Tường thuật ngày thứ hai chuyến công du của ĐTC bên
Armenia
Tường thuật ngày hứ hai chuyến
công du của ĐTC Phanxicô bên Armenia
Thứ bẩy 25-6.là ngày thứ hai
ĐTC viếng thăm mục vụ Armenia. Ban sáng ĐTC có ba sinh hoạt chính là viếng
thăm Đài tưởng niệm cuộc diệt chủng Armeni tại Etchmiadzin, chủ sự thánh lễ tại
Gyumri, và thăm tu viện Đức Bà Armeni. Vào ban chiều sau khi viếng thăm nhà thờ
chính toà Armeni Tông truyền và nhà thờ chính toà công giáo Armeni tại Gyumri,
ĐTC lấy máy bay trở về Yerevan để tham dự buổi gặp gỡ đại kết cầu nguyện cho
hoà bình tại quảng trường Cộng hoà trước Dinh chính quyền. Sau đây là chi
tiết các sinh hoạt kể trên.
Lúc 8 giờ 30 sáng thứ bẩy ĐTC
đã đi xe đến kính viếng đài kỷ niệm cuộc diệt chủng Tzitzernakaberd, có nghĩa
là “Đồi chim én” nằm cách đó 21 cây số, nơi có Đài tưởng niệm cuộc diệt chủng
Armeni hồi năm 1915 dưới thời đế quốc Ottoman Thổ Nhĩ Kỳ, khiến cho 1,5 triệu
người chết. Đài kỷ niệm này đã được khánh thành năm 1967 và năm 1995 có thêm Viện
bảo tàng trưng bầy các chứng tích cuộc diệt chủng, cũng như một trung tâm
nghiên cứu tuỳ thuộc Hàn lâm viện khoa học quốc gia Armeni. Đài tưởng niệm gồm
ba phần: Bức tường tưởng niệm, Lăng tẩm và Cột Armenia tái sinh. Bức tường dài
100 mét bằng huyền vũ nham dẫn vào Lăng tẩm có khắc tên các thành phố và dân
chúng nạn nhân của “Sự dữ lớn lao”. Lăng tẩm hình tròn được tạo thành bởi 12 tấm
huyền vũ nham đặt nghiêng, biểu tượng cho 12 thành phố nạn nhân cuộc tán sát
hàng loạt bao quanh một khoảng trời trống, nơi có Ngọn lửa vĩnh cửu. Bên cạnh
Lăng Tẩm là Cây cột Armenia tái sinh gồm hai cây cột xi măng dính vào nhau hình
chiếc kim cao 44 mét, tượng trưng cho cuộc phân tán bạo lực nhân dân Armeni và
sự hiệp nhất của nó. Sau cùng bên cạnh đài tưởng niệm có các hàng cây tưởng niệm
các vị lãnh đạo và nhân vật quốc tế đã thừa nhận cuộc diệt chủng.
ĐTC và Đức Catholicos đã được
tổng thống tiếp đón trên đường dẫn tới Đài tưởng niệm, nơi ĐTC đã đặt một vòng
hoa bên ngoài. Cũng có một nhóm trẻ em cầm các bảng tên của các người đã bị tàn
sát hồi năm 1915. ĐTC cùng các vị đi xuống thang cấp dẫn tới Ngọn lửa vĩnh cửu.
Mọi người đọc Kinh Lậy Cha trong thứ tiếng riêng của mình. ĐTC và Đức Thượng
Phụ Catholicos làm phép và xông hương. Sau đó là bài thánh ca Hrashapar. Tiếp đến
Giám Mục Armeni Tông truyền đọc bài đọc bằng tiếng Armeni trích từ chương 10
thư gửi tín hữu Do thái, nói về cuộc chiến đấu lớn lao mà kitô hữu phải chịu.
Tiếp đến một Giám Mục công giáo đọc Phúc Âm bằng tiếng Ý, chương 14 thánh
Gioan, ghi lại lời Chúa Giêsu nói: bất cứ gì chúng con xin nhân danh Thầy, Thầy
sẽ làm cho các con. ĐTC đã đọc các lời nguyện bằng tiếng Ý. Sau cùng mọi người
đọc Kinh Lậy Cha trong các thứ tiếng riêng của mình. Tại đài tưởng niệm ĐTC đã
đọc lời nguyện sau đây: “Lạy Chúa Kitô, là Đấng đã đội triều thiên cho các
thánh và hoàn thành ý muốn của tín hữu Chúa, cũng như nhìn các thụ tạo của Chúa
với tình yêu thương và sự dịu hiền, từ trời cao sự thánh thiện của Chúa xin hãy
lắng nghe chúng con nhờ lời bầu cử của Mẹ Thiên Chúa, nhờ lời khẩn cầu của tất
cả các thánh của Chúa và của những người mà chúng con tưởng niệm hôm nay. Xin
Chúa hãy lắng nghe và thương xót, xin tha thứ cho chúng con, xin đền bù và tha
các tội của chúng con. Xin làm cho chúng con xứng đáng vinh danh Chúa với các
tâm tình biết ơn cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần bây giờ và luôn mãi cho đến
muôn muôn đời. Amen.”
ĐTC, Đức Catholicos và tổng
thống đi xe lên sân thượng Viện bảo tàng cách đó 80 mét. ĐTC đã dừng lại chúc
lành và tưới một cây tưởng niệm chuyến viếng thăm của ngài. Trên sân thượng có
hàng chục người con cháu của những người Armeni bị bách hại, đã từng được ĐGH
Biển Đức XV tiếp đón và cho trú ngụ tại nhà nghỉ mát Castel Gandolfo. Trước khi
từ giã ĐTC đã ký tên vào sổ vàng.
Rời Đài tưỏng niệm ĐTC đã đi
xe tới phi trường Yerevan cách đó 19 cây số để lấy máy bay di Gyumri cách đó 80
cây số.
Đón tiếp ĐTC tại phi trường
quốc tế Gyumri có ông thị trưởng, ĐTGM Raphael François Minassian của Giáo Hội
công giáo Armeni Đông Âu, và ĐGM Giáo Hội Tông truyền sở tại. Cũng có một nhóm
trẻ em mồ côi và một ca đoàn.
Gyumri là thành phố nằm trên
độ cao hơn 1.500 mét, có 146.000 dân, là thành phố lớn và đông dân thứ hai của
Armenia, và là thủ phủ tây bắc vùng Shirak, có người ở ngay từ hồi năm 3.000
trước công nguyên. Vài nhà khảo khổ cho rằng thành phố bị các người Hy lạp chiếm
đóng hồi thế kỷ thứ V hay thế kỷ thứ VIII trước công nguyên, hồi đó thành phố
tên là Kumayri. Sau đó nó lần lượt bị người Ba Tư, A rập và Mông Cổ chiếm đóng.
Năm 1837 nó bị Nga hoàng Nicolas I chiếm đóng và đổi tên là “Alessandropoli”
theo tên hoàng hậu Alessandra. Sau đó thành phố được gọi là “Leninakan” khi
Lenin qua đời năm 1924. Sau khi Liên Xô sụp đổ năm 1990 thành phố lấy lại tên
Gyumri như hiện nay, và nổi tiếng là “thành phố của thủ công nghệ và các nghệ
thuật”. Nó cũng nổi tiếng là thành phố của các học viện giáo dục và các nhà
hát. Gyumri hãnh diện là thành phố đầu tiên có một đoàn hát năm 1865, nhà hát
năm 1923, cũng như là thành phố tổ chức các buổi vũ cổ điển năm 1924, một nhà
hát văn xuôi năm 1929. Gyumri cũng là trung tâm giáo dục chính của miền bắc
Armenia, và là thành phố kỹ nghệ hoá nhất nước. Nhưng năm 1988 đã xảy ra một trận
động đất lớn khiến cho thành phố bị hư hại nhiều và dân chúng phải sống trong
các thùng tiền chế nhiều năm sau đó. Thế giới đã tỏ tình liên đới với dân
chúng, và danh ca Pháp gốc Armeni Charles Aznavour đã phát động phong trào
quyên góp trợ giúp các nạn nhân. Thành phố đã dựng tuợng ghi ơn ông sau đó.
ĐC Raphael François
Minassian, TGM đặc trách tín hữu công giáo vùng Đông Âu châu từ năm 1991, hiện
trông coi 600.000 tín hữu. Giáo phận có 44 giáo xứ với 11 linh mục giáo phận và
11 linh mục dòng, 10 tu huynh, 20 nữ tu và 4 đại chủng sinh. Giáo Hội điều khiển
1 học viện và 29 trung tâm bác ái.
Sau lễ nghi tiếp đón đơn sơ tại
phi trường ĐTC đã đi xe tới quảng trường Vartanànts cách đó hơn 6 cây số để chủ
sự thánh lễ cho tín hữu. Thánh lễ kính Lòng Thương Xót Chúa đã được cử hành bằng
tiếng Latinh, Ý và Armeni. Tham dự thánh lễ cũng có Đức Thượng Phụ Catholicos
Karekin II, cũng như tổng thống, các giới chức đạo đời và mấy chục ngàn tín hữu.
Một ca đoàn hùng hậu gồm mấy trăm ca viên đảm trách phần thánh ca trong thánh lễ.
Để xây dựng và tái thiết
cuộc sống cần duy trì và phục hồi ký ức, sống đức tin vững mạnh cụ thể và thực
thi tình yêu thương xót Chúng ta được mời gọi trước hết xây dựng và tái thiết
các con đường của sự hiệp thông, mà không mệt mỏi, xây dựng các cây cầu hiệp nhất
và thắng vượt các hàng rào phân cách. Cần có các kitô hữu không để cho mệt mỏi
đánh ngã, và không nản chí trước các đối nghịch, nhưng sẵn sàng và cởi mở, sẵn
sàng phục vụ. Cần có những người thiện chí trợ giúp các anh chị em gặp khó khăn
không phải chỉ bằng lời nói nhưng với cả việc làm. Cần có các xã hội công bằng
hơn, trong đó mỗi người có thể có một cuộc sống xứng đáng hơn và nhất là một
công việc làm được trả lương công bằng.
ĐTC đã nói như trên trong bài
giảng thánh lễ. Ngài đã quảng diễn ý nghĩa các bài đọc lồng khung trong lịch sử
của dân nước Armeni. Lấy lại lời ngôn sứ Isaia ngài nói: “Chúng sẽ xây lại các
đổ nát cổ xưa; chúng sẽ tái thiết các thành phố hoang tàn” (Í 61,4). Có thể nói
rằng các lời này của ngôn sứ đã được thực hiện. Sau các tàn phá kinh khủng của
cuộc động đất hôm nay chúng ta cảm tạ Thiên Chúa về tất cả những gì đã được tái
thiết. Nhưng chúng ta cũng có thể hỏi Chúa mời gọi chúng ta tái thiết cái gì
trong cuộc sống hôm nay, và nhất là xây dựng cuộc sống chúng ta trên cái gì? ĐTC
đã đề nghị ba nền tảng vững chắc giúp xây dựng và tái xây dựng cuộc sống kitô
không mệt mỏi: đó là ký ức, đức tin và tình yêu thương xót.
Biết phục hồi ký ức là một ơn
cần xin Chúa ban cho chúng ta: ký ức liên quan tới những gì Thiên Chúa đã thành
toàn nơi chúng ta và cho chúng ta. Nhớ lại rằng Chúa đã không quên chúng ta
nhưng nhớ tới chúng ta (Lc 1,72). Ngài đã yêu thương chúng ta, tuyển chọn chúng
ta, mời gọi chúng ta và tha thứ cho chúng ta. Có các biến cố trong lịch sử
tình yêu của chúng ta với Chúa cần được hồi sinh trong tâm trí từng người,
nhưng cũng có ký ức của dân tộc. ĐTC nhấn mạnh điểm này như sau:
Và ký ức của dân tộc anh chị
em rất cổ xưa và quý báu. Trong tiếng nói của anh chị em vang lên tiếng nói của
các thánh khôn ngoan trong quá khứ; trong các lời nói của anh chị em vang vọng
tiếng của người đã chế ra mẫu tự của anh chị em để loan báo Lời Chúa; trong các
thánh ca của anh chị em tan hoà các khóc than và niềm vui của lịch sử của anh
chị em. Duyệt xét lại tất cả những điều đó chắc chắn anh chị em có thể nhận ra
sự hiện diện của Thiên Chúa: Ngài đã không bỏ anh chị em cô đơn. Ngài đã viếng
thăm dân tộc của anh chị em, nhớ tới sự trung thành của tất cả những người đã
làm chứng, cả với máu của mình, rằng tình yêu của Thiên Chúa giá trị hơn sự
sống. Thật là hay đẹp khi nhớ lại với lòng biết ơn đức tin kitô đã trở thành
hơi thở của dân tộc anh chị em và con tim ký ức của nó.
Nền tảng vững chắc thứ hai là
đức tin. Nó cũng là niềm hy vọng cho tương lai của anh chị em, là ánh sáng trên
con đường cuộc sống. Nhưng cũng luôn luôn có nguy cơ làm lu mờ đức tin vì cám dỗ
giản lược nó thành một cái gì của quá khứ, quan trọng nhưng thuộc các thời đại
khác, như một cuốn sách được gìn giữ trong viện bảo tàng. Thật ra, đức tin là sức
mạnh, là vẻ đẹp và sự rộng mở đối với tất cả mọi người; nó nảy sinh và tái sinh
từ cuộc gặp gỡ sống động với Chúa Giêsu, từ kinh nghiệm về lòng thương xót của
Ngài trao ban ánh sáng cho mọi trạng huống cuộc sống. Cần làm sống dậy mỗi ngày
cuộc gặp gỡ này của chúng ta với Chúa, đọc và suy gẫm Lời Ngài trong thinh lặng
để nhóm lên niềm vui trong con tim, một niềm vui lớn hơn sự buồn phiền, một niềm
vui kháng cự lại khổ đau và biến thành an bình. Tất cả canh tân cuộc sống và
khiến cho nó tự do và ngoan ngoãn đối với các ngạc nhiên, sẵn sàng với Chúa và
với tha nhân. Chúa cũng có thể mời gọi chúng ta theo Ngài gần hơn, và dâng hiến
cuộc sống cho Ngài và cho các anh chị em khác. Khi Ngài gọi anh chị em, đặc biệt
là các người trẻ, đừng sợ hãi, nhưng hãy nói lên tiếng “có” để giãi sáng tình
yêu và tiếp tục lịch sử rao truyền Tin Mừng, mà Giáo Hội và thế giới ngày nay cần
đến.
Nền tảng thứ ba là tình yêu
thương xót. Nó là đá tảng cho cuộc sống của người môn đệ Chúa Giêsu. Tình yêu cụ
thể là tấm cạc có tên và địa chỉ của kitô hữu. Các kiểu giới thiệu khác có thể
sai lạc và cả đến vô ích, vì mọi người sẽ nhận biết chúng ta khi chúng ta
yêu thương nhau. Chúng ta được mời gọi trước hết xây dựng và tái thiết các con
đường của sự hiệp thông, mà không mệt mỏi, xây dựng các cây cầu hiệp nhất và thắng
vượt các hàng rào phân cách.
Tiếp tục bài giảng ĐTC khẳng
định như sau:
Thiên Chúa ở trong con tim của
kẻ yêu mến: Thiên Chúa ở nơi đâu người ta yêu thương, đặc biệt nơi đâu người ta
lo lắng cho người yếu đuối và nghèo nàn với lòng can đảm và thương xót. Điều
này cần thiết biết bao: cần có các kitô hữu không để cho mệt mỏi đánh ngã, và
không nản chí trước các đối nghịch, nhưng sẵn sàng và cởi mở, sẵn sàng phục vụ.
Cần có những người thiện chí trợ giúp các anh chị em gặp khó khăn không phải chỉ
bằng lời nói nhưng với cả việc làm. Cần có các xã hội công bằng hơn, trong đó mỗi
người có thể có một cuộc sống xứng đáng hơn và nhất là một công việc làm được
trả lương công bằng.
ĐTC đã nhắc tới gương của
thánh Gregorio thành Narek, là tiếng nói của dân nước Armenia, là người luôn đặt
để trong sự đối thoại các bần cùng của con người với lòng thương xót của Thiên
Chúa. Thánh nhân là tiếng nói ủi an, khích lệ, dịu hiền, từ bi, thương xót của
Chúa.
Trước khi ban phép lành cuối
lễ ĐTC đã cám ơn Đức Thuợng Phụ Catholicos Karekin II và ĐTGM Minassian cũng
như Đức Thưọng Phu Ghabroyan, các Giám Mục, linh mục và các giới chức chính quyền
cũng như toàn thể tín hữu tham dự thánh lễ, dến từ nhiều miền, kể cả Cộng hoà
Georgia. Ngài cũng cám ơn các người quảng đại trợ giúp dân nghèo, các nhân viên
nhà thương Ashotsk, cộng đoàn công giáo địa phương, các nữ tu Armeni Vô nhiễm
nguyên tội và các nữ tu thừa sai bác ái của Mẹ Têrêsa Calcutta.
Sau thánh lễ ĐTC đã đi một
vòng quảng trường để chào tín hữu, rồi đến thăm tu viện “Đức Bà Armeni”, cách
đó 5 cây số. Mẹ bề trên tu viện các nữ tu Armeni Vô nhiễm nguyên tội đã tiếp
đón ĐTC tại lối vào viện mồ côi “Đức Bà Armeni – Trung tâm giáo dục
Boghossian”, trong đó có 60 trẻ em mồ côi. Trong tu viện cũng có “Trường huấn
nghệ Diramayr”. Các học sinh đảm trách việc tiếp đón ĐTC và phái đoàn Toà
Thánh. ĐTC đã dùng bữa trưa trong tu viện của các nữ tu.
Vào lúc 4 giờ 15 phút chiều
ĐTC từ giã cộng đoàn các nữ tu và nhân viên trường huấn nghệ và viện mồ côi tu
viện Đức Bà Armeni. Ngài đã chup hình lưu niệm với ba nhóm: các trẻ em mồ côi,
các khách của tu viện cùng con em của họ, và các ân nhân. Tiếp đến ngài đến viếng
thăm nhà thờ chính toà Tông truyền Gyumri tọa lạc tại quảng trường Vartanànts
cách đó 5 cây số.
Nhà thờ chính toà Armeni Tông
truyền “Yot Verk” được dâng kính Mẹ Thánh của Thiên Chúa, và được biết đến như
là “Nhà thờ chính toà 7 vết thương của Đức Trinh Nữ Maria Rất Thánh”, chiếu
theo hình vẽ trên gỗ được cất giữ tại đây. Bẩy vết thương quy chiếu 7 giai thoại
cuộc đời Thánh Gia, từ biến cố trốn sang Ai Cập cho tới vụ an táng Chúa Giêsu.
Ban đầu nhà thờ được làm bằng gỗ, sau đó vào cuối thế kỷ XIX được các ông hoàng
nhà Kamsarakan thay thế bằng đá màu tối của vùng này. Dưới thời chính quyền
Liên Xô mọi nhà thờ tại Gyumri đều bị đóng cửa. Nhà thờ chính toà Yot Verk đã
là nơi thờ tự duy nhất được mở cửa cho các tín hữu. Bàn thờ chính giữa được
dùng bởi Giáo Hội Armeni Tông Truyền, trong khi cung thánh phía bắc có tượng
thánh giá lấy từ một nhà thờ công giáo dành cho các tín hữu công giáo, và cung
thánh phiá nam có một ảnh Icone nga thánh Nicola vẽ trên gỗ dành cho tín hữu
chính thống thuộc Toà Thượng Phụ Matscơva. Bị hư hại trong trận động đất năm
1988 nhà thờ chính tòa được trùng tu với tiền quyên góp của các tín hữu Armeni
di cư bên Argentina. Mái tròn cao 12 mét có bức bích họa Mẹ Maria bồng Chúa
Giêsu hài đồng của họa sĩ Vardges Surenyants. Bên trong nhà thờ có nhiều ảnh
Icone và trên tường có các bức bích họa thuộc thế kỷ XVII và các bức tranh sơn
dầu.
ĐTC và Đức Thượng Phụ
Catholicos tiến vào nhà thờ bên trong có vài Giám Mục Armeni Tông Truyền và một
nhóm người tàn tật và người tỵ nạn Siri. ĐTC và Đức Thượng Phụ thinh lặng quỳ cầu
nguyện trước ảnh Icone năm vết thương, rồi hai vị tôn kính thánh giá, trong khi
đó một ca đoàn hát các thánh ca. Sau cùng ĐTC ban phép lành cho mọi người hiện
diện. Khi ĐTC ra ngoài nhà thờ có một nữ ân nhân tặng quà cho ngài.
Tiếp đến ĐTC đã đi xe tới viếng
thăm nhà thờ chính toà các thánh Tử đạo công giáo Armeni ở quảng trường
Vartanànts, cách đó 700 mét. Nhà thờ chính toà này đã được khởi công xây cất
năm 2010 do ĐTGM Minassian hoàn thành, và được ĐHY Leonardo Sandri, Tổng trưởng
Bộ các Giáo Hội Đông Phương thánh hiến năm 2015.
ĐTGM Minassian và cha sở đã
tiếp đón ĐTC tại cửa nhà thờ. Bên trong nhà thờ có một số các ân nhân của Giáo
Hội công giáo Armeni. Sau lời nguyện của ĐTC Đức Thượng Phụ Catholicos đã ban
phép lành cho mọi người.
Sau khi từ giã mọi người ĐTC
đã ra phi trường Gyumri cách đó 6 cây số để lấy máy bay trở về Yerevan. Từ phi
trường ĐTC đi xe tới quảng trường Cộng hoà Yerevan cách đó 12 cây số để tham dự
buổi gặp gỡ đại kết cầu nguyện cho hoà bình. Quảng trường tọa lạc trước Dinh
chính quyền, các Bộ và Viện bảo tàng quốc gia, có chỗ cho 50.000 người. Buổi phụng
vụ lời Chúa cầu nguyện cho hoà bình được cử hành bằng tiếng Ý và Armeni.
Để thực hiện sự hiệp nhất
cần có lời cầu nguyện của tất cả mọi người. và cần gia tăng tình yêu thương
nhau, vì chỉ có lòng bác ái mới có thể chữa lành ký ức và các vết thương của
quá khứ: chỉ có tình yêu thương mới xóa bỏ được các thành kiến và cho phép thừa
nhận rằng việc cởi mở với người anh em thanh tẩy và cải tiến các xác tín của
mình. Chúng ta được mời gọi can đảm từ bỏ các xác tín cứng nhắc và các lợi lộc
riêng, nhân danh tình yêu tự hạ và trao ban, nhân danh tình yêu khiêm nhường.
ĐTC đã nói như trên trong bài
giảng tại buổi cầu nguyện đại kết cho hoà bình. Ngài đã nói lên ước muốn của
ngài được viếng thăm Armenia, là quốc gia đầu tiên trên thế giới đã lãnh nhận đức
tin kitô. Các thánh giá bằng đá “khatchkar” kể lại một lịch sử duy nhất bao gồm
đức tin sắt đá và khổ đau vô biên, một lịch sử giầu các chứng nhân tuyệt vời của
Tin Mừng, mà anh chị em là những người thừa kế. Tôi đến như người hành hương từ
Roma để gặp gỡ anh chị em và bầy tỏ tâm tình yêu thương quý mến và vòng
tay ôm huynh đệ của toàn thể Giáo Hội Công Giáo, yêu mến anh chị em và gần gũi
với anh chị em.
Trong các năm qua các cuộc gặp
gỡ giữa hai Giáo Hội đã được củng cố, luôn thân tình và đáng ghi nhớ. Và tôi
cám ơn anh chị em vì lòng trung thành với Tin Mừng thường rất anh hùng, và là một
món quà vô giá cho mọi kitô hữu. Chúng ta vui mừng chia sẻ biết bao bước tiến
trên con đường chung, và tin tưởng hướng nhìn về một ngày, trong đó với sự trợ
giúp của Thiên Chúa, chúng ta sẽ hiệp nhất gần bàn thờ hiến tế của Chúa
Kitô trong sự hiệp thông thánh thể tràn đầy.
ĐTC đã đặc biệt nhắc đến biết
bao vị tử đạo đã đóng ấn niềm tin chung nơi Chúa Kitô với máu của các vị. Các vị
là những vì sao chiếu sáng và chỉ đường cho chúng ta trên con đường còn lại phải
đi. Trong số các vị thánh đó nổi bật là thánh Catholicos Nerses Shnorhali, rất
yêu thương dân tộc và các truyền thống, và hướng tới các Giáo Hội khác. Sự hiệp
nhất thực ra không phải là một lợi thế chiến thuật cần tìm kiếm cho lợi ích của
nhau, nhưng là lợi thế mà Chúa Giêsu xin chúng ta, và là điều chúng ta phải chu
toàn với thiện chí và tất cả sức lực của mình, để thực hiện sứ mệnh của chúng
ta là trao ban Tin Mừng cho thế giới với sự trung thực. Theo thánh Nerses để thực
hiện sự hiệp nhất cần thiết thiện chí của một ai đó trong Giáo Hội thì không đủ:
cần phải có lời cầu nguyện của tất cả mọi người. Chính vì thế chiều nay tôi đến
đây để xin anh chị em món quà của lời cầu nguyện. Thánh Nerses cũng ghi nhận là
cần gia tăng tình yêu thương nhau, vì chỉ có lòng bác ái mới có thể chữa lành
ký ức và các vết thương của quá khứ: chỉ có tình yêu thương mới xóa bỏ được các
thành kiến và cho phép thừa nhận rằng việc cởi mở với người anh em thanh tẩy và
cải tiến các xác tín của mình. Noi gương thánh nhân chúng ta được mời gọi can đảm
từ bỏ các xác tín cứng nhắc và các lợi lộc riêng, nhân danh tình yêu tự hạ và
trao ban, nhân danh tình yêu khiêm nhường: nó là dầu được chúc lành của cuộc sống
kitô, là dầu thơm thiêng liêng quý báu chữa lành, củng cố và thánh hóa. Thánh
nhân nói “Chúng ta hãy bổ túc các thiếu sót với lòng bác ái đồng nhất”… Không
phải các tính toán, và các lợi thế, nhưng là tình yêu thương khiêm nhường và quảng
đại lôi kéo lòng thương xót của Thiên Chúa Cha, phước lành của Chúa Kitô và sự
phong phú của Chúa Thánh Thần.
Sự bình an mà Chúa Giêsu ban
tặng cho chúng ta thế giới này vất vả tìm kiếm. Ngày nay các chướng ngại trên
con đường hoà bình lớn biết bao, và các hậu quả của chiến tranh thê thảm biết
bao! Tôi nghĩ tới các dân tộc bị bó buộc phải bỏ tất cả, đặc biệt là bên vùng
Trung Đông, nơi biết bao nhiêu anh chị em của chúng ta đau khổ vì bạo lực và
bách hại, vì thù hận và các xung khắc luôn luôn được dưỡng nuôi bởi tệ nạn phổ
biến và buôn bán khí giới, bởi cám dỗ dùng võ lực và thiếu tôn trọng đối với
con người, đặc biệt là đối với những người yếu đuối, nghèo nàn và đối với tất cả
những ai chỉ xin có một cuộc sống xứng đáng.
Tiếp tục bài giảng trong buổi
cầu nguyện đại kết cho hoà bình, ĐTC nói: Tôi không thể không nghĩ tới các thử
thách kinh khủng mà dân tộc anh chị em đã phải sống: một thế kỷ đã qua, kể từ
khi “Sự dữ lớn lao” đổ ập trên anh chị em. Cuộc tàn sát to lớn và điên loạn, mầu
nhiệm thê thảm này của sự gian ác mà dân tộc anh chị em đã sống trong thịt xác,
ghi đậm dấu trong ký ức và nung nấu con tim. Tôi muốn nhấn mạnh rằng các khổ
đau của anh chị em cũng là các khổ đau của chúng tôi: chúng là các khổ đau của
Thân Mình mầu nhiệm Chúa Kitô. Nhớ lại chúng không chỉ là điều thích đáng mà là
một bổn phận: Ước chi chúng là lời cảnh cáo cho mọi thời đại, để thế giới đừng
bao giờ rơi vào lốc xoáy của những kinh hoàng như thế!
ĐTC đã ca ngợi đức tin kitô của
Giáo Hội Armeni cả trong những lúc thê thảm nhất của lịch sử đã là sức đẩy khai
mào cuộc tái sinh của dân tộc bị thử thách. Nó chính là sức mạnh đích thực cho
phép anh chị em rộng mở cho con đường nhiệm mầu và cứu rỗi của Phục Sinh: các vết
thương còn mở và bị gây ra bởi thù hận tàn bạo và vô nghĩa có thể trong một
cách thế nào đó đồng hình dạng với các vết thương của Chúa Kitô phục sinh, với
các vết thương đã bị mở ra và Ngài còn mang trên thịt xác ngày hôm nay... Các vết
thương kinh khủng ấy được tình yêu biến đổi đã trở thành suối nguồn của tha thứ
và hoà bình… Thật thế, ký ức được tình yêu đi ngang qua có khả năng bước đi
trên các con đường mới gây kinh ngạc, nơi các đan dệt của thù hận biến thành
các dự án hoà giải, trong đó có thể hy vọng nơi một tương lai tốt đẹp hơn cho mọi
người.
Hướng tới các ban trẻ ĐTC
nói: Các người trẻ thân mến, tương lai này tuỳ thuộc các con: khi làm cho sự
khôn ngoan của cha ông các con thành kho tàng, các con hãy ước muốn trở thành
những người xây dựng hòa bình, không phải các chưởng khế của tình trạng ngưng đọng,
nhưng là những người tích cực thăng tiến một nền văn hóa gặp gỡ và hoà giải.
ĐTC đã khích lệ mọi người noi
gương thánh Gregorio thành Narek mà ngài đã tuyên bố là Tiến sĩ Giáo Hội và có
thể gọi thánh nhân là “Tiến sĩ hòa bình”. Cuốn sách ngài viết có thể là hiến
pháp tinh thần của nhân dân Armeni, trong đó có lời cầu này: “Lậy Chúa, xin nhớ
tới những người trong dòng giống nhân loại là các kẻ thù của chúng con, nhưng
vì thiện ích của họ, xin thực thi nơi họ sư tha thứ và lòng thương xót” Nhu
thánh nhân chúng ta cũng phải là người dâng lời cầu nguyên cho toàn thế giới.
ĐTC gửi lời chào mọi người dân Armeni sống rải rác đó đây trên thế giới, và cầu
chúc họ trở thành các sứ giả của sự hiệp thông và hòa bình.
ĐTC và Đức Thượng Phụ
Catholicos đã ôm hôn trao ban bình an cho nhau, rồi ban phép lành cho tín hữu.
Từ giã mọi người ĐTC đã đi xe
về dinh Tông toà Etchmiadzin cách đó 12 cây số để dùng bữa tối và nghỉ đêm, kết
thúc ngày thứ hai trong chuyến viếng thăm Armenia ba ngày.
Linh Tiến Khải
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét