan, Acôbor con Mica, và thư ký Saphan cùng Asaia người hầu cận vua rằng:
"Các ngươi hãy đi hỏi ý Chúa cho trẫm, cho toàn dân và cho nhà Giuđa, về
các lời sách vừa tìm thấy. Cơn thịnh nộ của Chúa đối với chúng ta nặng nề lắm,
vì cha ông chúng ta không tuân giữ các lời trong sách này". Họ thuật lại
cho vua các lời của Chúa.
Bấy
giờ vua sai đi triệu tập các trưởng lão Giuđa và Giêrusalem đến cùng vua. Vua
lên Ðền thờ Chúa với những người thuộc chi tộc Giuđa, toàn thể dân cư
Giêrusalem, các tư tế, các tiên tri và toàn dân lớn bé, ông đọc cho mọi người
nghe lời sách giao ước đã tìm thấy trong Nhà Chúa. Vua đứng trên bệ, ký kết
giao ước trước mặt Chúa, để ai nấy đi theo Chúa, cùng hết lòng hết sức tuân giữ
các huấn lệnh, các lề luật và nghi lễ của Chúa. Họ làm sống lại các lời giao ước
đã ghi chép trong sách này: cả dân đều chấp nhận bản giao ước.
Ðó là
lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 118, 33. 34. 35. 36. 37. 40
Ðáp: Lạy Chúa, xin dạy bảo con đường lối
thánh chỉ Ngài (c. 33a).
Xướng:
1) Lạy Chúa, xin dạy bảo con đường lối thánh chỉ Ngài, để con tuân giữ cho bằng
triệt để. - Ðáp.
2)
Xin dạy con để con vâng theo luật pháp Ngài, và để con hết lòng tuân giữ luật
đó. - Ðáp.
3)
Xin hướng dẫn con vào đường lối chỉ chị Ngài, vì chính trong đường lối này con sung
sướng. - Ðáp.
4)
Xin nghiêng lòng con theo lời Ngài nghiêm huấn, và chớ để con sa ngã vào chỗ lợi
danh. - Ðáp.
5)
Xin cho con ngoảnh mặt, khỏi thấy cảnh phù vân; xin cho con được sống noi theo
đường lối Chúa. - Ðáp.
6)
Này đây, con khao khát huấn lệnh của Ngài, theo lượng công minh Ngài, xin cho
con được sống. - Ðáp.
Alleluia:
Ga 14, 23
Alleluia,
alleluia! - Chúa phán: "Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha
Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy". -
Alleluia.
Phúc
Âm: Mt 7, 15-20
"Hãy
xem quả thì các con sẽ biết chúng".
Tin Mừng
Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy,
Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Hãy coi chừng các tiên tri giả. Họ
mặc lốt chiên đến cùng các con, nhưng bên trong, họ là sói dữ hay cắn xé. Hãy
xem quả thì các con sẽ biết được chúng. Nào ai hái được trái nho nơi bụi gai,
hoặc trái vả nơi bụi găng sao? Cũng thế, cây tốt thì sinh trái tốt, còn cây xấu
thì sinh trái xấu. Cây tốt không thể sinh trái xấu, và cây xấu không thể sinh
trái tốt. Các cây không sinh trái tốt sẽ bị chặt đi và ném vào lửa. Vậy coi
trái thì các con sẽ nhận biết được chúng".
Ðó là
lời Chúa.
Suy Niệm:
Xem quả biết cây
Nhà
tu đức học nổi tiếng người Ấn Ðộ là cha Anthony de Mello có kể câu truyện ngụ
ngôn: Một vị giáo sĩ nọ đến gặp một tiên tri và xin ngài cầu nguyện cho một đôi
vợ chồng trẻ: họ là những người rất mực đạo đức, nhưng không có con. Nghe thế vị
tiên tri trả lời: "Ta rất lấy làm tiếc, Chúa không muốn cho họ có
con".
Thế
nhưng, 5 năm sau, vị giáo sĩ trở lại thăm đôi vợ chồng trẻ, lần này ông nghe thấy
tiếng trẻ con cười đùa trong nhà. Người chồng giải thích rằng cách đây 5 năm,
có một người hành khất lang thang trước nhà họ, người chồng mời người hành khất
vào nhà, cho ăn uống và mặc quần áo mới cho. Trước khi từ giã, người hành khất
đã chúc lành cho đôi vợ chồng trẻ và Chúa đã ban cho họ được hai đứa con.
Vị
giáo sĩ trở lại gặp vị tiên tri để xin một lời giải thích. Vị tiên tri mỉm cười
trả lời: "Ta chỉ có thể nói rằng có một vị thánh đã đến thăm đôi vợ chồng
trẻ này, và nhờ lời chúc phúc của ngài, họ đã có được hai đứa con; các thánh có
cách thay đổi chương trình của Thiên Chúa".
Một
cuộc sống thánh thiện lúc nào cũng có âm hưởng trên người khác, một chứng tá đức
tin luôn có sức đánh động người khác. Ðó có thể là ý tưởng nổi bật trong Tin Mừng
hôm nay. Chúa Giêsu nói đến trái tốt từ cây tốt. Qua kiểu nói này, hẳn Chúa
Giêsu muốn nói đến những thể hiện đích thực của lòng tin: một đức tin chân thật
luôn đi đôi với việc làm cụ thể. Chính Ngài đã nói: "Không phải những ai
đã nói: Lạy Chúa, lạy Chúa, là được vào Nước Trời, mà chỉ những ai thực hành ý
Chúa mới được vào mà thôi". Thánh Giacôbê đã lấy lại giáo huấn này khi
ngài viết: "Ðức tin không có việc làm là đức tin chết tận gốc rễ".
Chúa
Giêsu tỏ lòng cảm thông và tha thứ cho những yếu hèn và vấp ngã của con người,
nhưng Ngài không hề dung chấp cho thái độ giả hình của những người Biệt phái.
Ngài gọi họ là những tiên tri giả, những người đội lốt chiên mà bên trong là
lòng dạ của sói dữ. Họ trưng bày một bộ mặt đạo đức, nhưng cuộc sống của họ gồm
toàn những hành động xấu xa.
Chúa
Giêsu mời gọi chúng ta đề cao cảnh giác trước thói giả hình. Bao lâu giữa niềm
tin và cuộc sống còn có khoảng cách, thì bấy lâu chúng ta vẫn còn là những kẻ
giả hình; trên cây đức tin của chúng ta chỉ có những quả xấu; cuộc sống chỉ còn
là những phản từ, hay nói theo ngôn ngữ quen thuộc: chúng ta làm ố danh sự đạo.
Thánh Phaolô đã nhắn nhủ tín hữu Côrintô: Những người rước Mình Thánh Chúa mà vẫn
tiếp tục sống trong chia rẽ và kỳ thị, là những người sống trong mâu thuẫn
không thể chấp nhận được, và họ rước Mình Thánh Chúa một cách bất xứng. Bí tích
Thánh Thể không thể tách rời khỏi giới răn yêu thương: người ta không thể rước
Mình Thánh Chúa mà đồng thời lại sống xa lạ với anh em đang bị đói khát, đau yếu,
tù đày. Từ việc rước lễ phải nẩy sinh trong chúng ta sức mạnh của niềm tin yêu
khiến chúng ta cởi mở với tha nhân, có lòng từ bi đối với những người sống
trong túng thiếu và quẫn bách.
Ước
gì chúng ta luôn biết thể hiện đức tin của chúng ta bằng những hành động cụ thể.
Ước gì hoa trái của đức tin chúng ta trở thành của ăn có sức nuôi dưỡng bồi bổ
đối với những người xung quanh.
Veritas Asia
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Tư Tuần 12 TN2, Năm Chẵn
Bài đọc: 2 Kgs 22:8-13; 23:1-3; Mt 7:15-20.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Hãy sống xứng đáng với danh hiệu mình
mang.
Theo
thuyết Chính Danh của Khổng Tử: làm vua phải biết lo cho dân được ấm no và bình
an, làm dân phải biết tuân giữ các mệnh lệnh và chu toàn bổn phận của mình; làm
cha phải biết thương yêu và giáo dục con cái nên người, làm con phải biết vâng
lời và báo hiếu cha mẹ. Nếu mọi người trong nước và trong gia đình đều biết sống
đúng như danh hiệu của mình, dân chúng sẽ an cư lạc nghiệp, gia đình sẽ yên vui
hạnh phúc, và đất nước sẽ bình an.
Các
bài đọc hôm nay muốn đưa ra những tấm gương để mọi người nhìn vào đó và nhận ra
mình đã sống đúng với danh hiệu của mình chưa. Trong bài đọc I, khi sửa chữa Đền
Thờ, thượng tế Hilkiah đã tìm lại được quyển Sách Luật đã bị bỏ quên lâu năm.
Ông đưa cho viên ký lục của vua đọc. Sau đó viên ký lục này trình lên đức vua.
Khi vua Josiah đọc Sách Luật, ông kinh hoảng về những lời dạy trong đó, và truyền
cho thượng tế Hilkiah canh tân toàn thể vương quốc theo sự chỉ dẫn của Sách dạy.
Vì thế, vua đã cứu vương quốc mình thoát khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa.
Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đề phòng cho dân chúng đừng tin các ngôn sứ giả. Họ
là những chó sói đội lốt người chăn chiên để rình chờ cắn xé chiên. Để giúp dân
nhận ra những ngôn sứ giả, Chúa Giêsu khuyên dân chúng đừng đánh giá bằng bộ áo
họ mặc; nhưng nhìn vào cuộc sống của họ, vì cây tốt không thể sinh quả xấu.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài
đọc I: “Chúng ta đã không
vâng nghe các lời trong sách này mà làm theo mọi điều đã viết trong đó."
1.1/
Sách Luật của Thiên Chúa bị bỏ quên: Một điều ngạc nhiên đây là Sách mà hầu hết các học giả đều đồng
ý là Sách Đệ Nhị Luật, một trong Ngũ Thư (5 quyển sách đầu tiên của Cựu Ước).
Làm sao một sách quan trọng như thế lại bị bỏ quên trong Đền Thờ đến nỗi thầy
thượng tế cũng không biết cho đến khi vua truyền phải sửa chữa Đền Thờ?
Thượng
tế Hilkiah nói với ký lục Shaphan: "Tôi đã tìm thấy sách Luật trong Nhà Đức
Chúa." Ông Hilkiah trao sách cho ông Shaphan đọc. Ký lục Shaphan đến gặp
vua và trình lên vua rằng: "Tư tế Hilkiah đã đưa cho tôi một cuốn
sách." Sau đó, ông Shaphan đọc sách trước mặt vua.
Nghe
những lời ghi chép trong sách Luật, vua xé áo mình ra, rồi truyền lệnh sau đây
cho tư tế Hilkiah, cho ông Ahikam, con ông Shaphan, cho ông Achbor, con ông
Micaiah, cho ký lục Shaphan và ông Asaiah, tôi tớ của vua: "Hãy đi thỉnh ý
Đức Chúa cho ta, cho dân và toàn thể Judah về những lời ghi chép trong sách đã
tìm thấy đây, vì Đức Chúa đã bừng bừng nổi cơn thịnh nộ chống lại chúng ta, bởi
lẽ tổ tiên chúng ta đã không vâng nghe các lời trong sách này mà làm theo mọi
điều đã viết trong đó."
1.2/ Vua
Josiah canh tân đất nước đúng như những gì Sách dạy.
Là
người biết kính sợ Đức Chúa, “Vua sai người tập họp chung quanh vua mọi kỳ mục
của Judah và Jerusalem. Rồi cùng với mọi người Judah và mọi dân cư ở Jerusalem,
cùng với các tư tế, các ngôn sứ và toàn dân từ người nhỏ nhất cho đến người lớn
nhất. Vua lên Nhà Đức Chúa, đọc cho họ nghe tất cả các lời trong sách Giao Ước
đã tìm thấy trong Nhà Đức Chúa. Đứng trên bệ cao, vua lập giao ước trước nhan Đức
Chúa, cam kết đi theo Đức Chúa và hết lòng hết dạ tuân giữ các mệnh lệnh, chỉ
thị và quy tắc của Người, để chu toàn các khoản của Giao Ước được ghi chép
trong sách đó. Toàn dân chấp nhận giao ước.”
Chính
vì hành động kính sợ Đức Chúa và canh tân kịp thời của vua Josiah, Thiên Chúa
đã đình chỉ việc giáng phạt Judah.
2/
Phúc Âm: Hãy coi chừng các
ngôn sứ giả!
2.1/
Ngôn sứ thật và ngôn sứ giả: Đời
nào cũng có các ngôn sứ giả. Lịch sử Do-thái không thiếu những hạng người này
như được ghi chép nhiều lần trong Sách ngôn sứ Jeremiah và Ezekiel. Thánh
Phaolô cũng đề phòng môn đệ Timothy về hạng người này và gọi họ là “chó sói”
như Chúa Giêsu gọi hôm nay: “Họ đội lốt chiên mà đến với anh em; nhưng bên
trong, họ là sói dữ tham mồi.” Ngày nay, cũng đầy dẫy những linh mục giả lợi dụng
chiếc áo để gieo những lạc thuyết sai lầm và tìm kiếm lợi nhuận. Làm sao để nhận
ra các ngôn sứ giả? Trước tiên chúng ta phải biết một ngôn sứ thật.
(1)
Ngôn sứ thật: Theo định nghĩa đúng, người ngôn sứ là người nói những gì Thiên
Chúa muốn nói như một sấm ngôn hay một sứ điệp, chứ không nhải là người nói
tiên tri những gì sẽ xảy ra, dầu đôi khi có thể như vậy. Ngôn sứ là cái miệng của
Thiên Chúa dùng để nói những gì Ngài muốn nói với con người. Ngày nay, ngôn sứ
thật phải biết Lời Chúa và giảng Kinh Thánh, chứ không phải giảng văn chương và
nói chuyện chính trị. Ngôn sứ thật phải dạy dân biết Luật của Thiên Chúa và can
đảm sửa sai khi cần thiết.
(2)
Ngôn sứ giả: Họ không nói lời của Thiên Chúa, thay vào đó họ nói những gì họ muốn
hay lời của người khác rồi đổ cho Thiên Chúa. Họ không dạy cho dân biết Kinh
Thánh và Lề Luật của Thiên Chúa, nhiều khi cũng chẳng chịu học biết để dạy. Họ
không dám sửa dạy dân chúng vì sợ mất lòng và bị ghét. Họ thích nói những gì
dân chúng muốn như: khen ngợi nhiều, đừng bắt làm nhiều, nhất là đừng khui tội
của dân chúng ra để lương tâm họ bị cắn rứt.
2.2/
Phương cách để nhận ra các ngôn sứ giả: Để giúp các tín hữu nhận ra những ngôn sứ giả, Chúa Giêsu dạy:
Nhìn quả biết cây; cứ xem họ sinh hoa quả nào, thì biết họ là ai. Các tín hữu
có thể nhìn cách sống của một người để biết ngôn sứ thật hay giả. Hai điều
chúng ta có thể rút ra từ những lời dạy của Chúa Giêsu:
(1) Đừng
nhìn bên ngoài mà đánh giá: Đừng đánh giá bởi bộ áo bên ngoài vì “Chiếc áo
không làm nên thầy tu.” Chúa Giêsu mô tả: “Họ xúng xính trong bộ áo thụng! Họ
đeo những hộp kinh lớn trên trán và các tua áo dài... Họ đọc kinh nhiều và dài
để nuốt hết gia tài các bà góa.”
(2)
Phải nhìn việc làm để đánh giá vì ý hướng bên trong của họ ta không thấy. Họ
không quan tâm gì đến phần hồn của chiên; nhưng để ý đến những gì chiên mang lại
cho họ. Họ như chó sói đội lốt chiên luôn rình chờ để cắn xé đoàn chiên. Một số
các đặc điểm của các ngôn sứ giả:
+
Tham lợi nhuận vật chất: họ thích tiền và những của biếu xén.
+ Ham
danh vọng: Họ lợi dụng chức vụ để xây dựng danh tiếng cho mình. Họ chỉ nhận lời
làm những gì mang lại danh thơm tiếng tốt và chê bỏ những gì tầm thường, hèn
kém.
+
Thích quyền hành: Họ mong những chức vụ cao trọng trong Giáo Hội để được ăn
trên ngồi chốc, hay chán nản bi quan khi cấp cao không nhận ra tài năng quan trọng
của họ.
+ Thỏa
mãn xác thịt: Họ lạm dụng niềm tin của phụ nữ và con trẻ để thỏa mãn xác thịt.
Đây là thứ tội mà Chúa Giêsu kinh tởm và buộc tội: “Thà buộc cối đá và quăng xuống
biển còn hơn!”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Chúng ta hãy biết sống đúng với danh hiệu của mình. Nếu là ngôn sứ, hãy dạy dân
biết Lời Chúa và chỉ đường cho dân đến với Ngài. Nếu là Kitô hữu, hãy vâng lời
và làm những gì Thiên Chúa truyền dạy.
-
Chúng ta đừng đánh giá người khác theo cái vỏ bên ngoài; nhưng hãy nhìn vào việc
làm của họ.
Linh
mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
22/06/16 THỨ TƯ TUẦN 12 TN
Th. Gio-an Phi-sơ, giám mục và Tô-ma Mô, tử đạo
Mt 5,15-20
Th. Gio-an Phi-sơ, giám mục và Tô-ma Mô, tử đạo
Mt 5,15-20
Suy niệm: Ngôn sứ là người được Thiên Chúa tuyển chọn, sai đi thay mặt Ngài để nói với dân Chúa. Khi sai ngôn sứ đi, Thiên Chúa luôn đồng hành với họ qua lời hứa “Ta ở với ngươi” (St 31,3; Xh 3,12...). Thế nhưng, để nhận biết ngôn sứ có được sai đi, có Thiên Chúa ở cùng hay không, chẳng hề đơn giản chút nào. Để phân biệt, Chúa Giê-su dạy: “Cứ xem họ sinh hoa quả nào”. Nếu hoa quả của họ là nói mà không làm (Mt 23,2),
và nếu có làm thì hành động ấy chỉ gây nên chia rẽ, xáo trộn hoặc bất an cho cộng đoàn: đó là ngôn sứ giả. Còn hoa trái của ngôn sứ thật hay của Thần Khí là bác ái, hoan lạc và bình an (x. Gl 5,22).
Mời Bạn: Ngôn sứ không chỉ rao giảng bằng lời nói, đời sống của họ cũng phải là chứng từ để xác minh lời rao giảng. Vì thế, một trong những dấu chỉ nhận biết ngôn sứ thật chính là sự nhất quán giữa nói với làm. Theo lời của Chân phước giáo hoàng Phao-lô VI, thì “Con người thời nay tin vào các chứng nhân hơn là thầy dạy, và nếu có tin vào thầy dạy là vì các thầy dạy cũng là những chứng nhân”.
Sống Lời Chúa: Hãy làm
chứng bằng một đời sống lương thiện, chân thật, từ cách suy nghĩ đến lời nói, cũng như trong hành động.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Ki-tô, vì không muốn chúng con thuộc về thế gian, nên Chúa đã xin Chúa Cha “lấy sự thật mà thánh hiến chúng con.” Xin gìn giữ chúng con khỏi mọi điều gian dối, để nhờ đó thế gian nhận biết rằng Chúa đã sai chúng con. Amen.
Cứ xem quả thì biết họ
Chúng ta cần có thời gian để phân định quả xấu, quả tốt. Và cũng cần có thời gian để nhận ra đâu là sói, đâu là chiên.
Suy niệm:
Thời nào Hội Thánh cũng có những ngôn sứ giả.
Họ mang dáng dấp là người của Chúa, người nói lời
Chúa.
Họ hấp dẫn quần chúng và có nhiều người chạy theo.
Đức Giêsu dạy ta phải coi chừng họ (c. 15).
Ngài dùng một hình ảnh quen thuộc để nói lên mối nguy
cơ này.
Các ngôn sứ giả đội lốt chiên tốt lành mà đến với dân
Chúa.
Nhưng thực chất họ là sói dữ tham mồi.
Cái khó là nhận ra bộ mặt thật của họ để không bị đánh
lừa.
Không nhận ra họ là sói, chúng ta có thể dễ làm mồi
cho họ.
Đức Giêsu dùng một hình ảnh khác
để chỉ cho ta cách phân biệt chiên với sói: hình ảnh
quả và cây.
Cây nào sinh quả ấy: đó là một nguyên tắc bất biến.
“Có ai hái được nho ở bụi gai, hay hái vả trên cây
găng không?” (c. 16).
Hẳn là không rồi.
Cây
tốt ắt sinh quả tốt, cây bị sâu ắt sinh quả chẳng ra gì (c. 17).
Hơn
nữa, Đức Giêsu còn mạnh mẽ khẳng định:
cây
tốt không thể sinh quả xấu,
và
cây xấu không thể sinh quả tốt được (c. 18).
Chính
vì thế cứ nhìn quả thì biết cây.
Cứ
nhìn những công việc do một người làm,
ta sẽ biết người ấy là ai (cc. 16. 20).
Những môn đệ đích thực của Đức Giêsu hẳn sẽ sinh quả
tốt,
đó
là sống công chính như giáo huấn của Bài Giảng trên núi.
Còn
những ngôn sứ giả bị lộ mặt nạ qua đời sống bất chính của họ.
Chuyện
ngôn sứ giả đã có từ xưa trong Cựu ước.
Ở
Côrintô, thánh Phaolô đã phải vất vả đối đầu
với
những kẻ mà ngài gọi là tông đồ giả, đội lốt tông đồ của Đức Kitô.
Ngài
còn thêm: “Lạ gì đâu!
Vì
chính Xatan cũng đội lốt thiên thần sáng láng!” (2 Cr 11, 13-14).
Như
thế các tín hữu phải cảnh giác để phân biệt chân và giả,
đặc
biệt trong thời Hội Thánh gặp khủng hoảng khó khăn.
Họ
phải tỉnh táo để khỏi bị dáng vẻ bên ngoài hay lý luận mê hoặc.
Điều
cần lưu tâm là đời sống công chính của vị ngôn sứ.
Trong
thư gửi tín hữu Galát, thánh Phaolô cho chúng ta một tiêu chuẩn
để
nhận ra hoa quả nào là bắt nguồn từ Thần Khí (5, 22).
Đó
là bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín…
Những
điều ngược lại, ngài gọi là những hành động của xác thịt,
như
hận thù, bất hòa, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái… (5, 20).
Sống
trong một thế giới phẳng và đa nguyên, người kitô hữu hôm nay
chịu
ảnh hưởng mạnh mẽ và nhanh chóng,
bởi
nhiều nguồn thông tin, đến từ nhiều người.
Những
tiêu chuẩn của Đức Giêsu hay của thánh Phaolô vẫn còn giá trị.
Nhưng
chúng ta cần có thời gian để phân định quả xấu, quả tốt.
Và
cũng cần có thời gian để nhận ra đâu là sói, đâu là chiên.
Cầu nguyện:
Như thánh Phaolô trên đường về Đamát,
xin cho con trở nên mù lòa
vì ánh sáng chói chang của Chúa,
để nhờ biết mình mù lòa mà con được sáng mắt.
Xin cho con đừng sợ ánh sáng của Chúa,
ánh sáng phá tan bóng tối trong con
và đòi buộc con phải hoán cải.
Xin cho con đừng cố chấp ở lại trong bóng tối
chỉ vì chút tự ái cỏn con.
Xin cho con khiêm tốn
để đón nhận những tia sáng nhỏ
mà Chúa vẫn gửi đến cho con mỗi ngày.
Cuối cùng, xin cho con hết lòng tìm kiếm Chân lý
để Chân lý cho con được tự do.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
22
THÁNG SÁU
Thiên
Chúa Mời Gọi Đích Danh Mỗi Người Chúng Ta
Đồng
thời, chúng ta cũng gặp thấy nơi truyền thống một hành trình kiên thủ trong đức
tin. Ở đây, Giáo Hội là bạn đồng hành luôn sát cánh với con người. Giáo Hội
luôn sẵn sàng khi con người yêu cầu những cách thế mới của sự quan phòng của
Thiên Chúa. Các Công Đồng Vatican I và II, mỗi Công Đồng theo cách riêng mình,
là những tiếng nói quí giá của Chúa Thánh Thần mà chúng ta không được phép dửng
dưng. Giáo Hội mời gọi chúng ta suy tư lại về những chân lý sống động mà các
Công Đồng ấy đã nêu ra, cũng như suy tư lại về những tài liệu quan trọng của
truyền thống.
Mọi
câu hỏi nghiêm túc phải nhận được một câu trả lời thấu đáo. Đó là lý do tại sao
chúng ta đang liên hệ tới những khía cạnh khác nhau của sự quan phòng thần linh
trong nhiệm cục sáng tạo và cứu độ. Vì thế , chúng ta hãy dành thời gian để suy
tư về chân lý vĩnh cửu mãi mãi tồn tại ấy. Đây là sự khôn ngoan siêu việt mà
Thiên Chúa yêu thương con người và mời gọi con người tham dự vào trong kế hoạch
cứu độ của Ngài. Con người được mời gọi nhận ra sự săn sóc ân cần của Thiên
Chúa và hợp tác với ơn cứu độ của Ngài.
-
suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm.
Lê Công Đức dịch
từ nguyên tác
LIFT
UP YOUR HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày
22 – 6
Thánh
Paulinô, gám mục Nôla,
Thánh
Gioan Fisher, giám mục tử đạo
Và
Thánh More, tử đạo
2V
22,8-13;23,1-3; Mt 7,15-20.
Lời
suy niệm: “Anh em hãy coi chừng các ngôn sứ giả, họ đội
lốt chiên mà đến với anh em; nhưng bên trong, họ là sói dữ tham mồi.”
Ngôn
sứ giả thời nào cũng có. Nên Chúa Giêsu đã cảnh giác chúng ta phải cẩn thận coi
chừng các ngôn sứ đội lốt sói dữ tham mồi. điều này trong những bài giáo huấn
dành cho hàng linh mục, Đức Thánh Cha Phanxicô đã ca ngợi đông đảo linh mục
thánh thiện, đang âm thầm phục vụ dân Chúa; bởi vì các ngài có quan hệ mật thiết
với Chúa Giêsu. Nhưng bên cạnh những linh mục thánh thiện đó vẫn còn có những
linh mục thiếu sự gắn kết mật thiết với Chúa Giêsu, mọi công việc của những
linh mục này chỉ vì danh tiếng của mình và đang tôn thờ cái tôi của minh.”
Lạy
Chúa Giêsu. Xin Chúa ban cho chúng con những linh mục luôn yêu mến Chúa, để các
ngài dưỡng nuôi đời sống chúng con bằng Lời Chúa và Các Phép Bí Tích. Để chúng
con luôn trưởng thành trong Đức Tin, Đức Cậy Và Đức Kính Mến.
Mạnh
Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày
22-06: Thánh GIOAN FISHER
Giám
Mục (1469 - 1535)
Thánh
Gioan Fisher sinh tại Beverly, Yorkshire là con của một thương gia giàu có. Cha
Ngài đã qua đời năm 1477. Khoảng năm 1482, Ngài được Mẹ gởi tới đại học
Cambriage và đã trở thành một học giả nổi danh. Năm 1941, Ngài thụ phong linh mục.
Sau mười năm học thần học. Năm 1501, và sau này Ngài được coi như một trong các
nhà thần học hàng đầu của Âu Châu.
Đại học
sớm nhận ra khả năng quản trị của Ngài, lần lượt Ngài đã giữ chức vụ giám thị,
phó chưởng ấn, rồi chưởng ấn. Năm 1514, Ngài được chọn làm chưởng ấn suốt đời.
Ngài
được đặt làm giám mục Rochester năm 1504 và Ngài đã là một mục tử chân chính,
lo khích lệ các linh mục bằng sự quan tâm tới cuộc sống của các Ngài. Là một
nhà giảng thuyết thời danh, Ngài làm hết sức để có thể cung ứng cho Giáo hội
các linh mục đầy đủ khả năng giảng dạy dân chúng.
Do ảnh
hưởng của Ngài mà Erasnius được đưa vào giảng dạy tiếng Hy lạp ở đại học
Cambrige Erasmus. Tôma More cũng đã trở thành bạn thân của Gioan Fisher. Năm
1516, có bản văn ghi chép về cả ba nhân vật này ở Rochester.
Ngài
Tôma More làm Tổng quản lý đại học Cambrige. Từ năm 1525 đến những năm sau đó
Tôma và Gioan Fisher hợp tác với nhau để đáp ứng người chống lại lạc thuyết của
Lutherô. Đức giám mục Gioan Fisher đã viết cuốn Confutatio (1523) bằng tiếng
Latinh. Đó là cuốn sách của thần học gia viết cho các thần học gia. Người tín hữu
(More) viết cuốn Dialogue concerning Heresies (1528) cho giới bình dân.
Năm
1527, năm định mệnh cho nước Anh vì là lúc, Henri VIII đi bước đầu, tới việc
tiêu hủy hôn nhân của ông với Catarina miền Atagon. Năm 1501 bà thành hôn với
Arthur, anh của vua. Nhưng được sáu tháng thì Athur từ trần. Năm 1509, đức Giáo
hoàng cho phép vua được thành hôn với người vợ goá của anh mình. Về sau, vì
không có con trai để nối dõi, ông tìm cách phá hủy hôn nhân này vịn cớ là phép
chuẩn của Đức Giáo hòang không thành. Đức Hồng y Wolsey hỏi ý kiến Đức cha
Gioan Fisher. Sau khi nghiên cứu đầy đủ đức giám mục kết luận là phép chuẩn của
Đức Giáo hoàng thành. Ngài giữ vững lập trường này mãi. Henry coi sự chống đối
này là như một hành vi bội phản.
Năm
1534 có luật thừa kế. Luật này tuyên bố rằng hôn phối với Catatina là vô hiệu
và hôn nhân với Anna Boleyn là hợp pháp. Quyền kế vị thuộc về con bà ta. Mọi
người phải thề nhận trọn đạo luật này. Đức giám mục Gioan Fisher từ chối. Tôma
More cũng vậy, bởi vì đạo luật bao hàm việc coi phép chuẩn của đức giáo hoàng
là bất thành.
Ngày
17 tháng 4 năm 1534, đức giám mục Gioan Fisher và Sir Tômas More bị xử tại
Tower và bị giam biệt ra. Ngày 20 tháng 5 năm 1535 đức giám mục Gioan Fisher được
phong làm hồng y . Điều này làm nhà vua giận dữ và vội vã lập toà án chống lại
đức tân hồng y.
Ngày
17 tháng 4 năm 1535, Ngài bị xử là bội phản. Ngày 17 tháng 6 năm 1535, Ngài bị
xử là bôi phản. Ngày 22, Ngài bị chém đầu, thân xác trần trụi của Ngài bi bỏ lại
pháp trường cho đến khi được chôn cất vội vã không một nghi thức tang lễ trang
Hallows. Đầu Ngài bị treo ở Lôndôn Bridge cho tới ngày 6 tháng 7 rồi bị ném xuống
sông Thames ... nhường chỗ cho đầu bạn Ngài là Tomas More.
+++++++++++++++++
Ngày
22-06: Thánh TOMA MORE
(1478
- 1535)
Thánh
Toma More sinh tại Luân Đôn ngày 06 tháng 2 năm 1478 trong một gia đình mà
chính Ngài đã nói: "Không danh giá nhưng lại lương thiện". Lên 12 tuổi,
Ngài giúp việc Đức Hồng Y Morton tổng giám mục giáo phận Canterbury. Hai
nămsau, Ngài được gởi học tại Ozford. Để cho Ngài chăm chú học hành, cha Ngài
đã giới hạn việc cung cấp tiền bạc đến nỗi Ngài không có tiền để sửa đổi giày.
Vào tuổi 15, Ngài bỏ Ozford tới Luân Đôn.
Ba
năm sau, tức năm 1493, Ngài gặp Eramus trong khi ông thăm viếng nước Anh lần đầu
tiên. Vừa học, vừa trắc nghiệm ơn kêu gọi tu trì trong bốn năm sống tại Luân
Đôn.
Cuối
cùng More quyết định rằng: Ngài không có ơn gọi sống bậc tu trì. Ngài bước vào
hôn nhân một cách đặc biệt, Ngài chọn cô em gái thứ xinh đẹp và dễ thương.
Nhưng rồi thấy rằng người chị sẽ đau khổ và xấu hổ nếu cô em lập gia đình trước.
Vì thế Ngài cưới cô chị. Họ sống với nhau được 4 năm thì bà vợ qua đời. Một năm
sau Tôma More tái hôn với người khác mà không có con. Người vợ mới hay nóng giận,
nhưng gia đình thật êm thắm.
Ba
người con gái cũng như người con trai của Ngài đều được giáo dục rất cẩn thận.
"Trong gia đình này không có ai làm biếng cả..."
Thực
tế các cô con gái Ngài thông minh đến nỗi được mời tới trước mặt vua để tranh
luận về triết học. Bầu khí gia đình hạnh phúc còn là nơi tụ tập của nhiều loại
người, từ những người yếu đau già cả tới những kẻ thông thái. Erasmus cũng là một
người bạn thân của gia đình này. Lần kia, khi được tin kho lúa bị thiêu rụi
Tôma có viết thư cho vợ: "Có lẽ chúng ta có lý do để cảm tạ Chúa vì sự mất
mát này hơn là về những cái chúng ta tích lũy được".
Và
Ngài cũng lo lắng cho hàng xóm.- "Anh không muốn còn đầy muỗm nếu một
trong số họ chịu thiệt thòi vì tai nạn xảy đến cho chúng ta".
Toma
More cũng viết cuốn Utophia, nói về một hòn đảo hạnh phúc đầy tưởng tượng. Ngài
cũng viết cuốn "Dialogue concerning Heresies" (Đối thoại về các lạc
thuyết). Danh tiếng của Ngài như một luật sư đã lôi kéo được sự chú ý của vua
Henry III. Vua thúc ép Ngài phục vụ triều đình. More bằng lòng và trở nên giàu
có. Được phong làm hiệp sĩ và năm 1523 được đặt làm phát ngôn viên của thư viện
thứ dân.
Tuy
nhiên năm 1527, nhà vua muốn chấm dứt đời sống hôn nhân với hoàng hậu Catarina
và cưới Anna Boleyn. Toma More trách cứ nhà vua và bị thải hồi. Một ngày kia bá
tước Norfolk thấy rằng: Ngài sẽ bị nguy hiểm nếu chống lại nhà vua. Nhưng bình
tĩnh Ngài trả lời: - Thưa Đức ông, tất cả có thể thôi sao ? Thực sự có điều này
khác biệt giữa Ngài và tôi là: Hôm nay tôi chết, nhưng Ngài cũng sẽ chết ngày
mai.
Ngày
12 tháng 4 năm 1534, Toma More được mời để tuyên thệ nhận Anna More Boleyn và từ
bỏ uy quyền của đức giáo hoàng, Ngài từ khước. 14 tháng tù ở là những ngày
tháng cầu nguyện chẳng khác gì nơi tu viện. Trước toà án Ngài nói: - Vương quốc
Anh không thể bất phục tòa thánh như một người con không thể bất phục cha mình.
Khi
nghe tuyên án tử hình Ngài nói: - Thánh Phaolô đồng loã với cái chết của
Stêphanô lại chẳng hợp nhất với Ngài trong cuộc sống vĩnh cửu sao ? Vậy, tôi sẽ
cầu nguyện tha thiết cho các lãnh Chúa đã kết án tôi, để ít ra chúng ta sẽ gặp
nhau trên trời sau này. Tôi cũng cầu xin Chúa toàn năng bảo vệ đức tin và gởi tới
cho Ngài một lời khuyên tốt đẹp.
Bình
thản, Ngài lên đường tới pháp trường, khi bước lên đoạn đầu đài, Ngài còn khôi
hài nói: - Lúc xuống, chỉ mình tôi thủ lợi.
Ngài
ôm người đao phủ và bảo: - Can đảm lên đừng sợ. Cổ tôi ngắn quá hãy cẩn thận vì
danh dự của anh ở đó.
Tự bịt
mắt, Ngài nằm lên đoạn đầu đài, vén râu lên Ngài nói: - Nó không phạm tội phản
bội. Thánh Toma More đã chịu chết như vậy ngày 6 tháng 7 năm 1535 với tất cả trịnh
trọng, vui tươi và đơn thành.
(daminhvn.net)
22
Tháng Sáu
Romeo Và Juliet
Một
trong các vở tuồng bất hủ trên sân khấu kịch nghệ quốc tế phải kể là vở kịch
mang tựa đề "Romeo và Juliet" của nhà văn hào trứ danh người Anh, ông
William Shakespeare. Vở kịch này được sáng tác vào năm 1595, nhưng mãi cho đến
nay, khi vở kịch được phổ nhạc, được các ca sĩ nổi tiếng trình diễn, khán giả vẫn
nối đuôi nhau chờ mua vé để vào theo dõi một câu chuyện tình cảm động giữa hai
thanh niên nam nữ yêu nhau thắm thiết, nhưng đường tình duyên bị trắc trở không
thể tiến đến hôn nhân, vì chàng và nàng thuộc về hai gia đình có mối thù truyền
kiếp với nhau trong bối cảnh xã hội mang nặng đầu óc nuôi oán, báo thù tại
Italia thời trung cổ.
Sau
khi nàng Juliet đem câu chuyện tình ngang trái tỏ lộ cùng một vị linh mục và
cho ngài biết ý định sẽ cùng với Romeo thoát ly gia đình để tìm đến một phương
trời xa lạ xây tổ uyên ương, vị linh mục đề nghị nàng dùng phương thế uống một
thứ thuốc mê để giả chết. Sau đó ngài sẽ cứu sống nàng và giao cho Romeo đem
nàng đi. Kế hoạch này được giữ bí mật đến nỗi chính chàng Romeo cũng không hay
biết. Khi thấy người yêu đã vì mình dùng độc dược quyên sinh, chàng Romeo cũng
dùng gươm tự sát để đáp lại mối tình tuyệt vọng của người yêu. Khi thuốc mê đã
hết hiệu nghiệm, nàng Juliet tỉnh dậy thấy người yêu đang thoi thóp bên vũng máu
đào: tình yêu kêu gọi tình yêu, nàng cũng dùng gươm lết liễu phận bạc để cùng
chết với chàng.
Hình
như những câu chuyện tình thương tâm trong tuồng kịch hay tiểu thuyết nào cũng
kết thúc bằng trắc trở, chia ly, chết chóc. Dù bi ai, nhưng các câu chuyện ấy
cũng nói lên một phần nào sự thật. Ðó có lẽ là lý do tại sao trong các thiệp hồng
báo tin hôn lễ, các đôi trai gái tính chuyện trăm năm thường chọn và cho in
câu: "Tình yêu mạnh hơn sự chết".
Trong
các cuộc giao tế thường ngày giữa người với người hoặc trong mối quan hệ láng
giềng, bạn bè, kể cả cha mẹ, con cái, anh chị em trong gia đình hay giữa tình
thân, vợ chồng, chúng ta cần có những dấu chỉ biểu lộ ra bên ngoài để diễn tả
tâm tình yêu mến chất chứa bên trong: Từ những dấu chỉ đơn sơ, thi vị "yêu
nhau cởi áo cho nhau" đến chỗ hy sinh cả cuộc đời tận tụy, làm lụng vất vả,
gánh chịu những nhọc nhằn, chịu đựng tha thứ cho nhau "Một câu nhịn, chín
câu lành" đối với những người thân thương trong gia đình.
(Lẽ
Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét