15/08/2016
ĐỨC MẸ LÊN TRỜI.
Lễ trọng. Lễ HỌ. Cầu cho giáo dân.
* “Kết thúc cuộc đời dương thế, Đấng Vô
Nhiễm Nguyên Tội là Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, đã được đưa lên hưởng vinh
quang thiên quốc cả hồn lẫn xác”. Với những lời đó, năm 1950 đức giáo hoàng Piô
12 đã xác định tín điều Đức Maria hồn xác lên trời. Đặc ân này xuất phát từ ơn
được làm Đức Mẹ Chúa Trời và là hy vọng chắc chắn cho toàn thể nhân loại, là lời
hứa cho toàn thể nhân loại sẽ được phục sinh.
Bài Ðọc I: Kh 11, 19a; 12, 1-6a,
10ab
"Một người nữ mặc áo mặt trời,
chân đạp mặt trăng".
Trích sách Khải Huyền của Thánh
Gioan.
Ðền thờ Thiên Chúa trên trời đã
mở ra. Và một điềm lạ vĩ đại xuất hiện trên trời: một người nữ mặc áo mặt trời,
chân đạp mặt trăng, đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao: Bà đang mang thai,
kêu la chuyển bụng, và đau đớn sinh con.
Lại một điềm lạ khác xuất hiện
trên trời: một con rồng đỏ khổng lồ, có bảy đầu, mười sừng, và trên bảy đầu, đội
bảy triều thiên. Ðuôi nó kéo đi một phần ba tinh tú trên trời mà ném xuống đất.
Con rồng đứng trước mặt người nữ sắp sinh con, để khi Bà sinh con ra, thì nuốt
lấy đứa trẻ.
Bà sinh được một con trai, Ðấng
sẽ dùng roi sắt mà cai trị muôn dân: Con Bà được mang về cùng Thiên Chúa, đến tận
ngai của Người. Còn Bà thì trốn lên rừng vắng, ở đó Bà được Thiên Chúa dọn sẵn
cho một nơi.
Và tôi nghe có tiếng lớn trên trời
phán rằng: "Nay sự cứu độ, quyền năng, vương quyền của Thiên Chúa chúng
ta, và uy quyền của Ðức Kitô của Người đã được thực hiện".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 44, 10bc. 11. 12ab. 16
Ðáp: Hoàng Hậu đứng bên hữu Ðức Vua, mặc đồ trang điểm vàng
ròng (c. 10b).
Xướng: 1) Hoàng Hậu đứng bên hữu
Ðức Vua, mặc đồ trang điểm vàng ròng lộng lẫy. - Ðáp.
2) Xin hãy nghe, thưa Nương Tử,
hãy coi và hãy lắng tai, hãy quên dân tộc và nhà thân phụ. - Ðáp.
3) Ðể Ðức Vua Người sủng ái dong
nhan: chính Người là Chúa của Cô Nương, hãy phục vụ Người. - Ðáp.
4) Họ bước đi trong niềm hân
hoan vui vẻ, tiến vào trong cung điện Ðức Vua. - Ðáp.
Bài Ðọc II: 1 Cr 15, 20-26
"Hoa quả đầu mùa là Ðức
Kitô, đoạn đến những kẻ thuộc về Chúa".
Trích thư thứ nhất của Thánh
Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, Ðức Kitô đã từ
cõi chết sống lại, là hoa quả đầu mùa của những kẻ yên giấc. Vậy sự chết bởi một
người, thì sự kẻ chết sống lại cũng bởi một người. Cũng như mọi người đều phải
chết nơi Ađam thế nào, thì mọi người cũng sẽ được tác sinh trong Ðức Kitô như vậy.
Nhưng ai nấy đều theo thứ tự của mình, hoa quả đầu mùa là Ðức Kitô, đoạn đến những
kẻ thuộc về Ðức Kitô, những kẻ đã tin Người xuống thế: rồi đến tận cùng, khi
Người đã trao vương quốc lại cho Thiên Chúa Cha, và đã tiêu diệt mọi đầu mục,
quyền năng và thế lực. Nhưng Người còn phải cai trị cho đến khi Người đặt mọi
quân thù dưới chân Người. Kẻ thù cuối cùng sẽ bị tiêu diệt là sự chết, bởi Người
đã bắt mọi sự quy phục dưới chân Người.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia:
Alleluia, alleluia! - Ðức Maria
được mời gọi lên trời; đạo binh các thiên thần mừng rỡ hân hoan. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 1, 39-56
"Ðấng toàn năng đã làm cho
tôi những sự trọng đại: Người nâng cao những người phận nhỏ".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Luca.
Trong những ngày ấy, Maria chỗi
dậy, vội vã ra đi lên miền núi, đến một thành xứ Giuđêa. Bà vào nhà ông Dacaria
và chào bà Elisabeth, và khi bà Elisabeth nghe lời chào của Maria, thì hài nhi
nhảy mừng trong lòng bà, và bà Elisabeth được đầy Chúa Thánh Thần, bà kêu lớn
tiếng rằng:
"Bà được chúc phúc giữa các
người phụ nữ, và Con lòng Bà được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến
viếng thăm? Vì này tai tôi vừa nghe lời Bà chào, hài nhi liền nhảy mừng trong
lòng tôi. Phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng Bà sẽ được thực hiện".
Và Maria nói: "Linh hồn tôi
ngợi khen Chúa, và thần trí tôi hoan hỉ trong Thiên Chúa, Ðấng Cứu Ðộ tôi, vì
Chúa đã đoái nhìn đến phận hèn tớ nữ của Chúa. Này từ nay muôn thế hệ sẽ khen
tôi có phước, vì Ðấng toàn năng đã làm cho tôi những sự trọng đại, và Danh Ngài
là thánh. Lòng thương xót Chúa trải qua đời nọ đến đời kia dành cho những người
kính sợ Chúa. Chúa đã vung cánh tay ra oai thần lực, dẹp tan những ai thần trí
kiêu căng. Chúa lật đổ người quyền thế xuống khỏi ngai vàng và nâng cao những
người phận nhỏ. Chúa đã cho người đói khát no đầy ơn phước, và để người giàu có
trở về tay không. Chúa săn sóc Israel tôi tớ Chúa, bởi nhớ lại lòng thương xót
của Ngài. Như Chúa đã phán cùng các tổ phụ chúng tôi, cho Abraham và dòng dõi
người đến muôn đời".
Maria ở lại với bà Elisabeth độ
ba tháng, đoạn Người trở về nhà Mình.
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm : Ðến gần bên Chúa
Yêsu như Ðức Mẹ
Nghe qua những bài Kinh Thánh
hôm nay, chúng ta thấy phụng vụ dường như muốn hướng tâm hồn chúng ta về trời để
thấy Ðức Mẹ đang ở trên đó qua bài sách Khải huyền; Người đang hân hoan ngợi
khen Chúa qua bài Tin Mừng; và đặc biệt Người đang cảm mến ơn phúc hồn xác được
ở trong vinh quang Thiên Chúa qua bài thư Phaolô. Nhưng nếu đọc kỹ lại, chúng
ta có thể tự hỏi chưa chắc những bài Kinh Thánh kia đơn giản như vậy. Và biết
đâu khi đó chúng ta sẽ thấy rằng Lời Chúa hôm nay nhắm vào chúng ta hơn Ðức Mẹ
và dường như Chúa muốn gương sáng của cuộc đời Ðức Mẹ để giáo huấn và bổ dưỡng
chúng ta trong cuộc đời dương thế. Chúng ta hãy thử tìm hiểu những bài đọc Kinh
Thánh kia.
A. Bài Sách Khải Huyền
Thánh Yoan thấy Ðiện thờ Thiên
Chúa ở trên trời mở ra. Và Khám Giao ước hiện ra trong Ðiện thờ của Người. Tức
là người nhìn thấy thời đại cánh chung, thời đại Nước Trời, thời đại Thiên Chúa
đến ở cùng nhân loại. Bởi vì theo tâm tư của người Do Thái thời bấy giờ, nói
đúng hơn theo các sách Khải huyền thời thánh Yoan, người ta quan niệm đến thời
gian sung mãn, Khám Giao ước sẽ lại hiện ra và lúc đó người ta có mạc khải toàn
diện về giao ước, tức là về kế hoạch cứu rỗi của Thiên Chúa.
Thời gian sung mãn dĩ nhiên là
thời đại cánh chung, nhưng cũng là thời đại Thiên sai, thời Ðức Kitô xuất hiện
mạc khải toàn diện chương trình của Thiên Chúa cho loài người. Chúng ta đang sống
trong thời đại đó. Thế nên hiện tượng hay dấu hiệu mà thánh Yoan sắp nhìn thấy
hẳn cũng phải đang xảy ra ở trước mắt chúng ta.
Người thấy một dấu lạ vĩ đại hiện
ra ở trên trời: một Bà có mặt trời bao quanh, chân trên mặt trăng và đầu có triều
thiên 12 ngôi sao. Chúng ta muốn đồng hóa Bà với Ðức Mẹ. Nhưng những điều thấy
sau dường như không cho phép làm như thế. Vì "Bà đang thai nghén và kêu la
đau đớn, quằn quại sinh con... Có một con rồng đứng chực trước mặt Bà, để Bà vừa
sinh là nó nuốt con Bà... Nhưng con Bà đã được cất bổng lên nơi Thiên Chúa và
Bà đã trốn vào sa mạc..."
Thú thật, chúng ta đã thấy khó
hiểu rồi. Ðành rằng có thể giải thích: ở đây Yoan muốn nói đến việc Ðức Mẹ sinh
Chúa Cứu thế. Nhưng lối giải thích này gặp nhiều khó khăn. Có nơi nào trong
Kinh Thánh nói đến việc Ðức Mẹ sinh Chúa Yêsu mà phải đau đớn quằn quại đâu? Và
cũng chẳng có nơi nào, nói rằng Ðức Yêsu đã tránh Satan như vậy. Ngược lại, Người
phải đến để xua đuổi tà thần ra khỏi tâm trí và định mệnh loài người.
Ðàng khác, trong thư Phaolô có
chỗ nói: người cưu mang phần rỗi các giáo dân của người và phải vất vả sinh họ
ra trong đức tin. Ý tưởng ấy khuyến khích chúng ta thử nhìn người đàn bà trong
đoạn Khải Huyền trên như là hình ảnh về Giáo hội. Giáo hội đang được Ơn Chúa
bao bọc và có 12 chi họ, 12 Tông đồ tượng trưng bằng 12 ngôi sao. Giáo hội ở thời
đại sung mãn này đang thai nghén đau đớn, quằn quại sinh ra các tín hữu... Ðàng
trước Giáo hội và chung quanh Giáo hội, Satan luôn luôn quyện quanh để tìm mồi
cắn xé. Nó rình nuốt con cái Giáo hội sinh ra. Nhưng chúng là con cái Chúa, là
con cái trong Người Con Một của Thiên Chúa. Và Người Con này hiện đã được cất bổng
lên nơi Thiên Chúa, lên ngai của Người. Và theo lời Thánh Kinh nói, những người
con khác cũng đang được ở gần Thiên Chúa trong Ðức Yêsu Kitô. Còn người đàn bà
kia, tức là Giáo hội đã trốn vào sa mạc, ở đó Thiên Chúa cung dưỡng bà 1,260
ngày. Con số này đã được nói tới ở đoạn trên cũng là 42 tháng và là ba năm rưỡi
trời. Sách Ðaniel (7,25; 12,7) coi đó là thời gian bắt đạo thời Antiôkhô
Epiphanê và vì thế nó trở thành biểu tượng thời kỳ cấm cách. Như vậy trong suốt
thời kỳ bị bắt bớ và gặp khó khăn do Satan rảo quanh tìm mồi cắn xé, Giáo hội
không lo sợ vì luôn được ơn Chúa phù trợ và dưỡng nuôi, cho đến ngày mọi sự nên
trọn và quyền bính hoàn toàn thuộc về Ðức Kitô Chúa chúng ta.
Như thế bài sách Khải Huyền hướng
chúng ta nhìn về Giáo hội. Giáo hội là Mẹ hằng sinh ra con cái Chúa trong đau
thương vất vả. Giáo hội luôn bị rình chờ bắt bớ, nhưng đồng thời cả con lẫn mẹ
luôn luôn được Chúa phù trợ.
Nhưng thường thường những gì nói
về Giáo hội cũng có thể hiểu về Ðức Mẹ và về các linh hồn. Vì Ðức Mẹ là hình ảnh,
là khuôn mẫu về Giáo hội. Hơn nữa Người cũng là Mẹ các tín hữu. Và rõ ràng Người
phải đồng lao cộng tác với Chúa Cứu thế để sinh ra Giáo hội và các linh hồn. Ấy
là chưa kể Ðức Mẹ cũng là một tín hữu, một "linh hồn". Và mỗi linh hồn
cũng là người đàn bà trong đoạn Khải huyền trên. Linh hồn nào cũng phải cưu
mang đức tin và đời sống ân sủng. Làm được một hành vi bác ái siêu nhiên, sinh
ra được những hành động đức tin đẹp lòng Chúa, không phải là dễ. Người ta phải
phấn đấu, chống lại Satan, thế gian và xác thịt. Người ta phải quằn quại trong
cơn đau sinh nở như thánh Phaolô nói chung về thân phận toàn thể tạo vật hiện
nay.
Suy nghĩ như vậy, bài sách Khải
huyền đưa mắt chúng ta nhìn lên Ðức Mẹ trên trời thì ít, mà bảo chúng ta nhớ lại
cuộc đời của Người ở trần gian thì nhiều. Mỗi lần sách Tin Mừng cho chúng ta thấy
Người đứng bên Ðức Yêsu, chúng ta lại được chứng kiến Người như phải đau đớn đi
vào con đường đức tin mỗi ngày một hoàn toàn hơn. Và nhất là Người đã thật sự
quằn quại khi trở thành Mẹ của Yoan ở dưới chân Thánh giá, để có thể nói hằng
ngày Người phải đồng lao cộng tác với Ðức Kitô và Giáo hội để sinh ra con cái
Chúa ở trần gian này. Chúng ta phải cảm phục Mẹ và biết ơn Mẹ. Hằng ngày chúng
ta phải mượn lời bà Elisabet mà chào Mẹ đầy ơn phúc. Và lúc ấy chúng ta sẽ được
Mẹ dạy dỗ thêm.
B. Bài Kinh Tôn Dương
Thánh Luca viết: "Và Maria
nói: hồn tôi tôn dương Chúa và thần trí tôi nhảy mừng Thiên Chúa". Nhưng
thật ra Người có nói như vậy không? Mạch văn và hoàn cảnh khó cho phép chúng ta
tin rằng đây thật là những lời đã trào ra từ lòng Ðức Mẹ khi Người đứng trước mặt
bà Elisabet. Vị trí bài kinh "Tôn dương" là một vị trí giả dối. Nó cắt
đứt câu truyện thăm viếng khá lâu. Nó lại nặng chất Do thái và Cựu Ước, khiến
chúng ta nghĩ nó ít hợp với tư tưởng và văn chương Hylạp của thánh Luca. Và
hoàn cảnh lúc hai người bà con gặp nhau chưa hẳn đã thuận lợi đến nỗi làm thốt
lên được những cảm tình tôn giáo điêu luyện đến như thế.
Và nếu phân tích kỹ, bài Kinh
Tôn dương khác nào một tổng hợp các suy tư của bao bài Thánh vịnh và khôn
ngoan. Nó là tiếng nói của một cộng đoàn hơn là của một cá nhân. Nó có tính
cách khách quan hơn là chủ quan.
Chúng ta có thể thấy ba phần rõ
rệt. Thoạt đầu linh hồn tôn dương Chúa vì Người đã đoái thương đến phận hèn,
tôi tớ của mình (46-49). Và như vậy cũng là hợp với đường lối của Người xưa nay
hằng nhân nghĩa với kẻ khiêm nhu kính sợ và đuổi về tay không những kẻ giàu
sang (50-53). Thái độ nhân nghĩa quảng đại của Chúa tỏ ra rõ rệt nhất khi đáp cứu
Israel tôi tớ Người, như đã hứa cùng Abraham và dòng dõi ông (54-55).
Chúng ta không thấy ám chỉ gì tới
những ơn trọng đại Ðức Mẹ vừa được. Càng không nêu lên việc Chúa vừa viếng thăm
lòng bà Elisabét. Tất cả khiến chúng ta phải kết luận: bài ca tôn dương mà
chúng ta vẫn gọi là của Ðức Mẹ, thực ra không phải là của riêng Người và do một
mình Người sáng tác ra. Nhưng đó là tâm tình của cả Giáo hội, trong đó có Ðức
Maria. Ðó là bản kinh phụng vụ của cộng đoàn Do thái - Kitô giáo tiên khởi đã cảm
hứng khi suy nghĩ về ơn Chúa cứu độ mình. Ðược hạnh phúc của ngày hôm nay, Giáo
hội thấy mình là đối tượng của lòng Chúa thương yêu đã tuyển chọn mình hầu thừa
tự mọi Lời Hứa xưa.
Ðức Mẹ ở trong Giáo hội, là biểu
tượng của Giáo hội. Người sẽ chẳng trách thánh Luca đã đặt bản kinh Tôn dương
trên môi miệng Người. Và chắc chắn Giáo hội phải cám ơn thánh nhân đã làm cho bản
kinh của Dân Thiên Chúa được thêm giá trị khi được mô tả như đã từ lòng Ðức Mẹ
thốt ra.
Còn chúng ta khi đọc kinh này,
không những chúng ta nghĩ đến những tâm tình chân thật của Ðức Mẹ và của Giáo hội,
mà chúng ta cũng phải sung sướng nhận lấy làm của mình. Vì thật sự ai có lòng đạo
đức mà không thấy mình trong bản kinh ấy? Tất cả đời sống đạo đức của chúng ta
không hoàn toàn là tác phẩm của Thiên Chúa hay sao? Sở dĩ chúng ta được như
ngày nay là vì Người đã nhìn đến phận hèn tôi tớ, vì lòng nhân nghĩa của Người
từ đời nọ đến đời kia, vì Người nhớ lại Lời Hứa cùng tổ phụ Abraham cho đến
muôn đời. Và chúng ta sẽ càng đọc kinh này sốt sắng khi chúng ta càng ý thức
đang mang trong mình ơn cứu độ cao cả như Ðức Maria xưa, khi Người được bà
Elisabét nhắc đến quả có phúc trong lòng Người.
Như vậy, chúng ta càng quý kinh
này hơn khi biết nó là tác phẩm của cả Giáo hội và đã được Ðức Mẹ mà cho thêm
giá trị. Và cũng như Giáo hội ngày nay chỉ còn muốn diễn tả kinh này qua tâm
tình của Ðức Mẹ, thì chúng ta cũng phải kết hợp với Ðức Mẹ mỗi khi đọc kinh
này. Ðức Mẹ, Giáo hội và chúng ta gắn bó mật thiết với nhau như vậy, thế mà nhiều
khi chúng ta không hay biết! Ðiều ấy đã đúng trong quá khứ và hiện tại thì cũng
đúng trong tương lai như lời thư Phaolô hôm nay cho thấy.
C. Bài Thư Phaolô
Thánh Tông đồ không hiểu sao có
người lại không tin sự phục sinh, tức là việc kẻ chết sau này sẽ sống lại. Như
vậy thì sự chết hay tử thần sẽ không bao giờ bị giết sao? Mà nó là kết quả của
tội lỗi, thì như vậy cũng không bị xóa bỏ hoàn toàn ư? Ơn cứu độ của Chúa Kitô
mạnh mẽ như thế nào? Chỉ cần suy nghĩ một tý là đã thấy rõ vấn đề. Không, sự chết
cũng sẽ bị hủy diệt. Thế nên lời cuối cùng trong thư hôm nay nói rằng: "Ðịch
thù sau hết sẽ bị hủy ra không là sự chết".
Nhưng để đi đến chân lý này,
thánh Phaolô không lý luận suông. Người căn cứ vào sự kiện trong lịch sử cứu độ.
Người nhắc lại việc Ðức Kitô đã sống lại từ cõi chết. Và Người đã không sống lại
cho mình, nhưng với tư cách là tiên thường giữa các vong linh, hay như hoa quả
đầu mùa của toàn thể nhân loại. Bởi vì chúng ta không bao giờ được quên Ðức
Kitô là Ðầu của một thân thể, khác nào như Ađam là đầu của nhân loại. Nếu do tự
Ađam sự chết đã lọt vào thế gian thì lẽ nào sự sống lại ở nơi Ðức Kitô lại
không tràn đến tất cả nhân loại? Thế nên ai theo thứ tự nấy sẽ sống lại sau Ðức
Kitô.
Ðàng khác, Thiên Chúa đã thề hứa
đặt mọi thù địch dưới chân Ngài. Mà sự chết là kẻ thù cuối cùng của nhân loại.
Sự chết cũng sẽ bị hủy diệt dưới chân Ðức Kitô để sự sống của Thiên Chúa sẽ ở
trong tất cả.
Chúng ta không cần dài dòng diễn
tả mầu nhiệm xác thịt sống lại. Chúng ta đã tin vững vàng rồi. Ở đây và hôm nay
phụng vụ muốn chúng ta để ý đến một câu trong thư này: ai nấy cũng sẽ theo thứ
tự của mình mà sống lại sau Ðức Kitô. Nhưng thứ tự nào, nếu không phải là như lời
thư Phaolô, thứ tự thuộc gần hơn về Ðức Kitô? Thế mà ai gần Ðức Kitô hơn Ðức Mẹ?
Do đó, tin hồn xác Ðức Mẹ ngày nay đang ở trên trời là khẳng định niềm tin xác
thịt chúng ta sau này sẽ sống lại. Và thấy ngày nay Người đã được như thế, thì
chúng ta phấn khởi chắc chắn sẽ đến lượt mình.
Và cho được như vậy phải đến gần
Chúa Yêsu như Ðức Mẹ, phải chấp nhận phấn đấu để cưu mang đức tin và sinh ra
hoa quả các việc lành như người đàn bà trong sách Khải huyền; phải bắt chước
Giáo hội luôn sống tôn dương Thiên Chúa đã thương đến phận hèn của mình và ban
cho mình tràn trề ơn cứu độ. Nói tóm phải bắt chước Ðức Mẹ trong đời sống phấn
đấu, cầu nguyện và cậy trông để luôn luôn được gần Chúa Kitô. Giờ đây Người đến
gần chúng ta trong Thánh Thể để ở với chúng ta trong đời sống hầu đưa chúng ta
sau này sống lại. Chúng ta hãy có tâm tình của Ðức Mẹ để gần Người ở trần gian
hầu được gần Người ở trên trời.
(Trích dẫn từ tập sách Giải
Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô
Nguyễn Sơn Lâm)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Lễ Đức Mẹ Lên Trời
Bài đọc: Rev 11:19a,12:1-6a, 10ab; I Cor
15:20-27; Lk 1:39-56.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Khiêm nhường làm theo thánh ý Thiên Chúa để phục vụ tha nhân.
Thiên Chúa luôn yêu thương, chúc
lành, và mong muốn mọi sự tốt lành cho con người; ngược lại, ma quỉ luôn ghen
tương, phá hủy, và mong muốn con người làm nô lệ cho chúng. Để thực hiện điều
này, chúng luôn tìm mọi cách để đề cao sự tự do và tính kiêu hãnh nơi con người.
Trong Vườn Địa Đàng, chúng đã cám dỗ cặp vợ chồng đầu tiên, ông Adong và bà
Evà, dùng tự do để bất tuân lệnh Thiên Chúa. Hậu quả của sự bất tuân làm con
người xa cách Thiên Chúa và phải chết. Để chuộc tội cho con người, Mẹ Maria và
Đức Kitô là Adam và Eve mới, đã chọn một phương cách hoàn toàn ngược lại: tuyệt
đối khiêm nhường và vâng lời làm theo mọi ý định của Thiên Chúa.
Các Bài Đọc hôm nay tập trung
trong những gì Mẹ Maria và Đức Kitô đã vâng lời làm theo thánh ý Thiên Chúa, để
mang lại sự sống mà con người đã đánh mất. Trong Bài Đọc I, Sách Khải Huyền nói
về cuộc tranh chấp giữa Người Phụ Nữ và Con Mãng Xà: Con thú dữ đứng chực sẵn
trước mặt người Phụ Nữ sắp sinh con, để khi bà sinh xong là nó nuốt ngay con
bà. Trong Bài Đọc II, thánh Phaolô so sánh và mặc khải Kế Hoạch Cứu Độ của
Thiên Chúa: "Nếu tại một người mà nhân loại phải chết, thì cũng nhờ một
người mà kẻ chết được sống lại. Quả thế, như mọi người vì liên đới với Adong mà
phải chết, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Kitô, cũng được Thiên Chúa cho sống."
Trong Phúc Âm, khi được chị họ khen ngợi là người có phúc hơn mọi phụ nữ, Mẹ
Maria đã khiêm nhường tuyên xưng: tất cả những gì Mẹ có được đều do bởi Thiên
Chúa. Mẹ chỉ là người nữ tỳ hèn hạ được Đấng Tối Cao cho cộng tác vào chương
trình cứu độ của Ngài.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Kẻ ngày đêm tố cáo anh em của ta trước toà Thiên Chúa, nay bị tống
ra ngoài.
1.1/ Cuộc giao chiến giữa Thiên
Chúa và ma quỉ: Tác-giả Sách Khải Huyền tường
thuật thị kiến ông thấy xảy ra trên không trung: Hai nhân vật chính ông thấy xuất
hiện là người Phụ Nữ đang mang thai và con Mãng Xà đang chực sẵn trước mặt người
Phụ Nữ, để khi bà sinh xong là nó nuốt ngay con bà.
Hầu như mọi người đều cho con
Mãng Xà này là hiện thân của Satan vì những đặc tính mà tác giả đã đề cập tới:
"đỏ như lửa, có bảy đầu và mười sừng, trên bảy đầu đều có vương miện. Đuôi
nó quét hết một phần ba các ngôi sao trên trời mà quăng xuống đất." Nhưng
ai là người Phụ Nữ mà tác giả mô tả ở đây? Có hai ý kiến khác nhau:
(1) Người Phụ Nữ là Đức Mẹ và
Người Con sắp sinh là Chúa Giêsu: Ý kiến này rất phổ thông trong thời Trung Cổ,
đặt căn bản trên sự kiện sau: Trước hết, tác giả đề cập đến sự hiện diện của Thiên
Chúa trong Hòm Bia của Cựu Ước để so sánh với Hòm Bia của Tân Ước là cung lòng
Mẹ Maria khi cưu mang Đức Kitô, Người Con của Thiên Chúa. Thứ đến, tác giả mô tả
vinh quang tuyệt đỉnh của Đức Mẹ: "mình khoác mặt trời, chân đạp mặt
trăng, và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao." Ngoài Đức Mẹ, không một
ai được mô tả có vinh quang tuyệt đỉnh như thế. Sau cùng, tác giả cũng đề cập đến
sứ vụ và uy quyền của người con: "người con trai này sẽ dùng trượng sắt mà
chăn dắt muôn dân."
(2) Giáo Hội và các tín hữu: Ý
kiến này có từ thời sơ khai của Giáo Hội, cho người Phụ Nữ là Mẹ Giáo Hội và
người con là mỗi tín hữu. Con Mãng Xà tượng trưng cho đế quốc Rôma, vì luôn tìm
dịp để bách hại đạo thánh Chúa. Người theo ý kiến này trưng dẫn các lý do thần
học: Đức Mẹ có thể bị đau đớn và quằn quại khi sinh con như câu số 12:2 mô tả
không? Đức Mẹ có phải trốn vào sa mạc trong thời hạn 1,260 ngày như câu 12:6 mô
tả không? Sau cùng, phải cắt nghĩa câu 12:17 thế nào khi con Mãng Xà "đi
giao chiến với những người còn lại trong giòng dõi của Bà, những người giữ lời
chứng của Đức Giêsu!" Ngoài ra, hình ảnh người Phụ Nữ rất phổ thông trong
văn chương cổ điển của Đông Phương và Kinh Thánh (Isa 50:1, Jer 50:12), được
dùng để chỉ một dân tộc, một quốc gia, hay một thành phố.
Ý kiến thứ nhất được nhiều người
đồng ý hơn; tuy nhiên, ý kiến này không hoàn toàn đối nghịch với ý kiến thứ
hai, mà còn bao hàm nó, vì Đức Mẹ là hiện thân của Giáo Hội; các tín hữu là môn
đệ của Đức Kitô và cũng là con cái của Mẹ. Ma quỉ không những muốn nuốt chửng Đức
Kitô mà còn tất cả những ai tin vào Ngài. Tác giả có thể có hai hình ảnh khi mô
tả thị kiến: cá nhân như Mẹ Maria và Đức Kitô, tập thể như Giáo Hội và các tín
hữu.
1.2/ Quyền lực Thiên Chúa chiến thắng
quyền lực của ma quỉ: "Còn người Phụ Nữ thì trốn vào
sa mạc; tại đó Thiên Chúa đã dọn sẵn cho bà một chỗ ở, để bà được nuôi dưỡng ở
đó, trong vòng một ngàn hai trăm sáu mươi ngày." Sa mạc là chỗ
ẩn phổ thông cho các tín hữu khi bị bách hại. Hình ảnh con cái Israel trong sa
mạc dường như được nhấn mạnh ở đây. Con số hay được dùng trong Kinh Thánh:
1,260 ngày tương đương với 42 tháng hay 3 năm rưỡi, để chỉ một thời gian khá
lâu, nhưng không vĩnh cửu.
Tác giả nghe có tiếng hô to trên
trời: "Thiên Chúa chúng ta thờ, giờ đây ban ơn cứu độ, giờ đây biểu dương
uy lực với vương quyền, và Đức Kitô của Người giờ đây cũng biểu dương quyền
bính, vì kẻ tố cáo anh em của ta, ngày đêm tố cáo họ trước toà Thiên Chúa, nay
bị tống ra ngoài." Đây là lời báo trước kết quả của cuộc giao chiến: Thiên
Chúa và Đức Kitô sẽ toàn thắng quyền lực của ma quỉ. Satan và các đồng bọn của
chúng sẽ bị trừng trị và tiêu diệt.
2/ Bài đọc II: Nếu tại một người mà nhân loại phải chết, thì cũng nhờ một người
mà kẻ chết được sống lại.
2.1/ Đức Kitô cứu nhân loại khỏi nọc
độc của sự chết: Thánh Phaolô so sánh hai sự kiện
lịch sử quan trọng: sự sa ngã của ông Adong trong Vườn Địa Đàng và sự phục sinh
vinh hiển của Đức Kitô trong mồ thánh để nói lên hậu quả xảy ra cho con người.
Vì ông Adong đã bất tuân Thiên Chúa và phạm tội, nên nọc độc của tội di truyền
đến mọi người, và hậu quả của tội là sự chết. Hậu quả này được đảo ngược bởi Đức
Kitô, vì Ngài đã vâng lời Thiên Chúa gánh lấy hậu quả tội lỗi cho con người; và
vì Ngài đã sống lại vinh hiển nên con người không còn phải chết nữa.
2.2/ Đức Kitô sẽ trao lại vương quốc
cho Cha Ngài: "Sau đó mọi sự đều hoàn tất,
khi Người đã tiêu diệt hết mọi quản thần, mọi quyền thần và mọi dũng thần, rồi
trao vương quyền lại cho Thiên Chúa là Cha." Thoạt đọc, một người có thể
cho Đức Kitô không ngang hàng với Thiên Chúa Cha; nhưng sự thực không phải như
thế.
Chúng ta có thể dùng một hình ảnh
để suy luận điều thánh Phaolô muốn diễn tả ở đây: như một vị tướng lãnh nhận sứ
vụ từ nhà vua để chinh phục quân thù, Đức Kitô cũng lãnh nhận sứ vụ từ Chúa Cha
để thi hành. Khi Ngài đã hoàn tất sứ vụ tiêu diệt thù địch cuối cùng là sự chết, Ngài
trao lại con người đã được cứu chuộc cho Thiên Chúa; giống như vị tướng trao lại
lãnh thổ đã bị xâm lấn cho vua mình.
3/ Phúc Âm: Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới.
3.1/ Làm theo thánh ý Thiên Chúa là
lý do được Thiên Chúa chúc phúc.
(1) Chị họ Elisabeth nhận ra sự
cao trọng của Mẹ Maria: Khi Mẹ Maria vào nhà ông Zachariah và chào hỏi bà
Elisabeth, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà Elisabeth được đầy tràn Thánh
Thần, liền kêu lớn tiếng và nói rằng: "Em được chúc phúc hơn mọi người phụ
nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu
Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa
con trong bụng đã nhảy lên vui sướng." Người con bà Elisabeth đang cưu
mang trong lòng là Gioan Tẩy Giả, hai thai nhi đã nhận ra nhau do Thánh Thần
tác động; và Bà Elisabeth cũng nhận ra diễm phúc được làm Mẹ Thiên Chúa của Maria,
người em họ mình.
(2) Lý do của sự cao trọng và được
chúc phúc: Bà Elisabeth nhận ra lý do Maria được chúc phúc, và nói: "Em thật
có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em."
Con người được chúc phúc là vì niềm tin vững mạnh nơi Thiên Chúa, chứ không vì
bất cứ việc gì con người làm. Mẹ Maria tin vững mạnh nơi Kế Hoạch Cứu Độ của
Thiên Chúa, và Mẹ đã thưa lời "Xin Vâng" với sứ thần Gabriel.
3.2/ Khiêm nhường phục vụ Thiên Chúa
và phục vụ tha nhân: Theo sự quan phòng của Thiên
Chúa, người tín hữu cao trọng là người biết khiêm nhường phục vụ tha nhân.
(1) Khiêm nhường phục vụ Thiên
Chúa: Mẹ Maria biết nguồn gốc của sự cao trọng của Mẹ là nơi Thiên Chúa; Mẹ chỉ
là nữ tỳ hèn hạ của Ngài. Vì thế, Mẹ Maria đáp trả lời khen ngợi của chị họ
Elisabeth như sau: "Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở
vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương
nhìn tới; từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Đấng Toàn Năng đã làm cho
tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn!"
Ngược lại với cách đáp trả của Đức
Mẹ, là cách con người kiêu hãnh nhận những gì Thiên Chúa và tha nhân đã làm
cho, là của mình. Họ nghĩ vì họ có tài đức, hay có vận may, hay nhờ những cố gắng
riêng, mà họ được như hiện tại. Bài kinh Magnificat là một thức tỉnh cho loại
người này, họ phải biết khôn ngoan nhận ra và cư xử thích đáng trước khi quá muộn:
"Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người. Chúa giơ
tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai
quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường. Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy
dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng. Chúa độ trì Israel, tôi tớ của Người,
như đã hứa cùng cha ông chúng ta, vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ
phụ Abraham và cho con cháu đến muôn đời."
(2) Khiêm nhường phục vụ tha
nhân: Lòng yêu mến Thiên Chúa phải được bày tỏ qua những việc làm cụ thể cho
tha nhân. Mẹ Maria đã chọn đi thăm viếng và ở lại phục vụ người chị họ mình ba
tháng, vì Mẹ biết chị họ đã cao niên và son sẻ, dù Mẹ có thể chọn ở nhà để dưỡng
thai. Người kiêu hãnh có thể nghĩ: chị họ phải đi thăm và phục vụ mình, vì mình
là Mẹ của Thiên Chúa.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
Chúng ta cần sáng suốt để nhận định:
- Thiên Chúa là Đấng uy quyền và
khôn ngoan: Ngài phác họa và điều khiển toàn bộ Kế Hoạch Cứu Độ cho con người
qua sự vâng lời và khiêm nhường thực hiện của Đức Kitô.
- Mẹ Maria đã khôn ngoan nhận ra
Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa, và khiêm nhường cộng tác để cung cấp cho Đức
Kitô một thân xác, cần thiết cho Kế Hoạch Cứu Độ.
- Noi gương Mẹ, chúng ta cầu xin
để chúng ta cũng nhận ra thánh ý Thiên Chúa, và khiêm nhường cộng tác để mưu cầu
phần rỗi cho chúng ta và cho tha nhân. Đừng bao giờ rơi vào bẫy kiêu hãnh của
ma quỉ để đánh cắp những ơn lành của Thiên Chúa và lạc xa đường cứu độ.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên,
OP
15/08/16 THỨ HAI TUẦN
20 TN
Đức Mẹ Lên Trời
Lc 1,39-56
Đức Mẹ Lên Trời
Lc 1,39-56
Suy niệm: Nhà bác học Ampère nói: “Người ta chỉ trở nên vĩ đại
khi cầu nguyện.” Quả
vậy, khi Đức Ma-ri-a dâng lời cầu nguyện tôn vinh Danh Chúa: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức
Chúa” thì
chính Mẹ cũng cảm nghiệm được niềm vui và hạnh phúc tràn trề: “Thần
trí tôi hớn hở vui mừng, vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.” Khi Mẹ nói lên lời tạ ơn Chúa vì những điều kỳ
diệu Chúa đã làm cho Mẹ: “Đấng
Toàn Năng đã làm biết bao điều cao cả”, và “từ
nay hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc”, thì chính lúc đó, Mẹ cũng ca
tụng Ngài: “Danh
Chúa thật chí thánh chí tôn”. Lời
tạ ơn đích thực là một lời tuyên xưng Thiên Chúa đã làm những điều cao cả trong
cuộc sống của mình; lời tạ ơn đó lại trở thành lời ca tụng tôn vinh Danh Chúa.
Mời Bạn: Đức
Ma-ri-a làm chứng cho chúng ta rằng mỗi khi chúng ta tạ ơn Chúa là chúng ta tôn
vinh Ngài. Điều còn bất cập nơi chúng ta là chúng ta vô ơn tới mức không nhận
ra hồng ân Chúa, hoặc khi dâng lời tạ ơn, chúng ta đã không có được tâm tình
khiêm nhu vâng phục của một nữ tỳ Thiên Chúa như Mẹ: “Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái
thương nhìn tới.”
Chia sẻ: Bạn
nghĩ sao trước hiện tượng nhiều người ngày nay không biết nói lời cám ơn, hoặc
nói cám ơn một cách giả tạo, hình thức, xã giao?
Sống Lời Chúa: Hằng
ngày bạn cầu nguyện bằng chính tâm tình của Mẹ: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức
Chúa… Vì Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, Danh Người thật
chí thánh chí tôn…”
Cầu nguyện: Đọc kinh Magnificat, lời cầu nguyện tạ ơn ngợi
khen của Mẹ.
Em thật có phúc
Lễ Mẹ Lên Trời là lễ của niềm hy vọng cho cả nhân
loại. Người Kitô hữu thêm xác tín về nơi mình sẽ đến
Suy niệm:
Trong ngày mừng lễ Đức Maria được đưa lên trời cả hồn
lẫn xác,
phụng vụ lại cho chúng ta chiêm ngắm một Đức Maria
trong đời thường.
Lúc ấy Mẹ là một cô thiếu nữ, vượt đoạn đường dài hơn
100 cây số,
đi từ Galilê lên Giuđê, để thăm bà chị họ cao niên
đang mang thai.
Bầu khí gặp gỡ là bầu khí của niềm vui.
Maria là người cất tiếng chào trước.
Tiếng chào ấy đã làm thai nhi Gioan nhảy mừng trong
lòng mẹ (c. 44)
và làm bà Êlisabét ngỡ ngàng chúc tụng tán dương (cc.
42-45).
Maria cũng hân hoan cất lời ngợi khen Thiên Chúa (cc.
46-47).
Bầu khí gặp gỡ là bầu khí của Thánh Thần.
Maria đầy Thánh Thần từ khi cưu mang Đức Giêsu (Lc 1,
35).
Êlisabét đầy Thánh Thần từ khi nghe Maria chào (Lc 1,
41).
Nhờ Thánh Thần, bà Êlisabét đã khám phá ra bí mật của
cô em.
Cô có phúc hơn mọi phụ nữ, vì cưu mang người Con tuyệt
vời (c. 42).
Cô còn có phúc vì dám tin điều Thiên Chúa nói (c. 45).
Chính Mẹ cũng nhận mình là người diễm phúc vì được
muôn hồng ân (c. 48).
Đem Đức Giêsu đến nhà, thăm viếng, chào hỏi, ở lại,
phục vụ:
đó là những điều Mẹ Maria đã làm cho bà chị họ ngày
xưa,
và vẫn còn làm cho chúng ta hôm nay trên trời.
Mẹ được tôn vinh không phải để xa cách, mà để gần gũi
với con người.
Đấng tự xưng là nữ tỳ của Chúa thì đã sống như nữ tỳ
của nhân loại.
Lễ Đức Mẹ được đưa lên trời cả hồn lẫn xác, nhắc chúng
ta nhiều điều.
Lễ này nhắc chúng ta về thế giới của Thiên Chúa, về
quê hương vĩnh cửu.
Chúng ta dễ bị hút xuống thế giới này, với vẻ đẹp và
nỗi khốn cùng của nó.
Chúng ta loay hoay giải quyết không xong những vấn đề
của trái đất,
vì quên nhìn nó từ trên cao và hướng nó về trời cao.
Lễ này cũng nhắc chúng ta về giá trị cao quý của thân
xác.
Thân xác đi với ta suốt cả cuộc đời, chịu gian khổ và
được tôn vinh với ta.
Chẳng thân xác nào gần Đức Giêsu bằng thân xác của Mẹ.
“Phúc cho người phụ nữ đã cưu mang Thầy và cho Thầy bú
mớm.”
Tay Mẹ đã bồng ẵm Con từ Bêlem, qua Ai Cập, lên Đền
thờ.
Tay Mẹ cũng đã ôm xác Con mình, được đưa xuống từ thập
tự giá.
Mẹ sống bên Giêsu gấp mười lần thời gian các tông đồ
sống bên Ngài.
“Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó” (Ga 12,
26).
Hơn ai hết Mẹ là người đã gắn bó phục vụ Đức Giêsu
bằng cả cuộc đời.
Hơn ai hết Mẹ xứng đáng được ở bên Con cả hồn lẫn xác.
Lễ Mẹ Lên Trời là lễ của niềm hy vọng cho cả nhân
loại.
Người Kitô hữu thêm xác tín về nơi mình sẽ đến.
Mẹ là người được hưởng trước những gì chúng ta sẽ được
hưởng.
Dù cuộc đời người theo Chúa lắm gian truân và hy sinh,
nhưng kết thúc lại rất tươi và có hậu.
Lễ Mẹ Lên Trời, chỉ xin được yêu mến những sự bền vững
trên trời,
và bớt bị mê hoặc bởi những điều chóng qua dưới đất.
Cầu nguyện:
Lạy Mẹ Maria,
khi đọc Phúc Âm,
lúc nào chúng con cũng thấy Mẹ lên đường.
Mẹ đi giúp bà Isave, rồi đi Bêlem sinh Đức
Giêsu.
Mẹ đưa con đi trốn, rồi dâng Con trong đền thờ.
Mẹ tìm con bị lạc và đi dự tiệc cưới ở Cana.
Mẹ đi thăm Đức Giêsu khi Ngài đang rao giảng.
Và cuối cùng Mẹ đã theo Ngài đến tận Núi Sọ.
Mẹ lên đường để đáp lại một tiếng gọi
âm thầm hay rõ ràng, từ ngoài hay từ trong,
từ con người hay từ Thiên Chúa.
Chúng con thấy Mẹ luôn đi với Đức Giêsu
trong mọi bước đường của cuộc sống.
Chẳng phải con đường nào cũng là thảm hoa.
Có những con đường đầy máu và nước mắt.
Xin Mẹ dạy chúng con
đừng sợ lên đường mỗi ngày,
đừng sợ đáp lại những tiếng gọi mới của Chúa
dù phải chấp nhận đoạn tuyệt chia ly.
Xin giữ chúng con luôn đi trên Đường-Giêsu
để chúng con trở thành nẻo đường khiêm hạ
đưa con người hôm nay đến gặp gỡ Thiên Chúa.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
15 THÁNG TÁM
Chúng Ta Chúc Tụng Mẹ Trên Trời
Kính chào Đức Maria!
Mẹ đã được đưa về trời.
Chúng con hiệp với thần sứ dâng
lời chào Mẹ đầy ơn phúc.
Chúa ở cùng Mẹ (Lc 1,28).
Cùng với Ê-li-da-bét, chúng con
kính chào Mẹ: Mẹ thật có phúc giữa mọi người phụ nữ;
Và hoa quả của cung lòng Mẹ cũng
thật có phúc!
Mẹ thật có phúc vì đã tin vào lời
hứa của Thiên Chúa! (Lc 1,42.45).
Chúng con kính chào Mẹ bằng lời
của Tin Mừng: “Mẹ thật có phúc vì Mẹ đã lắng nghe và tuân giữ Lời Thiên Chúa “
(Lc 12,28).
Mẹ đầy ơn phúc!
Chúng con ngợi khen Mẹ, ái nữ của
Chúa Cha.
Chúng con chúc tụng Mẹ, là Mẹ của
Ngôi Lời Thiên Chúa.
Chúng con tôn vinh Mẹ, đền thờ của
Chúa Thánh Thần.
Chúng con cầu khẩn Mẹ, là Mẹ và
là gương mẫu của toàn thể Giáo Hội.
Chúng con nhìn ngắm Mẹ, sự viên
mãn của mọi niềm hy vọng của con người trong tư cách là Mẹ Đấng Cứu Thế.
Chúa ở cùng Mẹ!
Mẹ là Trinh Nữ của ngày Truyền
Tin,
Là tiếng “Xin Vâng” của mọi con
người đối với mầu nhiệm cứu độ.
Mẹ là nữ tử Sion
Là hòm bia của giao ước mới
Trong mầu nhiệm thăm viếng.
Mẹ là Mẹ của Đức Giêsu sinh tại
Bê-lem,
Là Đấng đã giới thiệu Đức Giêsu
cho các mục đồng chất phác, và cho các nhà thông thái từ phương Đông.
Mẹ là người Mẹ
Đã dâng Con trong Đền Thờ,
Đã đưa Con sang Ai-cập, và mang
Con về Na-da-rét.
Lạy Đức Trinh Nữ hiện diện trên
các nẻo đường của Đức Giêsu.
Hiện diện trong đời sống ẩn dật
của Ngài và tại phép lạ ở Ca-na.
Lạy Mẹ sầu bi trên đồi Can-vê,
Và là Trinh Nữ vui mừng trong biến
cố Phục Sinh.
Mẹ là Mẹ của các môn đệ Đức
Giêsu
Trong niềm mong đợi và niềm hân
hoan của Lễ Hiện Xuống.
Mẹ đầy ơn phúc!
Vì Mẹ đã tin vào Lời Chúa
Vì Mẹ đã hy vọng vào lời hứa của
Ngài
Vì Mẹ đã trọn hảo trong tình yêu
Vì tình yêu đầy quan tâm của Mẹ
đối với Ê-li-da-bét
Vì tấm lòng hiền mẫu của Mẹ ở
Bê-lem
Vì nghị lực của Mẹ khi bị bách hại
Vì sự kiên trì của Mẹ trong cuộc
tìm kiếm Con trong Đền Thờ,
Vì đời sống mộc mạc của Mẹ ở
Na-da-rét,
Vì sự cầu bàu của Mẹ ở Ca-na,
Vì sự hiện diện của Mẹ dưới chân
Thập Giá,
Vì Mẹ trung thành đón chờ mầu
nhiệm Phục Sinh,
Vì Mẹ chuyên chăm cầu nguyện
trong biến cố Hiện Xuống.
Mẹ thật có phúc
Vì vinh quang của ngày Mẹ lên trời,
Vì Mẹ hằng chở che Giáo Hội
trong tấm lòng từ mẫu
Vì Mẹ không ngừng chuyển cầu cho
mọi người.
Lạy Đức Nữ Trinh,
chúng con tôn vinh Mẹ vì tất cả
những điều ấy!
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan
Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John
Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 15 – 8
Đức Mẹ Lên Trời
Kh 11,19a;12,1-6a.10ab; 1Cr
15,20-26; Lc 1,39-56.
Lời suy niệm: “Hồi ấy, bà Maria vội
vả lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa. Bà vào nhà ông
Dacaria và chào bà Êlisabét.”
Thiên Chúa đã chọn gọi Đức Mẹ
Maria, và Đức Mẹ đã thưa: “Xin Vâng” để đảm nhận một sứ vụ mới là đem Chúa đến
trong trần gian này. Bước đầu tiên của Đức Mẹ là lên đường một cách vội vả đến
với bà Êlisabét. Gặp gỡ nhau để cùng nhau ca tụng tôn vinh Thiên Chúa trong yêu
thương và phục vụ.
Lạy Chúa Giêsu. Mỗi khi Chúa đã
chọn gọi ai thì Chúa sẽ ban ơn theo ơn gọi, để chu toàn sứ vụ mà Chúa sẽ giao
cho. Xin Chúa thương chọn gọi mỗi người trong chúng con, với ơn ban của Chúa để
chúng con ngày càng được gần Chúa hơn.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 15-08
ĐỨC MARIA HỒN XÁC LÊN TRỜI
Kinh thánh im lặng về những ngày
sau hết của cuộc đời mẹ Chúa. Sau lời trối Chúa Giêsu trao Mẹ cho Gioan thì
"từ giờ đó, môn đệ này đã lãnh nhận Mẹ Chúa về nhà mình (Ga 19,27). Sách
Công vụ nói đến việc "Maria, Mẹ Chúa Giêsu cùng với các môn đệ đồng tâm nhất
trí cầu nguyện" (Cv 1,11) để nhận lãnh Chúa Thánh Thần.
Chúa Giêsu về trời, Mẹ cũng rút
vào âm thầm cầu nguyện và suy niệm những kỷ niệm đã ghi trong lòng" (Lc
2,51). Mẹ không còn xuất hiện, để các tông đồ lãnh nhận sứ mệnh của mình trước
mặt thế gian như Chúa đã truyền: "các con sẽ chịu lấy quyền năng của Chúa
Thánh Thần rồi sẽ đi làm chứng cho Thầy" (Cv 1,8). Nhưng Mẹ vẫn hiện diện
giữa cộng đoàn tông đồ để khích lệ tinh thần và đồng thời cũng giúp lời cầu
nguyện cho các Ngài, vì Mẹ bao giờ cũng coi mình như là "nữ tỳ Thiên
Chúa".
Mẹ về sống ở Ephesô với thánh
Gioan, sau khi thánh Giacôbê bị vua Hêrôdê giết vào năm 42 vì Giêrusalem không
còn là nơi an toàn nữa. Theo lời truyền khẩu, Ngài đã qua đời vào khoảng năm
54, hưởng thọ 72 tuổi. Cái chết của Mẹ Chúa là cuộc vuợt qua để về với Chúa.
"Đức Trinh Nữ Maria được đưa lên hưởng vinh quang trên trời cả hồn lẫn xác
và được Thiên Chúa tôn làm nữ vương vũ trụ để nên giống Con Ngài trọn vẹn
hơn" (GH 59).
Niềm tin Đức Trinh Nữ Maria hồn
xác lên trời đã có từ lâu đời. Từ thế kỷ VI, người ta đã mừng lễ này với danh
hiệu lễ Đức Mẹ ngủ. Đến ngày 1 tháng 11 năm 1950 Đức Piô XII đã long trọng
tuyên bố tín điều Đức Maria Đồng Trinh hồn xác về trời. Diễn biến sự kiện này
như sau:
Khoảng từ năm 1849 đến năm 1940,
tòa thánh đã nhận được 1505 thỉnh nguyện tự phát xin định tín việc Mẹ hồn xác
lên trời. Ngay trong công đồng Vaticanô I, gần 200 nghị phụ cũng xin định tín.
Sau thế chiến thứ hai, từ năm 1945 đến năm 1950, do lần nữa 852 thỉnh nguyện được
gởi tới Đức Thánh cha do các giám mục, các bề trên dòng, các đại học công giáo.
Các nhà thần học của 30 quốc gia cũng đã gởi các thỉnh nguyện tập thể.
Ngày 1 tháng 5 năm 1946 Đức Piô
XV đã gởi cho mọi giám mục một lá thư, xin các Ngài trả lời cho câu hỏi sau
đây: - "Theo sự khôn ngoan chín chắn của Đức Cha, Đức Cha có ý kiến gì cho
việc Đức Maria hồn xác lên trời được đề ra và xác quyết như một tín điều hay
không ? Đức Cha với hàng giáo sĩ và dân chúng có muốn điều đó hay không ?"
Đã có 1191 thư trả lời, trong đó
1169 thư ưng thuận, 16 thư nghi ngại về tính cách hợp thời của việc tuyên bố
tín điều, 6 thư đưa những vấn nạn ngược lại. Tất cả giám mục của 17 Giáo hội
Đông Phương hợp nhất với tòa thánh Roma trả lời ưng thuận. Ngày 30 tháng 10 năm
1950 đã có một hội nghị công khai với 700 vị trong hàng giáo phẩm tham dự. Đức
Thánh Cha Piô XII lại hỏi ý kiến. Tất cả mọi vị đều trả lời ưng thuận. Như thế
là đã có một sư đồng ý theo luận lý của mọi giám mục. Sự đồng ý này là một bày tỏ
rõ ràng của giáo huấn thông thường. Do sự đồng ý này của quyền giáo huấn hợp với
tín điều công giáo.
Ngày 1 tháng 11 năm 1950, Đức
Piô XII trong sắc lệnh công bố tín điều, đã nhắc lại những sự kiện trên. Chúng
ta chung một niềm tin với Giáo hội vì:
- Đã có một liên hệ mật thiết giữa
hồn xác lên trời với sự thụ thai vô nhiễm và muôn đời đồng trinh của Đức Maria.
Vậy Mẹ đã toàn thắng tội lỗi và đáng được lên trời hồn xác.
- Việc lên trời hồn xác của
Mẹ cũng liên hệ với chức vụ làm Mẹ Thiên Chúa. Mẹ đã không bao giờ làm hư hại sự
toàn vẹn xác thể nên xác thân mẹ không thề hư hoại.
- Sau nữa, Mẹ đã được cứu
chuộc hoàn toàn, nên hiệu qủa của ơn cứu rỗi là sự tôn vinh của con Mẹ cũng được
hưởng (Rm 8,29-30; IICor 5,2-5) .
"Lễ Mông Triệu, ngày 15
tháng, ngày Maria đầy ơn Chúa, đầy hạnh phúc, hồn vô nhiễm và xác trinh trong của
Mẹ được vinh hiển, ngày Mẹ được giống Chúa phục sinh cách hoàn toàn nhất. Lễ
này làm cho Giáo hội và nhân loại thấy được hình ảnh của hy vọng cuối cùng của
chúng ta, là tất cả những ai được Chúa Kitô, một anh em Người thông phần máu thịt
với Người sẽ được hoàn toàn vinh quang" (Dt 2,14) (Marialis Cultus)
(daminhvn.net)
15 Tháng Tám
Marilyn, Chúng Tôi Thông Cảm Với Cô
"Marilyn, chúng tôi thông cảm
với cô": đó là hàng chữ mà hiện nay hàng ngàn du khách đều lâm râm đọc mỗi
khi đứng mặc niệm trước mộ của nữ minh tinh Marilyn Monroe tại nghĩa trang
Westwood, nằm ở phía Tây thành phố Los Angeles.
Hiện nay, từng giây, từng phút,
hàng ngàn cánh hoa được du khách mang đến, phủ kín nơi an nghỉ của người nữ
minh tinh xấu số này. Ngày 15/8/1962, người nữ minh tinh với mái tóc bạch kim
óng ả lặng lẽ ra đi không một lời dã biệt. Cuộc quên sinh của cô, cho đến nay vẫn
còn là một bí ẩn. Giữa lúc danh vọng đang lên, giữa lúc tiền bạc đang vào ngút
ngàn, Marilyn đã chọn lấy cái chết...
Randall Reise, tác giả viết lại
cuộc đời của Marilyn Monroe, đã nhận định như sau: "Marilyn không còn là một
con người nữa. Cô đã trở thành một huyền thoại. Cô không còn là một nhân vật của
Holywood nữa. Cô đã trở thành một yếu tố trong nền văn hóa của nước Mỹ".
Marilyn đã trở thành lý tưởng của
rất nhiều ca sĩ và minh tinh điện ảnh hiện nay. Nhưng mãi mãi, cô đã trở thành
một câu hỏi lớn cho con người của thời đại: Con người bởi đâu mà ra? Con người
sinh ra để làm gì? Ðâu là ý nghĩa của cuộc sống? Tiền bạc, danh vọng có làm cho
con người được hạnh phúc không? Marilyn Monroe là hiện thân của những câu hỏi
ngàn đời ấy...
"Marilyn, chúng tôi thông cảm
với cô", bởi vì cô đã không ngừng bị dằn vặt bởi những khắc khoải quá lớn
về cuộc sống. Chúng tôi thông cảm với cô, bởi vì thiếu một niềm tin vào cuộc sống,
thì không còn chọn lựa nào hơn là cái chết...
Hôm nay, chúng ta mừng kính Mẹ hồn
xác lên trời...
Ngày 22/7/1973, thành phố
Giêrusalem đột nhiên biến thành nhộn nhịp khác thường, từng đoàn người tuôn đến
vườn Giêtêmani... Có tin cho biết các nhà khảo cổ đã tìm thấy tảng đá trong mồ
nơi đặt xác Ðức Mẹ. Ðức Mẹ đã chết. Ðó có lẽ phải là khẳng định đầu tiên mà các
nhà khảo cổ có thể đưa ra khi tìm thấy tảng đá...
Chết là số phận tất yếu của thân
phận con người. Chúa Giêsu đã chết. Có ai thoát khỏi sự chết! Nhưng có nhiều
cái chết. Chúa Giêsu đã chết để phục sinh. Ðức Mẹ đã chết để được cất nhắc cả hồn
xác về trời. Với Chúa Giêsu và Ðức Mẹ, cái chết là khởi đầu của hy vọng. Cái chết
là ý nghĩa của cuộc sống, bởi vì có chết mới được sống đời đời...
Nếu cái chết của Marilyn Monroe
là một dấu hỏi được đặt ra về ý nghĩa của cuộc sống, thì cái chết của Mẹ Maria
chính là câu trả lời. Qua cái chết để được cất nhắc về trời, Mẹ Maria đã cho
chúng ta thấy được ý nghĩa của cuộc sống, của cái chết và như vậy Mẹ trở thành
chính niềm hy vọng của chúng ta.
Trong một cuộc sống không dư tiền
dư của như Marilyn đã từng sống, chúng ta vẫn nhận ra được ý nghĩa của cuộc sống.
Trong ý nghĩa đó, cái chết đã trở thành khởi điểm cho một sự biến đổi mà chính
Ðức Maria đã là dấu hiệu báo trước cho chúng ta... Xin cho niềm tin này củng cố
chúng ta trong cuộc sống hiện tại. Xin cho chúng ta luôn biết hướng nhìn về Mẹ
Maria, như là đèn pha cho chúng ta giữa những u tối và cuồng phong của cuộc sống.
(Lẽ Sống)
Lectio Divina: Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời
Thứ Hai, 15 Tháng 8, 2016
Đức Maria đi viếng bà thánh
Êlisabéth
Lc 1:39-56
1. BÀI ĐỌC
a) Lời
nguyện mở đầu:
Lạy Chúa Thánh Thần, Thần Khí của
sự Khôn Ngoan, của Khoa Học, của Tri Thức, của Khuyên Bảo, xin Chúa hãy đổ tràn
đầy chúng con. Chúng con cầu xin, cùng với sự hiểu biết Lời Thiên Chúa,
xin Chúa đổ tràn đầy chúng con với mọi sự khôn ngoan và trí thông minh tâm hồn,
để chúng con có thể hiểu cặn kẽ Lời Chúa. Nguyện xin cho chúng con, dưới
sự hướng dẫn của Chúa, có thể hiểu được đoạn Tin Mừng trang trọng này về Đức
Trinh Nữ Maria. Lạy Chúa Thánh Thần, chúng con cần Chúa, vì Chúa là Đấng
duy nhất uốn nắn chúng con một cách liên tục theo giống hình ảnh và mẫu mực của
Chúa Giêsu. Và chúng con hướng về Đức Maria, Mẹ của Chúa Giêsu và là Mẹ của
Giáo Hội, Mẹ là người đã sống say sưa và hoàn toàn trong sự Hiện Diện của Chúa
Thánh Thần, Mẹ là người đã có kinh nghiệm về quyền năng của Chúa Thánh Thần
trong Mẹ, Mẹ là người đã thấy Chúa Thánh Thần hoạt động nơi Chúa Giêsu, con Mẹ,
từ lúc còn ở trong lòng Mẹ. Xin hãy mở rộng tâm trí chúng con, để chúng
con có thể ngoan ngoãn lắng nghe Lời Chúa.
b) Bài Tin Mừng:
Trong những ngày ấy, bà Maria chỗi
dậy, vội vã ra đi lên miền núi, đến một thành xứ Giuđêa. Bà vào nhà ông
Giacaria và chào bà Êlisabéth. Sau khi bà Êlisabéth nghe lời chào của
Maria, thì hài nhi nhảy mừng trong lòng bà và bà Êlisabéth được đầy Chúa Thánh
Thần. Bà kêu lớn tiếng rằng: “Em được chúc phúc hơn mọi người nữ và
con lòng em cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa tôi đến
viếng thăm? Vì này, tai tôi vừa nghe lời em chào, hài nhi liền nhảy mừng
trong lòng tôi. Phúc cho em là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng em sẽ được
thực hiện.”
Và bà Maria nói: “Linh hồn
tôi ngợi khen Chúa,
và thần trí tôi hoan hỉ trong
Thiên Chúa Đấng Cứu Độ tôi,
vì Chúa đã đoái nhìn đến phận
hèn tớ nữ của Chúa.
Này từ nay muôn thế hệ sẽ khen
tôi có phước, vì Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi những sự trọng đại và danh Ngài
là Thánh.
Lòng thương xót Chúa trải qua đời
nọ đến đời kia dành cho những người kính sợ Chúa.
Chúa đã vung cánh tay ra oai thần
lực, dẹp tan những ai thần trí kiêu căng.
Chúa lật đổ người quyền thế xuống
khỏi ngai vàng và nâng cao những người phận nhỏ.
Chúa đã cho người đói khát no đầy
ơn phước, và để người giàu có trở về tay không.
Chúa săn sóc Israel tôi tớ Chúa,
bởi nhớ lại lòng thương xót của Ngài.
Như Chúa đã phán cùng các tổ phụ
chúng tôi, cho Abraham và dòng dõi người đến muôn đời.”
Maria ở lại với bà Êlisabéth độ
ba tháng, đoạn người trở về nhà mình.
c) Giây phút thinh lặng cầu
nguyện
Thinh lặng là một đặc tính của
những ai biết cách lắng nghe Thiên Chúa. Bạn hãy cố gắng tạo cho mình một
bầu không khí của tôn thờ im lặng và an bình. Nếu bạn có khả năng thinh lặng
trước Thiên Chúa, bạn sẽ có thể lắng nghe hơi thở của Người đó là Sự Sống.
2. SUY GẪM
a) Chìa
khóa dẫn đến bài đọc:
Em được chúc phúc hơn mọi người
nữ
Trong phần đầu của bài Tin Mừng
hôm nay, những lời của bà Êlisabéth kêu lớn tiếng: “Em được chúc phúc hơn
mọi người nữ”, được dẫn trước bởi một cuộc di chuyển không gian. Mẹ Maria
rời Nagiarét, một làng nằm ở phía bắc của đất Paléstine, để đi về phía nam, khoảng
chừng năm mươi cây số, đến một nơi mà theo tương truyền đã xác định là vùng Ain
Karem ngày nay, không xa thành Giêrusalem là bao nhiêu. Việc di chuyển thể
lý cho thấy sự nhạy cảm nội tâm của Mẹ Maria, người không sống cho riêng mình,
để chiêm niệm, trong một cách riêng tư và thân mật, mầu nhiệm của Mẹ Thiên Chúa
đang được hoàn thành trong người của Mẹ, nhưng Mẹ lại chọn con đường hướng về
lòng yêu thương tha nhân. Mẹ đã lên đường để giúp cho người chị họ cao tuổi.
Việc đi thăm bà Êlisabéth của Mẹ Maria đã được tăng thêm ý nghĩa với những chữ
“trong vội vã” mà thánh Ambrose đã diễn giải như sau: “Mẹ Maria vội vã ra
đi đến vùng cao nguyên, không phải vì Mẹ không tin lời tiên báo hay vì Mẹ không
chắc chắn về lời thông báo của Thiên Sứ hoặc nghi ngờ về bằng chứng, mà vì Mẹ
đã vui mừng với lời hứa và mong muốn làm tròn sứ vụ một cách tân tụy, với sự
thôi thúc Mẹ đã nhận được từ niềm hân hoan mật thiết trong lòng của Mẹ ….
Ân huệ của Chúa Thánh Thần không gây ra sự chậm chạp”. Tuy nhiên, người đọc
biết rằng lý do thực sự của chuyến đi đã không được nhắc tới, nhưng có thể nhận
thấy nó qua các dữ kiện rút ra từ bối cảnh. Thiên thần đã truyền tin cho
Đức Maria biết về việc mang thai của bà Êlisabéth, đã được sáu tháng (xem câu
37). Ngoài ra, Mẹ Maria ở lại đó ba tháng (xem câu 56), đúng thời điểm để
hài nhi có thể sinh ra, giúp chúng ta hiểu được rằng Đức Maria có ý định muốn
giúp người chị họ. Mẹ Maria chạy, và đi về nơi có nhu cầu cấp thiết, nhu
cầu cần được giúp đỡ, theo cách này, cho thấy một cảm giác rõ ràng và lòng sẵn
sàng cụ thể.
Cùng với Mẹ Maria, thai nhi
Giêsu, trong lòng Mẹ, cùng đi với Người. Từ đây thật dễ dàng suy ra giá
trị Kitô giáo của câu chuyện đi thăm người chị họ của Đức Maria: hơn hết
cả, sự chú ý được hướng về Chúa Kitô. Thoạt tiên, mọi việc hình như có vẻ
chú trọng vào hai người phụ nữ; thực ra, điều quan trọng đối với tác giả Phúc
Âm là sự kiện phi thường hiện hữu trong việc thụ thai của họ. Mẹ Maria có
khuynh hướng chăm sóc, như trong thí dụ vừa rồi, để có cuộc gặp gỡ giữa hai người
phụ nữ.
Ngay khi Mẹ Maria vào nhà và
chào bà Êlisabéth, thai nhi Gioan nhảy mừng trong lòng mẹ. Theo một số
người, việc nhảy mừng này không thể so sánh với việc trở mình của thai nhi, mà
mọi người phụ nữ mang thai thường trải qua. Thánh Luca xử dụng một động từ
tiếng Hy Lạp mà một cách chính xác có nghĩa là “nhảy”. Với mong muốn giải
thích động từ này theo nghĩa đen một chút, nó có thể được hiểu với nghĩa “nhảy
múa”, như thế ngoại trừ một hiện tượng vật lý mà thôi. Có người đã nghĩ rằng
động từ “nhảy” này có thể được coi như là một hình thức “tỏ lòng cung kính” của
thai nhi Gioan dành cho Chúa Giêsu, từ lúc bắt đầu, mặc dù chưa được sinh ra,
thái độ của sự kính trọng và khuất phục sẽ là đặc điểm của cuộc đời
Gioan: “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống
cởi quai dép cho Người” (Mc 1:7). Rồi một ngày, chính Gioan sẽ là người
chứng: “Ai cưới cô dâu, người ấy là chú rể. Còn người bạn của chú rể đứng
đó nghe chàng, thì vui mừng hớn hở vì được nghe tiếng nói của chàng. Đó
là niềm vui của ta, niềm vui ấy bây giờ đã trọn vẹn. Người
phải nổi bật lên, còn ta phải lu mờ đi” (Ga 3:29-30). Vì thế thánh
Ambrose đã nhận định: “Bà Êlisabéth là người đầu tiên được nghe tiếng
nói, nhưng Gioan lại là người đầu tiên nhận lãnh ân sủng”. Chúng ta tìm
thấy một sự xác nhận của lời giải thích này trong những chữ dùng của bà
Êlisabéth, một động từ Hy-Lạp trong câu 41, đã được lặp lại trong câu 44:
“Hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi”. Thánh sử Luca, với những chi tiết
cụ thể này, đã muốn gợi lên những điều kỳ diệu đã xảy ra tại làng Nagiarét thân
thiết. Chỉ đến bây giờ, nhờ vào cuộc đối thoại với một người khác, mà mầu
nhiệm Mẹ Thiên Chúa mới mặc khải bí mật và những gì thuộc về cá nhân để trở nên
một thực tế đáng chú ý, và đối tượng của sự nhận thức và của ngợi khen.
Theo lời của bà Êlisabéth:
“Em được chúc phúc hơn mọi người nữ và con lòng em cũng được chúc phúc. Bởi
đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa tôi đến viếng thăm?” (các câu 42-43). Với cách
diễn tả của người Do-Thái, các chữ này tương đương với một bậc cao trọng
(“trong số các người nữ”), tác giả muốn thu hút sự chú ý của người đọc về chức
phận của Đức Maria: là “Mẹ Thiên Chúa”. Và sau đó, một ân sủng đã
dành riêng cho Mẹ (“Em được chúc phúc”) và một Chân Phúc đã được ban. Việc
này bao gồm những gì? Nó thể hiện việc Mẹ Maria tuân theo Thánh Ý Thiên
Chúa. Mẹ Maria không chỉ là người nhận lãnh một kế hoạch mầu nhiệm làm
cho Mẹ được chúc phúc, mà Mẹ còn là người biết chấp nhận và tuân theo ý
Chúa. Mẹ Maria là một tạo vật có lòng tin, bởi vì Mẹ đã tin tưởng vào lời
nói đơn sơ và ký thác vào câu trả lời “xin vâng” vì tình yêu của Mẹ. Và
bà Êlisabéth nhận biết được sứ vụ tình yêu này, xác định Mẹ là “được chúc phúc
làm mẹ và được chúc phúc làm người tin vào quyền năng Thiên Chúa”.
Trong khi đó, thai nhi Gioan nhận
thức được sự hiện diện của Chúa và mừng rỡ hân hoan, biểu lộ với việc nhảy múa
trong lòng mẹ để từ đó liên hệ với ơn cứu độ. Mẹ Maria sẽ là người thông
dịch cho sự kiện đó trong bài thánh ca Ngợi Khen (Magnificat).
b) Bài ca
tình yêu:
Trong bài ca này Mẹ Maria coi
mình như một phần của những kẻ bần cùng, “người nghèo khó của Thiên Chúa”, của
những người “kính sợ Thiên Chúa”, đặt tất cả mọi tin tưởng vào Người, và hy vọng,
vì trong mức độ hiểu biết của con người, họ không được hưởng bất kỳ một quyền lợi
hay sự ưu đãi nào. Tinh thần của những kẻ nghèo khó có thể được tổng hợp
với những lời của Thánh Vịnh 37, các câu 7-9: “Hãy thinh lặng trước mặt
Chúa và đợi trông Người”, bởi vì “những ai trông đợi Chúa, sẽ được đất hứa làm
gia nghiệp”.
Trong Thánh Vịnh 86, câu 6, người
ta cầu nguyện, hướng về Thiên Chúa mà rằng: “Xin hãy ban cho người tôi tớ
Chúa nguồn trợ lực của Người”. Thuật ngữ “tôi tớ” ở đây diễn tả người ấy
đã bị khuất phục, cũng như ngụ ý thuộc về Thiên Chúa, của cảm giác được an toàn
với Người.
Kẻ nghèo khó, theo sát nghĩa của
Thánh Kinh, là những ai đặt niềm tin vào Thiên Chúa một cách vô điều kiện; đây
là lý do tại sao họ được đoái hoài tới, về phẩm chất, phần tốt nhất, của dân tộc
Do-Thái.
Thay vào đó, kẻ tự hào là những
ai lại đặt tất cả tin tưởng của họ vào chính bản thân mình.
Bây giờ, theo bài ca Kinh Ngợi
Khen (Magnificat), người nghèo có một ngàn lý do để vui mừng, bởi vì
Thiên Chúa ban cho kẻ nghèo hèn được vẻ vang (Tv 149:4) và những kẻ khiêm tốn
được hãnh diện. Một hình ảnh được trích từ Tân Ước diễn tả rất rõ thái độ
của người nghèo hèn trong Cựu Ước, nói về người thu thuế giàu có đã tự khiêm
nhường đấm ngực, trong khi người Biệt Phái lại tự mãn với các công lao của mình
và đang để cho niềm tự mãn chi phối (Lc 19:9-14). Một cách dứt khoát, Mẹ
Maria ca tụng tất cả những việc Thiên Chúa đã thực hiện trong người Bà và tất cả
những việc Chúa đã làm cho mọi tạo vật. Niềm hân hoan và lòng biết ơn là
đặc tính của bài thánh ca này về ơn cứu độ công nhận sự cao cả của Thiên Chúa,
mà cũng làm cho người hát bài hát đó trở nên tuyệt vời.
c) Một
vài câu hỏi gợi ý:
- Lời cầu nguyện của tôi,
hơn hết cả, có là sự biểu hiện tình cảm hay là việc tán dương và xác nhận
hoạt động của Thiên Chúa không?
- Đức Maria được xem như
là người tin vào Lời của Chúa. Tôi đã dành bao nhiêu thời gian để
dành trọn lắng nghe Lời Chúa?
- Lời cầu nguyện của bạn
có đã được nuôi dưỡng từ Thánh Kinh, như lời cầu nguyện của Mẹ Maria
không? Hay đúng hơn là tôi đã có siêng năng cho việc sùng kính với
những lời kinh cầu liên tục nhạt nhẽo và buồn tẻ không? Bạn có tin rằng
tìm về lời cầu nguyện trong Kinh Thánh là sự bảo đảm để tìm thấy việc nuôi
dưỡng chắc chắn, như Mẹ Maria đã chọn không?
- Bạn có nhận thấy được
lý lẽ của bài thánh ca Magnificat đã tán tụng niềm hân hoan về sự cho đi,
về đánh mất để được tìm thấy, về sự nhận lãnh, về niềm hạnh phúc của sự tưởng
thưởng, về sự biếu tặng không?
3. Cầu
Nguyện
a) Thánh
Vịnh 44 (45)
Phần thứ hai này của bài Thánh Vịnh,
ca ngợi Nữ hoàng. Trong bài Phụng Vụ hôm nay những câu Thánh Vịnh này được
áp dụng cho Mẹ Maria và tán dương vẻ đẹp và sự cao trọng của Mẹ.
Hàng cung nữ, có những vì công
chúa,
bên hữu ngài, hoàng hậu sánh vai,
trang điểm vàng Ô-phia lộng lẫy.
Tôn nương hỡi, xin hãy nghe nào,
đưa mắt nhìn và hãy lắng tai,
quên dân tộc, quên đi nhà thân phụ.
Sắc nước hương trời, Quân Vương sủng ái,
hãy vào phục lạy: "Người là Chúa của bà."
Đẹp lộng lẫy, này đây công chúa,
mặc xiêm y dệt gấm thêu vàng,
phục sức huy hoàng, được dẫn tới Quân Vương,
cùng các trinh nữ theo sau hầu cận.
Lòng hoan hỷ, đoàn người tiến bước,
vẻ tưng bừng, vào tận hoàng cung.
b) Lời nguyện kết
bên hữu ngài, hoàng hậu sánh vai,
trang điểm vàng Ô-phia lộng lẫy.
Tôn nương hỡi, xin hãy nghe nào,
đưa mắt nhìn và hãy lắng tai,
quên dân tộc, quên đi nhà thân phụ.
Sắc nước hương trời, Quân Vương sủng ái,
hãy vào phục lạy: "Người là Chúa của bà."
Đẹp lộng lẫy, này đây công chúa,
mặc xiêm y dệt gấm thêu vàng,
phục sức huy hoàng, được dẫn tới Quân Vương,
cùng các trinh nữ theo sau hầu cận.
Lòng hoan hỷ, đoàn người tiến bước,
vẻ tưng bừng, vào tận hoàng cung.
b) Lời nguyện kết
Lời nguyện sau đây là một đoạn
suy gẫm ngắn gọn về vai trò làm mẹ của Đức Maria trong đời sống của người tín hữu:
“Lạy Mẹ Maria, Mẹ là người phụ nữ biết thế nào để vui mừng, người biết thế nào
để hân hoan, người đã để cho được chiếm hữu bởi sự an ủi hoàn toàn của Chúa
Thánh Thần, xin hãy dạy cho chúng con cách cầu nguyện để chúng con có thể khám
phá ra nguồn mạch của sự hân hoan. Trong nhà bà Êlisabéth, chị họ của Mẹ,
cảm giác được chấp nhận và được thông hiểu về bí mật thâm kín nhất của Mẹ, Mẹ
đã thốt lên một bài thánh ca của lòng hân hoan, nói về Thiên Chúa, nói về mối
quan hệ của Mẹ với Chúa, và về một cuộc phiêu lưu chưa từng có đã bắt đầu là
làm Mẹ Thiên Chúa và là mẹ của chúng con, dân thánh của Thiên Chúa. Xin Mẹ
hãy dạy cho chúng con biết dâng lên lời nguyện của nhịp điệu hy vọng và những
rung động của niềm hân hoan, những khi chúng con kiệt sức bởi than vãn đắng cay
và thấm tràn với sầu muộn gần như là nghĩa vụ. Phúc Âm nói với chúng con
về Mẹ và bà Êlisabéth: cả hai đều giữ trong lòng một điều gì đó mà cả hai
không dám hoặc không muốn tỏ lộ cho bất cứ ai. Nhưng trong mỗi người, cảm
nghiệm được thông hiểu bởi người đối diện, trong ngày đã được nói trước về việc
Thăm Viếng và Mẹ đã thốt lên những lời của cầu nguyện và của ngày lễ hội.
Cuộc gặp gỡ của Mẹ đã trở nên phần Phụng Vụ tạ ơn và ngợi ca Thiên Chúa khôn tả
của Mẹ. Mẹ, người phụ nữ với niềm vui sâu sắc, đã xướng lên bài Kinh Ngợi
Khen Magnificat, trong sự sung sướng và ngạc nhiên trước tất cả những gì Chúa
đã sắp đặt nơi người tôi tớ khiêm cung của Người. Bài ca Magnificat là tiếng
hò reo, lời nổ bừng của mừng vui, nổ tung trong mỗi người chúng ta, khi người
ta cảm thấy được chấp nhận và được thấu hiểu”.
4. Chiêm
Niệm
Lạy Đức Trinh Nữ Maria, đền thờ
của Chúa Thánh Thần, được chấp nhận với niềm tin tưởng vào Lời Chúa và hoàn
toàn quy phục vào quyền năng Tình Yêu. Vì chính điều này Mẹ đã trở nên biểu
tượng của nội tâm, tất cả mọi việc được nhớ lại dưới cái nhìn của Thiên Chúa và
chìm đắm vào quyền năng của Đấng Tối Cao. Mẹ Maria đã giữ im lặng về
chính mình, bởi vì tất cả mọi việc trong người Mẹ có thể nói lên những việc kỳ
diệu lạ lùng của Chúa trong cuộc đời của Mẹ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét