21/07/2016
Thứ năm tuần 16 thường niên
Bài Ðọc
I: (Năm II) Gr 2, 1-3. 7-8. 12-13
"Họ đã bỏ Ta là nguồn nước hằng sống, để đào giếng
rạn nứt".
Trích sách Tiên tri Giêrêmia.
Ðây lời Chúa phán cùng tôi rằng: "Ngươi hãy đi
và hãy la vào tai Giêrusalem rằng: Ðây Chúa phán: Ta đã nhớ mối tình thanh xuân
của ngươi, nhớ đến tình yêu thời đính hôn của ngươi, khi đó ngươi theo Ta trong
sa mạc, trong phần đất chưa gieo trồng. Lúc ấy Israel đã được thánh hiến cho
Chúa, và là hoa quả đầu mùa của Người; những ai động đến nó, phải đắc tội và phải
chuốc lấy tai hoạ". Chúa phán như vậy.
"Ta đã dẫn dắt các ngươi vào đất phì nhiêu, để
các ngươi hưởng dùng hoa quả của nó; nhưng vừa ở đó, các ngươi đã làm dơ bẩn đất
của Ta và biến cơ nghiệp Ta thành nơi ghê tởm. Các tư tế không nói: 'Chúa ở
đâu?'; (các kẻ) nắm giữ lề luật không nhìn biết Ta, còn các chủ chăn thì phản bội
Ta, và các tiên tri lại nhân danh Baal mà nói tiên tri và chạy theo các bụt thần
giả trá".
Chúa lại phán: "Hỡi tầng trời, hãy kinh ngạc về
điều này, và hỡi các cửa trời, hãy ưu sầu thảm não! Vì chưng, dân Ta đã phạm
hai tội xấu xa: Họ đã từ bỏ Ta là nguồn nước hằng sống, để đào những giếng rạn
nứt không giữ nước được".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 35, 6-7ab. 8-9. 10-11
Ðáp: Lạy
Chúa, nguồn sống là ở như nơi Chúa (c. 10a).
Xướng: 1) Lạy Chúa, đức từ bi Ngài chạm tới trời
cao; lòng trung tín của Ngài vươn tới ngàn mây. Ðức công minh của Ngài như núi
non Thiên Chúa; sự phán quyết của Ngài như biển thẳm sâu. - Ðáp.
2) Ôi Thiên Chúa, cao quý thay ân sủng của Ngài; con
người ta tìm nương tựa trong bóng cánh của Ngài. Họ được ăn no đồ bổ dưỡng nơi
nhà Chúa, và Chúa cho họ uống bởi nguồn vui thú của Ngài. - Ðáp.
3) Bởi chưng nguồn sống là ở như nơi Chúa, và trong
sự sáng của Ngài, chúng con nhìn xem sự sáng. Xin Chúa dành để tình thương cho
những ai thờ Chúa, và đức công minh Ngài cho những kẻ lòng ngay. - Ðáp.
Alleluia:
Ga 15, 15b
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy gọi các
con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã
cho các con biết". - Alleluia.
Phúc
Âm: Mt 13, 10-17
"Về phần các con, đã cho biết những mầu nhiệm
Nước Trời, còn họ thì không cho biết".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, các môn đệ đến gần thưa Chúa Giêsu rằng:
"Tại sao Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ?" Người đáp lại: "Về phần
các con, đã cho biết những mầu nhiệm Nước Trời, còn họ thì không cho biết. Vì
ai đã có, thì ban thêm cho họ được dư dật; còn kẻ không có, thì cái họ có cũng
bị lấy đi. Bởi thế, Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ: vì họ nhìn mà không thấy,
lắng tai mà không nghe và không hiểu chi hết. Thế mới ứng nghiệm lời tiên tri
Isaia nói về họ rằng: "Các ngươi lắng tai nghe mà chẳng hiểu, trố mắt nhìn
mà chẳng thấy gì. Vì lòng dân này đã ra chai đá, họ đã bịt tai, và nhắm mắt lại,
kẻo mắt thấy được, tai nghe được, và lòng chúng hiểu được mà hối cải, và Ta lại
chữa chúng cho lành".
"Phần các con, phúc cho mắt các con vì được thấy;
và phúc cho tai các con vì được nghe. Quả thật, Thầy bảo các con: Nhiều vị tiên
tri và nhiều đấng công chính đã ao ước trông thấy điều các con thấy, mà không
được thấy; mong ước nghe điều các con nghe, mà không được nghe".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm:
Tại Sao Dùng Dụ Ngôn
Kitô giáo là đạo từ trời xuống, vì những giáo lý và
niềm tin Kitô do chính Thiên Chúa truyền xuống. Chúa Giêsu Kitô, Ngôi Lời Thiên
Chúa chính là mạc khải về Thiên Chúa cho con người.
Trong lời rao giảng của Ngài, Chúa Giêsu thường dùng
dụ ngôn để nói về Nước Trời, một thực tại không thể diễn tả được bằng ngôn ngữ
loài người, và nếu có diễn tả được, thì con người cũng không thể hiểu nổi vì nó
vượt khỏi thế giới khả giác này, hay nói như thánh Phaolô, đó là thực tại mà mắt
con người chưa từng thấy, tai chưa từng nghe, lòng người chưa từng cảm nghiệm
được. Thực tại ấy không thể thu hẹp trong một vài câu định nghĩa, mà phải diễn
tả bằng dụ ngôn, vì cách diễn tả này không giới hạn, nhưng tạo thuận lợi cho việc
tìm hiểu sâu xa hơn.
Dụ ngôn là một thứ ngôn ngữ nói với những người
trong cuộc, những người sống trong tình thân với nhau. Ðể hiểu được dụ ngôn, cần
phải có hai đức tính quan trọng, đó là tâm hồn rộng mở và ước muốn tìm hiểu.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: "Về phần các con
đã được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời, còn họ thì không". Nói khác
đi, các môn đệ đã được chấp nhận vào cộng đoàn của những kẻ tin vào Chúa Giêsu,
vì thế, các ông có thể hiểu rõ những mầu nhiệm. Còn những kẻ ở bên ngoài, nhất
là những kẻ ở bên ngoài vì kiêu hãnh, vì khép kín, vì định kiến, như các Luật
sĩ và Biệt phái, thì khi nhìn vào các mầu nhiệm họ chỉ thấy bí ẩn và khó hiểu.
Chính cách trả lời của Chúa là tiêu chuẩn để biết được ai là người thuộc về
Chúa và ai là người ngoài cuộc: "Nếu Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ, là
vì họ nhìn mà không thấy, lắng tai mà không nghe. Còn các con, mắt các con thật
có phúc vì được thấy, tai các con có phúc vì được nghe".
Ước gì chúng ta được vào số những người mà Chúa
Giêsu cho là có phúc, tức là những người thấy, nghe và hiểu được Lời Chúa cũng
như nhận ra ý Chúa trong mọi biến cố cuộc sống.
Veritas
Asia
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Năm Tuần 16 TN2, Năm Chẵn
Bài đọc: Jer 2:1-3, 7-8, 12-13; Mt 13:10-17
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Nếu những nhà lãnh đạo không nói và làm
chứng cho Thiên Chúa, nhân loại sẽ quên Ngài.
Có một
câu truyện kể khi Chúa Giêsu khải hoàn trở về trời, sứ thần Gabriel ra đón Chúa
Giêsu và hỏi: “Loài người có nhận biết những gì Ngài làm cho họ không?” Chúa
Giêsu trả lời: “Các môn đệ của tôi sẽ nói cho họ biết.” Sứ thần hỏi tiếp: “Điều
gì sẽ xảy ra nếu họ quên không rao giảng?” Chúa Giêsu trả lời: “Tôi tin là các
môn đệ của tôi sẽ không làm chuyện đó.”
Bổn
phận quan trọng nhất của các người lãnh đạo và các ngôn sứ là nói về Chúa và
làm mọi cách cho dân nhận biết Chúa; nhưng trong thực tế, nhiều người lãnh đạo
đã lãng quên bổn phận quan trọng này. Thay vào đó, họ chạy theo những bụt thần
và dạy cho dân làm theo như vậy. Nhiều nhà lãnh đạo trong xã hội chúng ta đang
cố gắng loại trừ Thiên Chúa ra khỏi thế giới: Họ cấm đọc kinh hay thinh lặng nhớ
đến Chúa trước giờ học; họ muốn cất đi bảng 10 điều răn trong các tòa án …
Các
bài đọc hôm nay muốn nhắc nhở cho mọi người bổn phận làm ngôn sứ của Thiên
Chúa. Trong bài đọc I, Thiên Chúa kết tội hàng lãnh đạo của Israel vì họ đã
không làm tròn bổn phận dạy dỗ dân. Trong Phúc Âm, khi các môn đệ hỏi Chúa
Giêsu lý do Ngài dùng dụ ngôn mà nói chuyện với dân chúng, Chúa Giêsu trả lời:
“Bởi vì anh em thì được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời, còn họ thì
không.”
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài
đọc I: Những người lãnh đạo
của Jerusalem đã không chu toàn bổn phận của mình.
1.1/ Hãy
đi mà thét vào tai Jerusalem: Dân
chúng rất mau quên; vì thế, họ cần được các nhà lãnh đạo tinh thần nhắc đi nhắc
lại tất cả những gì Thiên Chúa đã làm cho họ. Nếu không, chỉ cần qua một thế hệ
là những thế hệ đi sau sẽ không còn biết gì đến Thiên Chúa nữa. Các ngôn sứ của
Thiên Chúa không ngừng nhắc nhở cho dân chúng về tình thương của Thiên Chúa, được
biểu lộ qua biến cố Xuất Hành, 40 năm trong sa mạc, và đưa vào Đất Hứa.
Trong
trình thuật hôm nay, chúng ta có thể nghe một sứ điệp tương tự. Đức Chúa phán với
Jeremiah: “Hãy đi mà thét vào tai Jerusalem như sau: Đức Chúa phán thế này: Ta
nhớ lại lòng trung nghĩa của ngươi lúc ngươi còn trẻ, tình yêu của ngươi khi
ngươi mới thành hôn, lúc ngươi theo Ta trong sa mạc, trên vùng đất chẳng ai
gieo trồng. Bấy giờ Israel là của thánh thuộc về Đức Chúa, là phần hoa lợi đầu
mùa của Người; tất cả những ai ăn lạm vào đó đều phạm lỗi, chúng phải mang tai
mắc hoạ” - sấm ngôn của Đức Chúa. Ta đã đưa các ngươi vào miền đất xanh tươi để
các ngươi được ăn hoa trái thổ sản của nó.” Mục đích của các ngôn sứ khi nhắc lại
những lời này là muốn dân chúng kiểm điểm lại nếp sống hiện tại của họ, và quay
trở về với tình thương trung thành của Thiên Chúa. Jeremiah viết: “Nhưng một
khi vào rồi (Đất Hứa), các ngươi đã làm nhơ nhớp đất của Ta, và biến gia sản của
Ta thành đồ ghê tởm.”
1.2/ Các
nhà lãnh đạo không còn biết đến Thiên Chúa: Con cái Israel được lãnh đạo bởi 4 thành phần chính sau
khi lập nghiệp trong Đất Hứa. (1) Thoạt đầu họ không có vua, vì Thiên Chúa
chính là vua của họ; nhưng dần dần dân chúng đòi các ngôn sứ phải đặt một vị
làm vua cai trị họ. Ngôn sứ Samuel, sau khi tham khảo ý Thiên Chúa đã đặt Saul
làm vua đầu tiên cai trị Israel. Trong trình thuật hôm nay, Jeremiah có lẽ gọi
vua là các mục tử. Họ chống lại Thiên Chúa bằng cách thiết lập các bàn thờ cho
thần ngoại, và bắt dân chúng thờ lạy.
(2)
Hàng tư tế: Họ chuyên lo việc thờ phượng trong Đền Thờ Jerusalem. Khi vua
Jeroboam đúc hai con bê bằng vàng cho dân chúng thờ, ông cũng thiết lập hàng tư
tế riêng để lo việc thờ phượng, mà không cần theo dòng tộc Levi. Hàng tư tế,
trong trình thuật hôm nay, cũng chẳng thèm hỏi: "Đức Chúa ở đâu?”
(3)
Các kinh sư: là những người chuyên học hỏi Lề Luật và dạy dỗ cho dân chúng.
Nhưng dần dần, họ cũng chẳng còn biết Luật để dạy cho dân chúng tuân theo.
(4) Các ngôn sứ: là những người nói thay cho Thiên Chúa. Nhưng cũng có các tiên tri giả xuất hiện. Họ không nói những gì Thiên Chúa truyền, nhưng “lại nhờ Baal mà tuyên sấm, chúng đi theo những thần vô tích sự.”
(4) Các ngôn sứ: là những người nói thay cho Thiên Chúa. Nhưng cũng có các tiên tri giả xuất hiện. Họ không nói những gì Thiên Chúa truyền, nhưng “lại nhờ Baal mà tuyên sấm, chúng đi theo những thần vô tích sự.”
Tất cả
các nhà lãnh đạo này đã hoàn toàn gạt Chúa ra ngoài cuộc sống, và đi theo những
lợi lộc vật chất. Họ đã bỏ quên Chúa là nguồn nước hằng sống; để thay bằng những
giếng không giữ được nước. Vì thế, họ sẽ kinh hoàng khi nhìn thấy hậu quả của
những hành động này; tất cả những gì họ chạy theo sẽ hoàn toàn bị hủy hoại.
2/
Phúc Âm: Những câu hỏi khó
trả lời
(1) Tại
sao dùng dụ ngôn? Trước hết chúng ta cần biết chút ít về dụ ngôn: Dụ ngôn là những
câu truyện dùng những hình ảnh bình dân và quen thuộc để diễn tả những thực tại
về luân lý. Chúng là những ví dụ đưa ra để giúp làm sáng tỏ những gì đã đề cập
tới. Vì thế, dụ ngôn không cần thiết nếu khán giả đã hiểu những gì mà tác giả
muốn nói. Dụ ngôn thích hợp với khán giả bình dân để người nói có thể dẫn khán
giả từ cái họ đã hiểu đến cái họ chưa hiểu, từ cái cụ thể đến cái trừu tượng, từ
cái thấy được trong hiện tại đến cái sẽ tới trong tương lai.
Chúa
trả lời cho các môn đệ: phần các con đã được ban cho để thấu hiểu các mầu nhiệm
Nước Trời, nhưng họ thì chưa được. Để hiểu các mầu nhiệm Nước Trời, các tông đồ
đã được Chúa hướng dẫn từ các kiến thức căn bản trước khi có thể đi xa hơn để
hiểu các kiến thức cao sâu hơn.
(2) Tại
sao người có lại cho thêm? Người không có sẽ bị tước đi những gì họ đang có?
Thoạt nghe qua có vẻ như là Chúa bất công, nhưng điều này rất đúng trong lãnh vực
tri thức: những ai đã có kiến thức căn bản, họ sẽ dùng những kiến thức này để
càng ngày càng hiểu biết những kiến thức khác nhiều hơn; những ai chưa đạt được
những kiến thức căn bản họ không thể tiến xa hơn. Những ai đã có kiến thức căn
bản mà không dùng tới thì lâu ngày sẽ mất đi. Điều này rất đúng cho việc học
ngoại ngữ. Có những người mặc dù đã học tiếng Spanish ở trung học, nhưng nếu họ
không dùng tới, những chữ đã biết rồi cũng mất đi; nhưng nếu có cơ hội dùng tới
thì càng ngày sẽ càng biết nhiều hơn.
(3) Tại
sao Chúa làm cho mắt chúng mù, tai chúng điếc, và tim chúng ra chai đá? Nếu
Thiên Chúa làm như thế, họ còn trách nhiệm cho tội cứng lòng không?
Trước
tiên, chúng ta cần biết đây chỉ là một lối nói của người Do Thái vì họ đã quá
quen trong việc tin tưởng mọi sự xảy ra trong thế giới là do bởi Thiên Chúa.
Tuy nhiên, họ không tin Chúa là tác giả làm cho con người phạm tội, vì con người
có đầy đủ ý thức và tự do để làm những gì họ muốn.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
Để
tin Chúa cần phải biết về Ngài, nhưng làm sao biết nếu không có người rao giảng
về Chúa? Nếu cha mẹ và những người dạy dỗ đức tin không chu toàn bổn phận quan
trọng này thì làm sao thế hệ mai sau biết Chúa và tin vào Ngài?
Linh
mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
21/07/16 THỨ NĂM TUẦN 16 TN
Th. Lô-ren-sô Brin-đi-si, linh mục, tiến sĩ HT
Mt 13,10-17
Th. Lô-ren-sô Brin-đi-si, linh mục, tiến sĩ HT
Mt 13,10-17
Suy niệm: Trong ngày Hài Nhi Giê-su được cha mẹ Người dâng trong đền thờ, ông già Si-mê-on tràn ngập hạnh phúc vì được gặp và bồng ẵm Đấng Cứu Thế. Quá xúc động trước diễm phúc lớn lao ấy, ông đã dâng lên Thiên Chúa lời ca ngợi: “Giờ đây xin để tôi tớ này được an bình ra đi, vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ” (Lc 4,30-31). Nếu chỉ tiếp xúc với Đức Ki-tô trong giây lát mà ông
Si-mê-on đã thấy mình có phúc, thì các môn đệ, những người đang thụ giáo với Thầy Giê-su, càng có phúc hơn nữa. Sở dĩ họ được gọi là “có phúc” vì họ đang được nghe tận tai những lời của Đấng mà các tiên tri loan báo nhưng không được gặp, được thấy tận mắt Đấng mà cha ông họ mong đợi nhưng không được xem thấy. Được gặp gỡ Đấng Cứu Thế là diễm phúc lớn nhất, ngoài ra không còn điều gì khác đáng mơ ước nữa.
Mời Bạn: Thừa hưởng gia
tài cha ông ta trong đức tin lưu truyền, ta cũng có phúc. Giáo hội Tông truyền đảm bảo cho lý trí và đức tin của từng người. Việc còn lại của ta là làm sao tìm gặp được hạnh phúc khi sống đời Ki-tô hữu trong tương quan với Đấng hứa ban phúc trường sinh
cho mình.
Sống Lời Chúa: Muốn được như thế, ta phải biết đọc các dấu chỉ của thời đại mà chúng ta đang sống. Đó là những “dụ ngôn mới” chuyển tải thông điệp của Chúa đến với ta. Đó là kho tàng mà chúng ta “các kinh sư thời đại mới” cần suy gẫm để được hạnh phúc muôn đời.
Cầu nguyện: Lạy Cha, xin giúp con biết sử dụng ngũ quan để thưởng thức cuộc sống này, đồng thời cũng nhận ra dấu vết của Chúa là Đấng Quan Phòng đang sống và hoạt động giữa chúng con.
Anh em thật có phúc
Đức Giêsu muốn nói rằng những ai đã mở lòng đón nhận thì càng được Thiên Chúa ban cho sự hiểu biết đức tin sâu xa hơn. Còn những người đã khép lòng trí lại, thì về mặt thiêng liêng sẽ bị nghèo đi.
Suy
niệm:
Tiền
định là một trong những vấn đề gây tranh cãi trong thần học.
Có
người nhấn mạnh quá đến tác động của ơn Chúa cần để được cứu độ,
đến
nỗi coi nhẹ tự do và trách nhiệm của con người.
Có
người còn dám cho rằng Chúa đã định sẵn từ vĩnh cửu
những
ai phải vào hỏa ngục hay được lên thiên đàng.
Thật
ra Thiên Chúa muốn cho mọi người được cứu độ (1 Tm 2, 4; 4, 10).
Kế
hoạch của Ngài là cứu độ toàn thế giới, chẳng trừ một ai.
Muốn
được cứu thoát, con người phải dùng tự do mình mà đón lấy ơn Chúa.
Ơn
Chúa có tác động trên tự do con người,
nhưng
lại không áp đặt hay cưỡng ép nó, vì nếu thế sẽ chẳng còn tự do.
Chính
Thiên Chúa ban tự do cho con người, và chính Ngài tôn trọng tự do ấy.
Thiên
Chúa không thể tiền định lời đáp của con người trước lời mời của ân sủng.
Trong
bài Tin Mừng hôm nay, có những câu cần được soi sáng.
“Bởi
vì anh em thì được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời,
còn
họ thì không” (c. 11).
Câu
này có thể bị hiểu lầm là Thiên Chúa có sự phân biệt đối xử.
Các
môn đệ thì được ơn hiểu biết, còn đám đông thì không.
Thật
ra Đức Giêsu chỉ muốn nói lên sự kiện này,
các
môn đệ là những người đã đáp lại tiếng gọi của Ngài,
nên
họ được ơn hiểu biết, ơn nắm bắt được mầu nhiệm Nước Trời.
Còn
đám đông những người từ chối thì khó lòng hiểu được.
Một
câu khác cũng cần được hiểu đúng: “Người đã có lại được cho thêm,
còn
ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi” (c. 12).
Ở
đây Đức Giêsu chỉ muốn nói rằng những ai đã mở lòng đón nhận
thì
càng được Thiên Chúa ban cho sự hiểu biết đức tin sâu xa hơn.
Còn
những người đã khép lòng trí lại, thì về mặt thiêng liêng sẽ bị nghèo đi.
Vào
buổi ban đầu, các môn đệ tin theo Đức Giêsu chỉ là nhóm nhỏ.
Còn
một đám đông lớn người Do thái không tin nhận Ngài.
Đức
Giêsu giảng cho họ bằng những dụ ngôn đơn sơ gần gũi.
Ngôn
ngữ của dụ ngôn vừa dễ hiểu đối với người mở lòng đón nhận,
vừa
khó hiểu đối với những ai từ chối và khép kín (c. 13).
Đức
Giêsu không chơi khăm con người khi giảng bằng dụ ngôn,
để
khiến họ trố mắt nhìn mà không thấy, lắng tai nghe mà không hiểu.
Nếu
họ không hiểu được dụ ngôn, thì không phải lỗi tại Ngài,
mà
do quả tim họ đã ra chai đá, do họ nhắm mắt, bịt tai .
Họ
không hiểu vì không muốn hoán cải và được chữa lành (c. 15).
Như
các môn đệ xưa, các Kitô hữu ngày nay cũng là người có phúc.
Chúng
ta được thấy, được nghe nhiều điều mà người khác không được.
Ước
gì chúng ta tìm được thứ ngôn ngữ thích hợp
để
ai cũng có thể nghe được và hiểu được sứ điệp cứu độ của Chúa.
Cầu
nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin
cho con trở nên đơn sơ bé nhỏ,
nhờ
đó con dễ nghe được tiếng Chúa nói,
dễ
thấy Chúa hiện diện
và
hoạt động trong đời con.
Sống giữa một thế giới đầy lọc lừa và đe dọa,
xin
cho con đừng trở nên cứng cỏi,
khép
kín và nghi ngờ.
Xin dạy con sự hiền hậu
để
con biết cảm thông và bao dung với tha nhân.
Xin dạy con sự khiêm nhu
để
con dám buông đời con cho Chúa.
Cuối cùng, xin cho con sự bình an sâu thẳm,
vui tươi đi trên con đường hẹp với Ngài,
hạnh phúc vì được cùng Ngài chịu khổ đau. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
21
THÁNG BẢY
Hồng
Ân Nghĩa Tử
Sự chọn
lựa đầy yêu thương của Thiên Chúa và hệ quả nhất định của nó luôn luôn gắn liền
với sự sống mật thiết của Thiên Chúa Ba Ngôi. Sự sống đầy sống hoạt trong tình
yêu này liên quan đến Chúa Cha cũng như Chúa Con trong Chúa Thánh Thần. Con người
chia sẻ sự sống thần linh này vì con người được mời gọi tham dự vào kế hoạch
sáng tạo và cứu độ của Thiên Chúa. Con người được tiền định ơn tuyển chọn thần
linh này ngay cả trước khi vũ trụ được tạo thành (Ep 1,5).
Con
người – ngay cả trước khi được dựng nên – đã được Thiên Chúa “chọn lựa”. Sự chọn
lựa này xảy ra nơi Người Con Đời Đời (Ep 1,4). Nghĩa là, nó xảy ra nơi Ngôi Lời
Vĩnh Cửu, nhờ Ngài mà thế giới được tạo thành. Như vậy, con người được tuyển chọn
trong Chúa Con để nhờ chức phận làm con của Người mà con người được Thiên Chúa
nhận làm nghĩa tử. Đây chính là cốt lõi của mầu nhiệm tiền định. Và đây chính
là sự biểu lộ tình yêu vĩnh cửu của Chúa Cha đối với chúng ta. Như Kinh Thánh
nói: “Vì yêu thương, Ngài đã tiền định cho ta làm nghĩa tử trong Đức Giê-su
Kitô” (Ep 1,5).
Như vậy,
sự tiền định cho thấy từ đời đời Thiên Chúa kêu gọi con người tham dự vào bản
tính của Ngài. Đó là một ơn gọi tiến tới sự thánh thiện thông qua ơn nghĩa tử –
trở thành những người con “tinh tuyền thánh thiện trước thánh nhan Ngài” (Ep
1,4).
-
suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm.
Lê Công Đức dịch
từ nguyên tác
LIFT
UP YOUR HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày
21 – 7
Thánh
Laurensô Brinđisi, linh mục, tiến sĩ Hội Thánh
Gr
2,1-3.7-8.12-13; Mt 13,10-17.
Lời
suy niệm: “Các môn đệ đến gần hỏi Đức Giêsu rằng: Sao
Thầy lại dùng dụ ngôn mà nói với họ? Người đáp: Bởi vì anh em thì được ơn hiểu
biết các mầu nhiệm Nước Trời, còn họ thì không. Ai đã có thì được cho thêm, và
sẽ có dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy mất.”
Lời
Chúa, nếu những ai đọc và tìm hiểu theo cách của thế gian duy chỉ dùng trí tuệ
thông minh của mình thì sẽ không thể đem lại sự sống cho mình; nó chỉ là những
lời hay ý đẹp mà thôi, không đem lại sự sống đời đời cho mình. Chỉ có những ai
đọc Lời Chúa với niềm tin vào Người, Người là Thiên Chúa tạo đựng và cứu độ;
thì sẽ được ơn ban của Người và Thần Khí Người soi sáng, dẫn đưa đem lại sự sống
đời đời cho mình.
Lạy
Chúa Giêsu. Chúa cho chúng con biết: Những ai đã có thì được cho thêm. Xin cho
chúng con ngày càng được ân nghĩa với Chúa, hiểu sâu Lời Chúa và được sống
trong tình yêu của Chúa, để chúng con ngày sau được cùng vui hưởng hạnh phúc
trong Nước Chúa.
Mạnh
Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày
21-07: Thánh LAURENSÔ BRINDISTIÔ
Linh
Mục Và Tiến Sĩ Hội Thánh (1559 - 1619)
Cesare
de Rossi sinh tại Brindisi vùng Aquila, miền nam nước ý năm 1559, Ngài được
giáo dục tại Venise và gia nhập dòng thánh Phanxicô ở Verôna. Năm 1575, Ngài được
mặc áo dòng với tên gọi là Laurensô Brindisiô.
Những
năm theo học tại Padua đã giúp Ngài trở thành những học giả, thông thạo các thứ
tiếng Pháp, Đức, Hy lạp, Syria và Do thái. Những khả năng này đã góp phần mang
lại nhiều thành công khi Ngài làm việc với anh em Do thái và khi Ngài phải
đương đầu với sự bành trướng của Thệ phản. Danh tiếng Ngài lan rộng khắp vùng
Trung Âu.
Trong
dòng, Laurensô Brindisiô đã được bầu làm bề trên cả.
Ngoài
ra, Ngài còn hăng say với đạo binh Thánh giá dẫn đầu đoàn quân Hung Gia Lợi chống
lại quân Thổ Nhĩ Kỳ. Với thánh giá cầm tay, Ngài đã mang lại chiến thắng năm
1601.
Phần
đời còn lại, Ngài hiến mình cho việc truyền giáo và ngoại giáo. Với khả năng đặc
biệt này, Ngài đã là một nhà ngoại giao tài giỏi của nhiều vị giáo hoàng. Tuy
nhiên, giữa những hoạt động bên ngoài, thánh nhân vẫn dành nhiều thời gian cho
việc cầu nguyện và thực tập các nhân đức. Chính đời sống nội tâm sâu sắc đã đưa
Ngài lên đỉnh cao đời sống thánh thiện.
Năm
1619, đang khi thi hành sứ mạng được trao phó ở Lisbonne, thánh Laurensô đã từ
trần trong sự nghèo khó đơn sơ và thánh thiện. Ngài để lại nhiều tác phẩm giá
trị cho kho tàng đức tin công giáo.
Năm
1881, Đức Lêô XIII đã suy tuyên Ngài lên bậc hiển thánh. Năm 1959 Đức
Gioan XXIII đặt Ngài làm tiến sĩ Hội Thánh.
(daminhvn.net)
21
Tháng Bảy
Lúa Mì VàHoa Mồng Gà
Hòa
Lan là một nước nổi tiếng về hoa. Ở phía bắc Hòa Lan, có những cánh đồng hoa chạy
dài tắp tít vượt cả tầm nhãn giới. Nhiều loại hoa sặc sỡ tuyệt đẹp làm say mê
khách du lịch. Phía nam của Hòa Lan, trái lại, chỉ có những cánh đồng lúa mì
bát ngát và khi lúa chín thì khắp nơi chỉ còn là một màu vàng ối làm nổi bật
màu đỏ tím của những bông hoa mồng gà.
Cảnh
đó đẹp với thi sĩ và họa sĩ nhưng rất đáng buồn đối với nông gia vì mồng gà
càng sặc sỡ thì vụ lúa càng kém. Chẳng có cách nào nhổ hết được những cây mồng
gà này mà không làm hư hại lúa, đằng khác hoa mồng gà càng nhiều và càng đẹp
thì khách du lịch càng làm hư hại lúa nhiều, mỗi khi họ nhảy xuống ruộng để hái
hoa.
Sự
chung đụng của lúa mì và hoa mồng gà: đó là bức tranh tuyệt hảo của nhân loại
chúng ta. Thiên Chúa tạo dựng lúa mì để nuôi sống chúng ta, nhưng Người cũng
cho hoa mồng gà mọc lên để làm vui mắt chúng ta. Có lúa mì thì cũng có hoa mồng
gà. Có nhà nông thì cũng có thi sĩ, họa sĩ.
Thiên
Chúa cho nắng mưa hòa nhịp với nhau. Người nông gia không thể đòi hỏi chỉ có
mưa cho lúa tốt. Người nghệ sĩ không thể đòi hỏi chỉ có ánh mặt trời... Sống là
biết chấp nhận sự đa diện của vũ trụ như một bức tranh tuyệt hảo. Sống là biết
lấy đau khổ, mất mát của mình làm hạnh phúc cho người khác.
(Lẽ
Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét