Trọn ba bài giảng của Đức Phanxicô cho
các linh mục, nhân Năm Thánh Lòng Thương Xót
Vũ Văn An6/7/2016
Mấy ngày trước chúng tôi đã lần lượt đăng tải các bài
giảng của Đức Phanxicô cho các linh mục và chủng sinh nhân Năm Thánh Lòng
Thương Xót. Nhưng bản văn chúng tôi dựa vào để dịch do Hãng Tin Zenit cung cấp,
và không hiểu vì lý do gì, họ đã cắt xén nhiều ý tưởng của Đức Giáo Hoàng. Nay
đọc lại bản văn do Tòa Thánh công bố trên trang mạng chính thức, chúng tôi đã bổ
túc những chỗ thiếu và thêm phần dẫn nhập của chính Đức Phanxicô. Xin thành thực
cáo lỗi cùng độc giả. Và xin qúy vị thay bài này cho các bài đã đăng lẻ tẻ trước
đây.
Nhân dịp Năm Thánh Thương Xót
dành cho các linh mục và chủng sinh, kéo dài 3 ngày từ ngày 1 tới ngày 3 tháng
Sáu, với chủ đề “Người Chăn Chiên Nhân Lành: Linh Mục trong tư các Thừa Tác
Viên của Thương Xót và Cảm Thương, Gần Gũi Dân Mình và Tôi Tớ Mọi Người”, Đức
Thánh Cha đã đích thân lần lượt giảng cho các linh mục và chủng sinh ba bài giảng
cùng trong ngày 2 tháng Sáu. Bài đầu tiên tại Vương Cung Thánh Đường Gioan
Latêranô vào buổi sáng, bài thứ hai tại Vương Cung Thánh Đường Đức Bà Cả vào buổi
trưa, và bài thứ ba tại Vương Cung Thánh Đường Thánh Phaolô Ngoại Thành vào lúc
4 giờ chiều.
Dẫn Nhập
Trước ba bài giảng, Đức Thánh
Cha đã có lời dẫn nhập như sau:
Chào các linh mục thân yêu,
Chúng ta hãy bắt đầu ngày
tĩnh tâm thiêng liêng này. Tôi nghĩ điều hữu ích cho chúng ta là cầu nguyện cho
nhau, trong tình hiệp thông. Tĩnh tâm đã đành, nhưng mọi người chúng ta trong
tình hiệp thông! Tôi đã chọn chủ đề lòng thương xót. Trước hết, là một dẫn nhập
ngắn vào toàn bộ buổi tĩnh tâm.
Lòng thương xót, nhìn theo
cái nhìn nữ giới, là tình yêu dịu dàng của một người mẹ, xúc động trước sự mảnh
mai yếu đuối của đứa con mới sinh, bèn ôm lấy con vào lòng và cung cấp mọi điều
con cần để sống và lớn lên (rahamim). Nhìn theo cái nhìn nam giới, lòng thương
xót là lòng trung tín vững bền của một người cha luôn nâng đỡ, tha thứ và khích
lệ con cái lớn lên. Lòng thương xót là kết quả của một giao ước; chính vì thế
ta mới nói Thiên Chúa nhớ tới giao ước thương xót của Người (hesed). Đồng thời,
nó là một hành vi hoàn toàn tự do của lòng nhân và lòng tốt (eleos) phát xuất từ
thẳm sâu hữu thể ta và tìm cách phát biểu ra ngoài trong đức ái. Đặc tính bao
hàm mọi sự này có nghĩa: mọi người đều biết đánh giá ý nghĩa của việc có lòng
thương xót, của việc cảm thấy xót thương những người đang đau khổ, của viêc có
thiện cảm với những người thiếu thốn, bất bình một cách tự nhiên trước những bất
công tỏ tường và ước nguyện đáp ứng bằng một lòng kính trọng yêu thương qua việc
cố gắng chỉnh đốn mọi sự. Chịu suy nghĩ về các cảm xúc thương xót tự nhiên này,
ta sẽ bắt đầu hiểu được tại sao ta cũng có thể hiểu chính Thiên Chúa theo thuộc
tính có tính định tính này qua đó Chúa Giêsu muốn mặc khải Người cho ta. Tên
Thiên Chúa chính là lòng thương xót.
Khi ta suy niệm về lòng
thương xót, một điều đặc biệt sẽ diễn ra. Tính năng động của Linh Thao sẽ nhận
được một sức mạnh mới. Lòng thương xót giúp ta thấy điều này: ba cách của thần
nghiệm (mysticism) cổ điển: thanh tẩy, soi sáng và kết hợp, không phải là ba
giai đoạn nối tiếp nhau mà khi đã cảm nghiệm được rồi, ta sẽ vứt chúng lại phía
sau. Chúng ta không bao giờ ngưng cần đến việc hồi tâm đổi mới, chiêm niệm sâu
xa hơn và yêu thương lớn lao hơn. Ba giai đoạn này chồng chéo lên nhau và liên
tiếp tái hiện. Không gì kết hợp ta với Thiên Chúa nhiều hơn một hành vi thương
xót, và đây không phải là một điều nói quá: không gì kết hợp ta với Thiên Chúa
nhiều hơn một hành vi thương xót, vì chính vì lòng thương xót, Thiên Chúa đã
tha thứ tội lỗi ta và ban ơn thánh để ta thực hành các hành vi thương xót nhân
danh Người. Không gì củng cố đức tin ta nhiều hơn việc được tẩy sạch mọi tội lỗi.
Không gì có thể rõ ràng hơn giáo huấn của tin mừng Mátthêu chương 25 và các mối
phúc thật, “phúc thay người có lòng thương xót, vì họ sẽ được thương xót” (Mt
5:7), đối với cái hiểu của ta về thánh ý Thiên Chúa và sứ vụ Người ủy thác cho
ta. Ta có thể áp dụng vào lòng thương xót câu Chúa phán rằng “đong đấu nào các
con sẽ được đấu đó” (Mt 7:2). Nếu anh em cho phép, tôi xin nghĩ tới tất cả các
cha giải tội thiếu kiên nhẫn luôn “mạnh tay” với các hối nhân, la mắng họ.
Nhưng đó là cách Thiên Chúa sẽ cư xử với các ngài! Nếu chỉ vì lý do này, xin
anh em đừng hành động như thế. Lòng thương xót giúp chúng ta nhận ra rằng sở dĩ
chúng ta nhận được lòng thương xót là để muốn được tỏ lòng thương xót cho người
khác. Chúng ta có thể cảm nhận ngay trong chúng ta một sự căng thẳng lành mạnh
giữa việc hối hận vì tội lỗi mình và phẩm giá mà Chúa đã ban cho chúng ta.
Không chần chừ gì thêm nữa, chúng ta có thể từ ghẻ lạnh bước qua ôm ấp, như dụ
ngôn người con trai hoang đàng, và thấy được Thiên Chúa đã dùng tội lệ của ta
làm bình chứa lòng thương xót của Người như thế nào. Tôi muốn lặp lại điều này,
nó vốn là chìa khóa dẫn vào bài suy niệm thứ nhất: dùng tội lệ của ta như bình
chứa lòng thương xót của Người. Lòng thương xót thúc giục ta từ bản thân bước
sang cộng đoàn. Ta thấy điều này trong phép lạ hóa bánh, một phép lạ phát sinh
từ lòng cảm thương của Chúa Giêsu đối với dân Người và đối với nhiều người khác.
Một điều tương tự cũng diễn ra khi ta hành động một cách có lòng thương xót:
bánh thương xót luôn hóa nhiều khi được chia sẻ.
Ba Gợi Ý
Tôi có ba gợi ý cho ngày tĩnh
tâm này. Sự thân mật tự do và hân hoan phát sinh ở mọi bình diện giữa những người
đối xử với nhau bằng lòng thương xót, sự thân mật của Nước Thiên Chúa theo lời
mô tả của Chúa Giêsu trong các dụ ngôn của Người, khiến tôi đưa ra ba gợi ý để
anh em đích thân cầu nguyện hôm nay.
Gợi ý thứ nhất liên quan tới
hai lời khuyên thực tế được Thánh Inhaxiô đưa ra và tôi xin lỗi đã quảng cáo
cho “gà nhà”. Ngài nói với chúng ta rằng “Không phải nhận thức lớn làm đầy và
thỏa mãn linh hồn, mà là khả năng biết cảm nhận và thưởng thức những điều thuộc
về Chúa ở bên trong” (Linh Thao, 2). Thánh Inhaxiô viết thêm rằng bất cứ khi
nào gặp được và thưởng thức được điều mình ước muốn, ta đều nên cầu nguyện
trong bình an, “không cần lo lắng tiến thêm bao lâu mình đã thỏa mãn” (cùng chỗ,
76). Cũng thế, trong các bài suy niệm này về lòng thương xót, ta có thể bắt đầu
với điều ta thưởng thức nhiều nhất và dừng lại ở đấy, vì điều chắc chắn là việc
thương xót này sẽ dẫn chúng ta tới việc thương xót kia. Nếu chúng ta bắt đầu cảm
thấy thương cảm đối với người nghèo và người bị xua đuổi, chắc chắn ta sẽ tiến
tới chỗ hiểu ra rằng chính chúng ta cũng cần lòng thương xót.
Gợi ý thứ hai của tôi giúp
anh em cầu nguyện liên quan tới cung cách chúng ta nói tới lòng thương xót. Cho
tới nay, anh em đã hiểu ra rằng trong tiếng Tây Ban Nha, tôi thích dùng chữ
“thương xót” như một động từ: chúng ta phải “tỏ lòng thương xót” [misericordiar
trong tiếng Tây Ban Nha, có nghĩa như thương xót hóa: chúng ta phải mở rộng
nghĩa của ngôn từ đôi chút] để “nhận được lòng thương xót [ser misericordiados
– để được thương xót hóa]”. “Nhưng thưa cha, đấy đâu phải chữ trên thực tế!’ –
“Đúng, nhưng nó là hình thức tôi thấy hữu ích để nắm được thực tại này: tỏ lòng
thương xót, misericordiar và nhận lòng thương xót ser misericordiados”. Lòng thương
xót nối kết nhu cầu con người với trái tim Thiên Chúa và việc này dẫn tới hành
động tức khắc. Chúng ta không thể suy niệm về lòng thương xót mà không biến nó
thành hành động. Trong cầu nguyện, chẳng ích chi khi chỉ trí thức hóa sự việc.
Với trợ lực của ơn thánh, cuộc đối thoại của ta với Chúa phải tập chú ngay lập
tức vào thứ tội mà vì nó tôi cần lòng thương xót của Chúa hơn cả, thứ tội mà
tôi cảm thấy xấu hổ hơn hết, thứ tội mà tôi muốn tu sửa hơn cả. Ngay từ đầu, ta
cũng phải nói tới điều làm chúng ta xúc động hơn hết, mọi khuôn mặt khiến ta muốn
làm một điều gì đó để thỏa mãn cơn đói cơn khát Thiên Chúa, công lý và tình âu
yếm của họ. Lòng thương xót được chiêm niệm bằng hành động, nhưng là loại hành
động bao trùm mọi người. Lòng thương xót liên hệ tới trọn con người ta, cả các
cảm xúc lẫn tinh thần ta, và mọi con người khác nữa.
Gợi ý sau cùng của tôi cho buổi
tĩnh tâm hôm nay liên quan tới hoa trái của Các Thao Tác này, tức ơn thánh
chúng ta cầu xin nhận được. Tóm một lời, là ơn thánh trở thành các linh mục sẵn
sàng hơn bao giờ hết “tiếp nhận lòng thương xót” (misericordiados) và “tỏ bầy
lòng thương xót” (misericordiosos). Một trong những điều đẹp đẽ nhất, và là những
điều làm tôi xúc động, là việc xưng tội của một linh mục: việc này vĩ đại, đẹp
đẽ, vì con người tới xưng thú tội lỗi của chính mình này cũng là một với con
người lắng nghe trái tim của các hối nhân khác tới xưng thú tội lỗi của họ. Ta
có thể tập trung vào lòng thương xót vì nó là điều chủ yếu và dứt khoát nhất.
Nhờ chiếc thang thương xót (Xem Laudato Si’, 77), ta có thể leo xuống tận thẳm
sâu thân phận con người, kể cả sự yếu đuối và tội lỗi của ta, và leo lên tận đỉnh
cao sự hoàn thiện của Thiên Chúa: “hãy thương xót (hoàn thiện) như Cha các con
là Đấng thương xót”. Nhưng luôn để “hái” được lòng thương xót lớn lao hơn. Hoa
trái này cũng nên được thấy trong việc hoán cải tâm thức thích định chế của ta:
nếu các cơ cấu của ta không sinh động và nhắm làm cho chúng ta cởi mở hơn với
lòng thương xót của Thiên Chúa và có lòng thương xót đối với người khác hơn,
thì chúng có thể biến thành một điều gì đó rất kỳ quặc và cuối cùng phản tác dụng.
Phạm vi này thường được bàn tới trong một số văn kiện của Giáo Hội và các bài
diễn văn của một số vị giáo hoàng: hoán cải định chế, hoán cải mục vụ.
Như thế, buổi tĩnh tâm này sẽ
đi theo con đường “đơn sơ của Tin Mừng”, một con đường nhìn và làm mọi sự bằng
chìa khóa thương xót. Lòng thương xót này năng động, không hẳn là một danh từ với
một ý nghĩa nhất định và dứt khoát, hay một tĩnh từ dùng để mô tả, mà đúng hơn
là một động từ - “tỏ lòng thương xót” và “tiếp nhận lòng thương xót”
[misericordiar và ser misericordiados]. Điều này thúc đẩy chúng ta hành động
trong thế giới này. Hơn thế nữa, đây là một lòng thương xót “lớn hơn mãi”
(magis), một lòng thương xót lớn lên và trải rộng, tiến từ tốt tới tốt hơn và từ
kém tới hơn. Vì mẫu mực được Chúa Giêsu thiết lập trước mặt ta là mẫu mực của
Chúa Cha, Đấng luôn lớn hơn mãi – Deus semper maior – và, theo một nghĩa nào
đó, lòng thương xót vô lượng của Người không ngừng “lớn mạnh”. Lòng thương xót
của Người không có mái hoặc tường vì nó phát sinh từ tự do tối thượng của Người.
Bài suy niệm thứ nhất: từ ghẻ lạnh tới cử
hành mừng vui
Giờ đây, chúng ta tiến qua
bài suy niệm thứ nhất. Tôi đặt tựa cho nó là “từ ghẻ lạnh tới cử hành mừng
vui”. Như chúng ta vốn nói, nếu Tin Mừng trình bầy lòng thương xót như một sự
dư tràn tình yêu Thiên Chúa, thì điều đầu tiên chúng ta phải làm là xem xem ở
đâu trên thế giới ngày nay, và mọi người trong đó, cần đến thứ dư tràn tình yêu
này nhất. Ta cần tự hỏi: lòng thương xót như thế phải được tiếp nhận ra sao.
Dòng lũ con nước hằng sống này phải vọt lên trên mảnh đất cằn cỗi và nứt nẻ
nào? Đâu là các vết thương cần thứ dầu qúy giá này? Cảm thức bị bỏ rơi nào đang
van nài được yêu thương chăm sóc? Cảm thức ghẻ lạnh nào khao khát được ôm ấp và
gặp gỡ?
Dụ ngôn mà bây giờ tôi sẽ đề
nghị để anh em suy niệm là dụ ngôn về Người Cha đầy lòng thương xót (xem Lc 15:
11-31). Chúng ta thấy bản thân mình đứng trước mầu nhiệm của Người Cha. Tôi
nghĩ chúng ta nên bắt đầu với thời điểm khi người con trai hoang đàng đứng ở giữa
chuồng heo, trong cái địa ngục của sự ích kỷ nơi, sau khi đã thực hiện tất cả mọi
thứ anh ta muốn thực hiện, giờ đây, thay vì được tự do, anh ta cảm thấy mình trở
thành nô lệ. Anh ta nhìn vào những con heo đang ăn bã vỏ của chúng ... và anh
ta ganh tị với chúng. Anh ta cảm thấy nhớ nhà. Anh ta mong mẩu bánh mới nướng
mà đầy tớ trong nhà anh, nhà của cha anh, thường ăn vào bữa ăn sáng. Nhớ nhà
..., hoài hương. Hoài hương là một cảm xúc mạnh mẽ. Giống như lòng thương xót,
nó mở rộng tâm hồn. Nó làm chúng ta nghĩ đến trải nghiệm đầu tiên của chúng ta
về sự tốt lành - quê hương từ đó chúng ta phát xuất - và nó đánh thức trong
chúng ta hy vọng quay trở lại đó. Nó là nostos algos (một điều để nhớ?). Trước
chân trời nhớ nhung bao la này, chàng tuổi trẻ - như Tin Mừng cho chúng ta biết
- bỗng trở về với cảm thức của mình và nhận ra rằng anh quả khốn cùng. Mỗi người
chúng ta đều có thể tiến tới hay dẫn tới điểm cảm nhận sự khốn cùng lớn lao hơn.
Mỗi người chúng ta đều có nỗi khốn cùng giấu kín của mình… ta cần xin ơn biết
tìm thấy nó.
Không lưu lại ở niềm đáng
thương của anh ta, chúng ta hãy chuyển sang thời điểm khác, lúc cha anh ôm lấy
anh và hôn anh. Anh vẫn thấy mình còn bẩn thỉu, dù đã mặc quần áo dự tiệc. Vì
cha anh không nói: “hãy đi tắm đi rồi tới đây”. Anh xỏ vào ngón tay chiếc nhẫn
anh đã được ban cho, giống như chiếc nhẫn của cha mình. Anh mang giầy mới ở đôi
chân. Anh ngồi giữa buổi tiệc, giữa một đám đông người. Hơi giống chúng ta, nếu
có bao giờ chúng ta đi xưng tội trước Thánh Lễ và rỗi bỗng thấy mình được mặc
áo và ở giữa một nghi lễ.
Một phẩm giá ngượng ngùng
Chúng ta hãy suy nghĩ một
chút về "phẩm giá ngượng ngùng" của người con trai hoang đàng nhưng
được yêu thương này. Nếu chúng ta có thể bình thản giữ cho trái tim của chúng
ta được cân bằng giữa hai thái cực - phẩm giá và ngượng ngùng - mà không bỏ điều
nào cả, có lẽ chúng ta sẽ cảm nhận được trái tim người Cha của chúng ta sẽ rộn
rã đập nhịp yêu thương như thế nào đối với chúng ta. Đây là một trái tim đang đập
vì lo âu, khi ngài leo lên mái nhà để nhìn về phía xa. Ông nhìn gì? Nhìn đứa
con trai ông có thể trở về…Lúc đó, ở chỗ đó, nơi phẩm giá và ngượng ngừng đang
hiện diện bên cạnh nhau, ta có thể nhận rõ trái tim người Cha đập ra sao. Chúng
ta có thể tưởng tượng: lòng thương xót trào dâng trong nó giống như máu trào
dâng. Người đi ra để tìm kiếm chúng ta, những kẻ tội lỗi. Người kéo chúng ta
vào lòng Người, thanh tẩy chúng ta và sai chúng ta đi, mới mẻ và đổi mới, tới mọi
vùng ngoại vi, để mang lòng thương xót tới cho mọi người. Máu đó là máu của
Chúa Kitô, máu của giao ước thương xót mới và vĩnh cửu, đổ ra cho chúng ta và
cho tất cả, để được tha tội. Chúng ta suy ngắm máu ấy bằng cách ra vào trái tim
Người và trái tim Chúa Cha. Đó là kho báu duy nhất của chúng ta, điều duy nhất
chúng ta phải cung cấp cho thế giới: máu thanh tẩy và mang bình an tới cho mọi
thực tại và mọi người. Máu của Chúa vốn tha thứ tội lỗi. Máu vốn là của uống thật,
vì nó đánh thức và làm sống lại những gì đã chết vì tội lỗi.
Trong lời cầu nguyện thanh thản
của chúng ta, lời cầu nguyện chập chờn giữa ngượng ngùng và phẩm giá, giữa phẩm
giá và ngượng ngùng, chúng ta hãy xin cho được ơn biết cảm nhận lòng thương xót
như đem lại ý nghĩa cho toàn bộ cuộc sống của chúng ta, ơn biết cảm thấy trái
tim Chúa Cha cùng đập như một với trái tim ta ra sao. Nghĩ đến ơn này như một
điều Thiên Chúa thỉnh thoảng mới ban cho chúng ta khi Người tha thứ một vài tội
lỗi lớn lao của chúng ta, còn sau đó, những phần còn lại, chúng ta có thể phải
tự làm lấy một mình là điều không đủ. Nhất định không đủ.
Thánh Inhaxiô cho chúng ta một
hình ảnh rút ra từ nền văn hóa cung đình của thời ngài, nhưng vì lòng trung
thành giữa bạn bè là một giá trị trường cửu, nên nó cũng có thể giúp ích chúng
ta. Ngài nói rằng, để cảm thấy "ngượng ngùng và xấu hổ" vì tội lỗi của
mình (nhưng không quên lòng thương xót của Thiên Chúa), chúng ta có thể sử dụng
ví dụ về "một hiệp sĩ đứng trước nhà vua và toàn bộ triều đình của vua, xấu
hổ và ngượng ngùng vì đã làm sai cách nặng nề đối với nhà vua, sau khi đã nhận
được từ ngài rất nhiều ơn phúc và ơn huệ” (Linh Thao, 74). Nhưng, giống như người
con trai hoang đàng, thấy mình ở giữa bàn tiệc, chàng hiệp sĩ này, người nên cảm
thấy xấu hổ trước mặt mọi người, đột nhiên thấy nhà vua nắm lấy tay chàng và phục
hồi phẩm giá của chàng. Quả thật, không những nhà vua yêu cầu chàng theo ngài
lâm trận, ngài còn đặt chàng đứng đầu các đồng nghiệp của chàng nữa. Chàng hiệp
sĩ này sẽ phục vụ ngài với môt lòng khiêm cung và trung thành từ đó trở về sau
xiết bao! Điều này làm tôi nghĩ đến phần cuối của chương sáu Sách Tiên Tri
Êdêkien.
Bất kể chúng ta coi mình như
người con trai hoang đàng ở giữa bàn tiệc, hay chàng hiệp sĩ bất trung được phục
hồi và thăng thưởng, điều quan trọng là mỗi người chúng ta cảm nhận được sự
căng thẳng có hiệu quả phát sinh từ lòng thương xót của Chúa: chúng ta cùng một
lúc là những kẻ tội lỗi được ân xá và những kẻ tội lỗi được phục hồi phẩm giá.
Simon Phêrô đại diện khía cạnh
thừa tác của sự căng thẳng lành mạnh này. Tại mỗi bước trên đường đi, Chúa đều
huấn luyện ngài trở thành cả Simon lẫn Phêrô. Simon, người đàn ông bình thường
với tất cả những lỗi lầm và bất nhất của mình, và Phêrô, người mang chìa khóa dẫn
đầu những người khác. Khi Anrê đem Simon, mới từ lưới cá lên, tới với Chúa
Kitô, Chúa ban cho ông tên Phêrô, nghĩa là Đá. Tuy nhiên, ngay sau khi ca ngợi
lời tuyên xưng đức tin của Phêrô, một lời tuyên xưng vốn xuất phát từ Chúa Cha,
Chúa Giêsu đã nghiêm khắc khiển trách ông vì đã bị cám dỗ nghe lời ma quỷ mà
nói với Người chạy trốn khỏi thập giá. Chúa Giêsu sau đó, đã mời Phêrô đi trên
nước; Người sẽ để ông chìm trong sợ hãi chỉ để sau đó dơ thẳng tay ra và kéo
ông lên. Ngay sau khi Phêrô xưng thú rằng mình là một kẻ tội lỗi, Chúa đã biến
ông thành một người đánh cá người. Người sẽ tra vấn Phêrô nhiều về tình yêu của
ông, cố ý thấm nhiễm nơi ông niềm hối hận và xấu hổ vì sự bất trung và lòng hèn
nhát của mình, nhưng Người cũng sẽ ba lần giao phó cho ông chăm sóc đoàn chiên
của Người. Hai việc đối nghịch nhau này luôn đi đôi với nhau.
Đó là cách chúng ta phải thấy
mình: thăng bằng giữa xấu hổ hoàn toàn và phẩm giá tuyệt vời của chúng ta. Ta cảm
thấy gì khi người ta hôn tay ta, khi ta được Dân Chúa tôn trọng, nếu ta biết
nhìn vào thẳm sâu sự khốn cùng của ta? Có một hoàn cảnh khác giúp ta hiểu.
Tương phản luôn luôn có mặt. Ta phải đặt ta vào bối cảnh đó, vào chỗ đó nơi nỗi
khốn cùng đáng xấu hổ nhất và phẩm giá cao nhất của ta hiện diện bên nhau. Ở
cùng một chỗ. Dơ bẩn, không trong sạch, tầm thường, hư danh – hư danh vốn là tội
của các linh mục –và ích kỷ, nhưng đồng thời, với bàn chân đã rửa sạch, được gọi
và được chọn để phân phối các ổ bánh hóa nhiều của Chúa, được chúc phúc bởi dân
của chúng ta, được yêu thương và chăm sóc. Chỉ có lòng thương xót mới làm ta chịu
đựng được tình thế đó. Không có nó, hoặc chúng ta tin vào sự công chính của
chúng ta như những người Biệt Phái, hoặc chúng ta co rúm lại như những người cảm
thấy bất xứng. Trong cả hai trường hợp, trái tim chúng ta đều trở nên chai đá:
khi ta cảm thấy mình chính trực như những người Biệt Phái hay khi ta tự tách
mình ra như những người cảm thấy bất xứng. Tôi không cảm thấy xứng đáng, nhưng
tôi không nên tự tách mình ra: tôi phải có một phẩm giá ngượng ngùng, hai yếu tố
này phải đi đôi với nhau.
Chúng ta hãy nhìn kỹ hơn một
chút vào điều này, và hỏi xem tại sao sự căng thẳng này lại có hiệu quả như thế
giữa sự khốn cùng và phẩm giá, giữa sự ghẻ lạnh và cử hành mừng vui? Lý do,
theo tôi, nó là kết quả của một quyết định tự do. Chúa hành động chủ yếu thông
qua tự do của chúng ta, mặc dù sự giúp đỡ của Người không bao giờ rời xa chúng
ta. Lòng thương xót là một vấn đề tự do. Như một cảm xúc, nó phát sinh một cách
tự phát. Khi chúng ta nói rằng nó có tính bản năng, xem ra nó đồng nghĩa với
"thú tính". Nhưng thú vật không cảm nghiệm lòng thương xót “tinh thần”,
mặc dù một số trong chúng có thể cảm nghiệm được một điều gì đó giống như lòng
cảm thương, như con chó trung thành canh giữ bên cạnh người chủ ốm yếu của
mình. Lòng thương xót là một cảm xúc theo bản năng nhưng nó cũng có thể là kết
quả của một cái nhìn sâu sắc trí tuệ tinh tường – làm sửng sốt như một tia sét
nhưng không kém phần phức tạp vì tính đơn giản của nó. Chúng ta trực giác được
nhiều điều khi cảm nhận được lòng thương xót. Thí dụ như hiểu được rằng một người
nào khác đang sa vào một tình trạng tuyệt vọng, một tình huống có giới hạn; một
điều gì đó đang xảy ra lớn hơn tội lỗi và thiếu sót của mình. Chúng ta cũng nhận
ra rằng người khác đó là người đồng trang đồng lứa với chúng ta, rằng chúng ta
có thể đứng trong đôi giày của họ. Hoặc sự ác là một điều to lớn và nặng nề đến
nỗi không thể chỉ đơn giản được được giải quyết bằng công lý mà thôi... Tận đáy
lòng, chúng ta nhận ra rằng điều cần là một lòng thương xót vô hạn, giống như
lòng thương xót của trái tim Chúa Kitô, mới sửa chữa được mọi điều ác và đau khổ
chúng ta thấy trong cuộc sống của con người ... Bất cứ điều gì ít hơn thế đều
không đủ. Chúng ta có thể hiểu rất nhiều điều chỉ bằng cách đơn giản nhìn thấy
một người đi chân đất trên đường phố vào một buổi sáng lạnh lẽo, hoặc bằng cách
suy ngắm Chúa bị đóng đinh trên thập giá - vì tôi!
Hơn nữa, lòng thương xót có
thể được tự do chấp nhận và nuôi dưỡng, hoặc tự do từ chối. Nếu chúng ta chấp
nhận nó, điều này sẽ dẫn đến điều kia. Nếu chúng ta chọn bỏ qua nó, trái tim của
chúng ta sẽ trở nên lạnh lùng. Lòng thương xót làm chúng ta cảm nghiệm được sự
tự do của chúng ta, và do đó, sự tự do của chính Thiên Chúa, Đấng, như Người đã
nói với Môsê, "thương xót với những ai Người thương xót" (xem Đnl
5:10). Qua lòng thương xót của Người, Chúa đã nói lên tự do của Người. Và chúng
ta, chúng ta nói lên tự do của chúng ta.
Chúng ta có thể "bất cần"
lòng thương xót của Chúa trong một thời gian dài. Nói cách khác, chúng ta có thể
sống trên đời mà không hề suy nghĩ về nó một cách có ý thức hay minh nhiên yêu
cầu có nó. Rồi một ngày nào đó, chúng ta bỗng nhận ra "tất cả là lòng
thương xót" và chúng ta khóc lóc thảm thiết vì đã không biết đến nó sớm
hơn, khi chúng ta cần nó nhất!
Cảm giác trên là một loại khốn
cùng tinh thần. Nó là một nhận thức hoàn toàn có tính bản thân khi hiểu ra rằng
ở một thời điểm nào đó trong cuộc sống của tôi, tôi đã quyết định đi một mình:
Tôi đã thực hiện sự lựa chọn của tôi và tôi đã chọn nó một cách tệ hại. Đó là
những vực thẳm mà chúng ta cần với tới để cảm thấy đau đớn vì tội lỗi chúng ta
và sự ăn năn thật. Nếu không, chúng ta sẽ thiếu tự do để thấy rằng tội lỗi quả
đã ảnh hưởng đến toàn bộ cuộc sống của chúng ta. Chúng ta không nhận ra sự khốn
cùng của chúng ta, và do đó chúng ta bỏ lỡ cơ hội thương xót, một cơ hội chỉ
hành động với điều kiện đó. Người ta không tới một dược phòng và hỏi mua một
viên aspirin để chữa lòng thương xót. Muốn chữa lòng thương xót, chúng ta phải
mua morphine, cho người bị bệnh ở giai đoạn chót và đang bị hành hạ hết sức đau
đớn. Tất cả hay không là gì cả. Nếu ta không đi sâu vào điều này, ta sẽ không
hiểu chi hết.
Trái tim mà Thiên Chúa muốn nối
kết với nỗi khốn cùng tinh thần này của chúng ta là trái tim của Chúa Kitô, Con
yêu dấu của Người, một trái tim đập như một với trái tim của Chúa Cha và Chúa
Thánh Thần. Tôi nhớ khi Đức Piô XII hoàn tất thông điệp nói về Trái Tim Chúa
Giêsu, một ai đó bình luận: “Tại sao cần một thông điệp về việc này? Đây là
chuyện dành cho các nữ tu…”. Trái Tim Chúa Giêsu là trung tâm, là chính trung
tâm của lòng thương xót. Có lẽ các nữ tu hiểu điều này hơn chúng ta, vì các chị
là các bà mẹ trong Giáo Hội, là hình ảnh của Giáo Hội, Bà Mẹ Diễm Phúc. Nhưng
trung tâm là trái tim Chúa Giêsu. Có lẽ ta nên đọc Thông Điệp Haurietis aquas
này trong tuần này hay ngày mai… “Nhưng nó có trước công đồng mà!” Đúng, nhưng
nó có ích cho tôi! Đọc nó có ích cho chúng ta!Trái Tim Chúa Giêsu là một trái
tim chọn lộ trình nhanh nhất và đã đi lộ trình này. Lòng thương xót đã làm bàn
tay mình ra vấy bẩn. Nó đụng chạm, nó can dự, nó cấu kết với những người khác,
nó trở thành bản vị. Nó không tiếp cận "các trường hợp", nhưng tiếp cận
những con người và nỗi đau của họ. Ta hãy khảo sát việc dùng từ ngữ của ta. Biết
bao lần, dù không hay, ta từng nói rằng: “tôi có vụ này…” Ngưng ngay lập tức!
Thay vào đó, hãy nói: “tôi có người này…”. Nghe quá giáo sĩ khi nói “tôi có vụ
này…”, “tôi gặp vụ này…”. Chuyện này thường xẩy ra với tôi. Chủ nghĩa giáo sĩ
là ở đây: giản lược tính cụ thể của tình yêu Thiên Chúa, một tình yêu Thiên
Chúa ban cho tôi và tình yêu đối với những con người, thành một “vụ”. Theo cách
này, tôi tự tách mình ra, không liên lụy chi hết. Theo cách này, bàn tay tôi
không vấy bẩn; tôi có thể tiến hành những việc mục vụ sạch sẽ, cao sang, và
trong đó, tôi không gặp nguy cơ nào cả. Và trong đó, tôi khỏi bị tai tiếng –
tôi không thể phạm tội cách xầu hổ. Lòng thương xót vượt quá công lý; nó mang lại
kiến thức và lòng cảm thương; nó dẫn đến việc tham gia. Qua phẩm giá nó mang lại,
lòng thương xót đã nâng người khác lên, người được người ta cúi xuống giúp đỡ.
Người biểu lộ lòng thương xót và người được lòng thương xót biểu lộ trở thành
bình đẳng. Giống như người đàn bà tội lỗi trong Tin Mừng (Lc 7:36-50), người được
tha thứ nhiều, vì đã yêu nhiều và trước đó đã phạm tội nhiều.
Đó là lý do tại sao ta cần có
Người Cha để cử hành, để mọi sự được phục hồi ngay một lúc, và để người con
trai của ông có thể lấy lại phẩm giá đã mất của mình. Việc hiểu ra này làm ta
có thể nhìn về tương lai theo một cách khác. Không phải lòng thương xót bỏ qua
sự thiệt hại khách quan do điều ác mang lại. Đúng hơn, nó lấy đi sức mạnh của
tà ác đối với tương lai. Nó lấy đi sức mạnh của tà ác đối với đời sống, một đời
sống sau đó vẫn tiếp tục diễn tiến. Lòng thương xót là biểu thức chính hiệu của
cuộc sống sẵn sàng chống lại sự chết, vốn là kết quả cay đắng của tội lỗi. Với
tính cách ấy, nó hoàn toàn sáng suốt và không hề ngây thơ. Nó không hề bị mù đối
với điều ác; đúng hơn, nó thấy cuộc sống vắn vỏi xiết bao và mọi điều tốt vẫn
còn cần được thực hiện như thế nào. Đó là lý do tại sao điều rất quan trọng là
tha thứ hoàn toàn, để nhiều người khác có thể nhìn về tương lai mà không lãng
phí thời gian vào việc tự kết tội mình và tự thương hại vì các lỗi lầm quá khứ
của mình. Khi bắt đầu biết quan tâm tới những người khác, chúng ta sẽ xét lương
tâm của chúng ta, và theo mức độ giúp đỡ người khác, chúng ta sẽ đền bù các sai
sót chính chúng ta đã làm. Lòng thương xót luôn nhuốm màu hy vọng. Lòng thương
xót là mẹ của hy vọng.
Để chúng ta được trái tim
đang đập của Chúa Cha lôi cuốn và sai đi là tiếp tục ở lại trong sự căng thẳng
lành mạnh giữa ngượng ngùng và phẩm gía này. Để chúng ta được lôi cuốn vào trái
tim của Người, như máu đã vị vấy bẩn trên đường trao ban sự sống cho tứ chi,
ngõ hầu Chúa có thể làm sạch chúng và rửa chân chúng ta. Để chúng ta được sai
đi, đầy đủ lượng oxy của Chúa Thánh Thần, ngõ hầu làm sống lại toàn bộ cơ thể,
đặc biệt là những chi thể ở xa nhất, yếu đuối và bị tổn thương.
Một linh mục, và điều này xẩy
ra thực sự, đã nói với tôi về một người ở đường phố, kết cục phải sống trong một
nhà tế bần. Ông đã bị tiêu hao bởi sự cay đắng và không tương tác với những người
khác. Ông là một người có học vấn, như sau này họ phát hiện ra. Đôi khi sau đó,
người đàn ông này đã phải nhập viện vì một căn bệnh đã đến hồi cuối cùng. Ông
nói với vị linh mục rằng trong khi ông ở đó, cảm thấy trống rỗng và vỡ mộng,
người đàn ông ở giường bên cạnh yêu cầu ông di chuyển chiếc bình cạnh giường của
mình và đổ nó đi. Lời yêu cầu từ một người thực sự có nhu cầu này, một người đã
trở nên tồi tệ hơn ông, đã mở mắt và trái tim ông đón nhận một cảm giác mạnh mẽ
về tình người, một mong muốn được giúp đỡ một người khác và để chính mình được
Thiên Chúa giúp đỡ. Một hành vi thương xót đơn giản đã đưa ông tới chỗ tiếp
giáp với lòng thương xót vô hạn. Nó đã dẫn ông đến việc giúp đỡ người khác, và
khi làm như vậy, chính ông đã được giúp đỡ. Ông qua đời sau khi xưng tội, và
qua đời trong bình an. Đây là mầu nhiệm của lòng thương xót.
Vì vậy, tôi để anh em ở lại với
bài dụ ngôn về Người Cha thương xót, bây giờ là lúc chúng ta, chúng ta đã bước
vào tình thế trong đó người con trai cảm thấy bẩn thỉu dù đã được mặc quần áo,
một tội nhân có phẩm giá, xấu hổ vì mình, nhưng tự hào về cha mình. Dấu chỉ ta
vừa bước vào là chính chúng ta muốn trở nên thương xót đối với mọi người. Đây
là ngọn lửa Chúa Giêsu đã xuống thế để đem đến cho trần gian, một ngọn lửa thắp
cháy mọi ngọn lửa khác. Nếu tia lửa không bắt, thì chính bởi vì một trong những
tim đèn không bắt liên lạc. Hoặc vì quá xấu hổ, mà không chịu bóc trần dây điện
và, thay vì tự do thú nhận: "Tôi đã làm điều này hay điều nọ", vẫn cứ
trùm bọc; hoặc vì quá trọng phẩm giá, nên chạm vào thứ gì cũng cần găng tay.
Dư tràn lòng thương xót
Một vài lời về sự dư tràn
lòng thương xót để kết luận. Cách duy nhất để chúng ta "dư tràn"
trong việc đáp ứng lòng thương xót quá mức của Thiên Chúa là hoàn toàn mở lòng
ra để tiếp nhận nó và chia sẻ nó với những người khác. Tin Mừng cho chúng ta
nhiều ví dụ cảm động về những người đã đi đến dư tràn ngõ hầu nhận được lòng thương
xót của Người. Người bại liệt chẳng hạn đã được bạn bè đưa anh từ mái nhà xuống
chỗ Chúa đang rao giảng – họ có cường điệu đôi chút. Hoặc người phung cùi bỏ
chín đồng bạn của mình để trở lại tôn vinh và lớn tiếng tạ ơn Thiên Chúa, bằng
cách qùy mọp dưới chân Chúa. Hoặc người mù lòa Bartimêô mà tiếng kêu van kịch
liệt đã làm Chúa Giêsu dừng lại trước mặt anh – và thậm chí còn qua mặt cả các
“trạm kiểm soát quan thuế của các tư tế” để đến với Chúa. Hoặc người phụ nữ bị
xuất huyết, rụt rè đến gần Chúa và chạm vào áo choàng của Người; như Tin Mừng
cho chúng ta biết, Chúa Giêsu cảm thấy một sức mạnh-một thứdynamis (nhân điện?)-
"xuất ra" khỏi Người ... Tất cả đều là những ví dụ về sự tiếp xúc có
thể đốt sáng các ngọn lửa và giải phóng sức mạnh tích cực của lòng thương xót.
Rồi chúng ta cũng có thể nghĩ đến người đàn bà tội lỗi, từng rửa chân Chúa bằng
nước mắt và lau khô chúng bằng mái tóc của nàng; Chúa Giêsu nhìn thấy việc biểu
lộ tình yêu dư tràn của nàng như một dấu chỉ cho thấy nàng đã nhận được một lòng
thương xót lớn lao. Lòng thương xót luôn dư tràn! Những người bình thường - những
người tội lỗi, những người ốm yếu và những người bị quỷ ám- đều được Chúa nâng
dậy ngay lập tức. Người làm họ từ loại trừ bước qua bao gồm trọn vẹn, từ ghẻ lạnh
bước qua ôm ấp. Đó là cách nói lên rằng: lòng thương xót làm chúng ta bước
"từ ghẻ lạnh qua cử hành mừng vui". Và nó chỉ có thể hiểu được bằng
chìa khóa hy vọng, bằng chìa khoá tông đồ, bằng chìa khóa nhận biết lòng thương
xót và sau đó biểu lộ lòng thương xót.
Chúng ta hãy kết luận bằng
cách đọc Kinh Ngượi Khen của Lòng Thương Xót, tức Thánh Vịnh 51 của Vua Đavít,
một Thánh Vịnh ta đọc mỗi Thứ Sáu vào giờ Kinh Ban Sáng. Đây là Kinh Ngợi Khen
của "một trái tim khiêm nhường và thống hối" có khả năng thú nhận tội
lỗi của mình trước Thiên Chúa, Đấng, trong lòng trung tín của Người, vốn lớn
hơn bất cứ tội lỗi nào của chúng ta. Nếu chúng ta đặt mình vào vị trí của người
con trai hoang đàng, vào lúc, thay vì bị Cha quở trách, anh phát hiện Cha anh
đang tổ chức một tiệc vui, chúng ta có thể tưởng tượng chắc hẳn anh ta sẽ đọc
Thánh Vịnh 51. Chúng ta có thể đọc Thánh Vịnh này kiểu đáp ca với anh. Ta có thể
nghe thấy anh đọc: "Xin thương xót con, ôi lạy Thiên Chúa, trong lòng nhân
từ của Ngài; trong lòng cảm thương của Ngài, xin xóa hết hành vi tội lỗi của
con "... Và chúng ta tiếp theo: "Các hành vi tội lỗi của con, con thật
sự biết rõ chúng; tội lỗi của con luôn ở trước mặt con ". Và cùng thân
thưa: "Lạy Cha, con đã phạm tội chống lại Cha, chống lại Cha, chỉ một mình
Cha".
Ước chi lời cầu nguyện của
chúng ta được nâng lên từ sự căng thẳng nội tâm vốn gợi lên lòng thương xót, sự
căng thẳng giữa sự xấu hổ biết thân thưa: "Xin Ngài ngoảnh mặt khỏi tội lỗi
của con, và xóa hết mọi tội lỗi của con", và sự tự tin biết nói: "Ôi,
xin thanh tẩy con, thì con sẽ được sạch sẽ; Ôi, xin rửa con, thì con sẽ được trắng
hơn tuyết". Một sự tự tin biết trở thành tông đồ: "Một lần nữa, hãy
ban cho con niềm vui được Ngài giúp đỡ; hãy nâng đỡ con bằng tinh thần nhiệt
thành, để con dạy cho kẻ phạm tội biết đường lối của Ngài, và những kẻ tội lỗi
biết trở về với Ngài".

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét