04/09/2016
Chúa Nhật
tuần 23 thường niên năm C
(phần I)
Bài Ðọc
I: Kn 9, 13-18
"Ai
có thể suy tưởng được sự Thiên Chúa muốn".
Trích
sách Khôn Ngoan.
Ai
trong loài người có thể biết được ý định của Thiên Chúa? Hay ai có thể suy tưởng
được sự Thiên Chúa muốn? Vì những ý tưởng của loài hay chết thì mập mờ, và những
dự định của chúng tôi đều không chắc chắn. Vì xác hay hư nát làm cho linh hồn
ra nặng nề, và nhà bụi đất làm cho lý trí hay lo lắng nhiều điều ra nặng nề.
Chúng
tôi ước lượng cách khó khăn các việc dưới đất, và khó nhọc tìm thấy những sự
trước mắt. Còn những sự trên trời, nào ai khám phá ra được? Ai hiểu thấu Thánh
ý của Chúa, nếu Chúa không ban sự khôn ngoan, và không sai Thánh Thần Chúa từ
trời cao xuống. Như thế, mọi đường lối những kẻ ở dưới đất được sửa lại ngay thẳng,
và loài người học biết những sự đẹp lòng Chúa.
Vì, lạy
Chúa, những ai sống đẹp lòng Chúa từ ban đầu, thì được ơn cứu độ nhờ sự khôn
ngoan.
Ðó là
lời Chúa.
Ðáp Ca:
Tv 89, 3-4. 5-6. 12-13. 14 và 17
Ðáp: Thân lạy Chúa, Ngài
là chỗ chúng con dung thân, từ đời nọ trải qua đời kia (c. 1).
Xướng:
1) Thực ngàn năm ở trước thiên nhan, tựa hồ như ngày hôm qua đã khuất, như một
đêm thức giấc cầm canh. Chúa khiến cho con người trở về bụi đất, Ngài phán:
"Hãy trở về gốc, hỡi con người". - Ðáp.
2)
Chúa khiến họ trôi đi, họ như kẻ mơ màng buổi sáng, họ như cây cỏ mọc xanh
tươi. Ban sáng cỏ nở hoa và xanh tốt, buổi chiều nó bị xén đi và nó héo khô. -
Ðáp.
3)
Xin dạy chúng con biết đếm ngày giờ, để chúng con luyện được lòng trí khôn
ngoan. Lạy Chúa, xin trở lại, chớ còn để tới bao giờ? xin tỏ lòng xót thương
tôi tớ của Ngài. - Ðáp.
4)
Xin cho chúng con sớm được no phỉ ân tình của Chúa, để chúng con mừng rỡ hân
hoan trọn đời sống chúng con. Xin cho chúng con được hưởng ân sủng Chúa là
Thiên Chúa chúng con, sự nghiệp tay chúng con làm ra, xin Ngài củng cố, xin
Ngài củng cố sự nghiệp tay chúng con làm ra. - Ðáp.
Bài Ðọc
II: Plm 9b-10. 12-17
"Con
hãy tiếp nhận nó không phải như một người nô lệ, nhưng như một người anh em rất
thân mến".
Trích
thư Thánh Phaolô Tông đồ gởi cho Philêmon.
Con
thân mến, Phaolô già nua, và hiện đang bị cầm tù vì Ðức Giêsu Kitô, cha nài xin
con cho Ônêsimô, đứa con cha đã sinh ra trong xiềng xích.
Cha
trao nó lại cho con. Phần con, con hãy đón nhận nó như ruột thịt của cha. Cha
cũng muốn giữ nó lại để thay con mà giúp đỡ cha trong lúc cha bị xiềng xích vì
Tin Mừng. Nhưng vì chưa biết ý con, nên cha không muốn làm gì, để việc nghĩa
con làm là một việc tự ý, chớ không vì ép buộc. Vì biết đâu nó xa con một thời
gian để rồi con sẽ tiếp nhận muôn đời, không phải như một người nô lệ, nhưng
thay vì nô lệ, thì như một người anh em rất thân mến, đặc biệt đối với cha, huống
chi là đối với con, về phần xác cũng như trong Chúa. Vậy nếu con nhận cha là bạn
hữu, thì xin con hãy đón nhận nó như chính mình cha vậy.
Ðó là
lời Chúa.
Alleluia:
Ga 10, 27
Alleluia,
alleluia! - Chúa phán: "Con chiên Ta thì nghe Ta; Ta biết chúng và chúng
theo Ta". - Alleluia.
Phúc Âm:
Lc 14, 25-33
"Ai
không từ bỏ tất cả của cải mình có, thì không thể làm môn đệ Ta".
Tin Mừng
Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy,
có nhiều đám đông cùng đi với Chúa Giêsu, Người ngoảnh lại bảo họ rằng: "Nếu
ai đến với Ta mà không bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình, thì
không thể làm môn đệ Ta. Còn ai không vác thập giá mình mà theo Ta, thì không
thể làm môn đệ Ta.
"Có
ai trong các ngươi muốn xây tháp mà trước tiên không ngồi tính toán phí tổn cần
thiết, xem có đủ để hoàn tất không? Kẻo đặt móng rồi mà không thể hoàn tất, thì
mọi người xem thấy sẽ chế giễu người đó rằng: 'Tên này khởi sự xây cất mà không
hoàn thành nổi'.
"Hoặc
có vua nào sắp đi giao chiến với một vua khác, mà trước tiên không ngồi suy
nghĩ xem mình có thể đem mười ngàn quân ra đương đầu với đối phương dẫn hai
mươi ngàn quân tiến đánh mình chăng? Bằng chẳng nổi, thì khi đối phương còn ở
xa, vua ấy sai một phái đoàn đến cầu hoà. Cũng thế, bất kỳ ai trong các ngươi
không từ bỏ tất cả của cải mình có, thì không thể làm môn đệ Ta".
Ðó là
lời Chúa.
Suy Niệm:
Quyết tâm từ bỏ tất cả để vác thập giá của mình
Nếu
chúng ta đã chú ý lắng nghe Lời Chúa, chắc chắn không ai có thể yên tâm được. Lời
Người đòi hỏi rõ ràng quá! Người dạy: phàm ai trong các ngươi không từ bỏ của cải
mình đi hết thảy, thì không thể làm môn đệ của Ta. Ấy là chúng ta mới chỉ nhắc
lại một Lời của Người đó thôi. Mở đầu bài Tin Mừng hôm nay, Người còn nói: Kẻ
nào đến với Ta mà không ghét cha mẹ, vợ con, anh chị em mình và cả mạng sống của
mình nữa, ắt không thể làm môn đệ của Ta. Những lời này phải hiểu thế nào đây?
Không lẽ hiểu theo nghĩa đen; và như vậy thi hành thế nào được, vì kìa có ai
làm như thế đâu? Các tu sĩ khổ hạnh cùng lắm cũng chỉ từ bỏ được của cải; nhưng
họ đâu có ghét cha ghét mẹ. Ðàng khác Chúa không dạy phải thảo kính cha mẹ ư?
Do
đó, Lời Chúa phải hiểu theo cách thức nào đây? Chúng ta muốn tìm một lối giải
thích. Nhưng ý tứ, bài sách Khôn ngoan bảo chúng ta phải coi chừng.
1. Ai
Nghĩ Ra Ðược Chúa Muốn Gì?
Quả
thật tác giả là người khôn. Ông sống khoảng 100 năm trước Ðức Giêsu Kitô. Thời ấy
người Do Thái tiếp xúc với văn hóa Hy Lạp, nổi tiếng có nền triết học thâm
thúy. Chắc chắn người Hy Lạp coi rẻ văn chương Do Thái, như dân mẫu quốc khinh
khỉnh đối với sách vở của dân thuộc địa. Và chính nhiều người Do Thái cũng đâm
ra mặc cảm, không thấy Sách Thánh của mình có giá trị tuyệt đối nữa, và xét
theo nhiều phương diện còn kém tư tưởng của các nhà triết học. Chính trong bối
cảnh lịch sử ấy nẩy sinh loại văn chương khôn ngoan trong bộ Kinh Thánh. Nhiều
học giả đạo đức trong dân Chúa đã được Chúa soi sáng và hướng dẫn để giúp anh
em tín hữu biết đối thoại với nền văn hóa mới: Suy nghĩ các đề tài nền văn hóa
này chú trọng cũng như hiểu rõ các chân lý đặc biệt của đạo Chúa. Công việc của
những tác giả ấy còn khích lệ chúng ta hiện nay, và có thể nói hơn bao giờ hết.
Bởi vì chưa bao giờ nhân loại tiến bộ như hiện nay. Các khám phá mới về khoa học
và các tư tưởng táo bạo của thời đại chúng ta bó buộc niềm tin của chúng ta phải
suy nghĩ, nếu không muốn nó bị người ngoài coi khinh và có thể khiến chúng ta tự
ti mặc cảm cách nào đó trong đời sống hằng ngày. Bài sách Khôn ngoan hôm nay vắn
tắt nhưng có thể trở thành lợi khí, nếu chúng ta biết hiểu.
Ðây
là đoạn kết của lời kinh cầu nguyện mà tác giả dâng lên Thiên Chúa. Ông xin Người
ban cho mình được sự khôn ngoan. Không phải vì ông thất học hay dốt nát. Ông mượn
danh nghĩa của Salômon để viết ra tác phẩm "Khôn ngoan" này. Và sự
khôn ngoan của Salômon đã trở thành vô địch, đến nỗi Nữ hoàng Phương Nam phải đến
học khôn. Nhưng người thông thái thật không tưởng mình đã biết hết và chỉ kẻ
thiển cận mới ba hoa tuyên bố các ngu xuẩn của mình.
Ðặc
biệt, những người khôn ngoan luôn biết định mức các kiến thức của mình. Tác giả
bài sách hôm nay là một trong những người như vậy. Ngay từ đầu, ông phân biệt
rõ phạm vi ý định của Thiên Chúa và giới hạn tư tưởng của loài người. Thế giới
của Thiên Chúa siêu việt. Khả năng của loài người bất lực trước các chân lý của
Người. Ðiều này hiển nhiên không cần bàn cãi. Nhưng còn hiển nhiên không kém,
là tư tưởng của loài người cũng yếu ớt dễ sợ ngay trong phạm vi của mình. Kiến
thức của họ lỏng chỏng chứ không bền vững. Và tác giả nói rõ lý do vì sao.
"Quả thật xác hư nát đè nặng linh hồn, lều đất làm trĩu xuống linh hồn đăm
chiêu".
Chúng
ta có cảm tưởng ông muốn nói với người Hy Lạp và phê bình giá trị tư tưởng của
họ. Họ tự phụ có nền triết học cao. Nhưng đấy cũng chỉ là sản phẩm của trí tuệ
và linh hồn con người. Thế mà linh hồn cũng như trí tuệ ở trong xác mà con người
Hy Lạp vẫn coi như tù ngục và vât chất. Xác thịt lôi cuốn tinh thần xuống, đè nặng
trên các tư tưởng của con người, khiến triết học của họ yếu ớt và lỏng chỏng.
Người ta ước lượng các việc dưới đất một cách khó khăn; và nhiều điều trước mắt
người ta cũng phải vất vả mới nhìn ra được. Khổng Tử cũng không nói khác khi
ông tuyên bố: Việc đời này tôi cũng chưa rành, tại sao lại phải hỏi tôi về việc
đời sau?
Phải,
sự khôn ngoan của con người có hạn. Kiến thức của họ lỏng chỏng yếu ớt. Người
khôn phải có thái độ thế nào? Salômon tự thú: Nếu Thiên Chúa không ban, tôi
không thể có được sự khôn ngoan. Nên tôi đã thưa với Chúa và cầu xin Người: Xin
ban cho tôi khôn ngoan chung ngự ngai Người và đừng loại tôi khỏi số con cái của
Người.
Ước
gì chúng ta được lòng đạo đức ấy! Gặp nền văn hóa mới, gặp những tư tưởng mới,
chúng ta noi gương tác giả sách Khôn ngoan. Chúng ta xin Chúa hướng dẫn và tìm
trong Mạc khải của Người ánh sáng cứu độ cho cuộc đời trần gian. Thiên Chúa đã
nói với chúng ta, nơi Ðức Giêsu Kitô là Ngôi Lời chung ngự ngai Thiên Chúa.
Ngài đang mạc khải ý định của Ngài nơi Sách Thánh và trong Hội Thánh. Chúng ta
có biết để các kiến thức của loài người dưới chân sự khôn ngoan của Thiên Chúa,
mới hy vọng nhận được ánh sáng soi dẫn cuộc đời trong chân lý. Giờ đây chúng ta
cũng phải làm như thế để đón nhận lời dạy của Ðấng Khôn ngoan đang tuyên bố con
đường cứu độ trường sinh.
2. A
Muốn Làm Môn Ðệ Chúa
Chúa
Giêsu nói với những ai muốn làm môn đệ Người. Người nói với quần chúng đông đảo,
làm chứng Người muốn kêu gọi hết mọi người và muốn mọi người được hạnh phúc. Do
đó, Lời của Người không dành riêng cho một nhóm người nào. Ðừng bảo những lời ấy
chỉ có giá trị đối với người Do Thái đồng thời với Người. Cũng đừng nói ngày
nay những lời ấy chỉ dành cho linh mục và tu sĩ. Chúa Giêsu nói với tất cả
chúng ta ngày hôm nay. Người bảo: Muốn đến với Người và làm môn đệ của Người phải
ghét cha mẹ, vợ con, anh chị em mình và cả mạng sống của mình nữa. Lại phải vác
khổ giá mình mà đi sau Người. Và phải từ bỏ của cải mình đi hết thảy.
Dĩ
nhiên Chúa chẳng vô lý đòi chúng ta bỗng dưng phải bỏ cha mẹ, bạn hữu, mạng sống
và của cải. Con người ở đời phải có những sự ấy. Và nếu những sự ấy giúp chúng
ta đến với Chúa và làm môn đệ của Người, thì có chi mà phải ghét bỏ? Nhưng khi
mà những sự ấy trở thành chướng ngại vật cho chúng ta trên đường đi theo Chua,
thì hôm nay Người bảo chúng ta phải dứt khoát lựa chọn: hoặc bỏ chúng để được
Người, hoặc giữ chúng mà mất Người. Không có lối thoát nào khác. Không phải vì
Chúa quá đòi hỏi; nhưng giữa ánh sáng và tối tăm, giữa tình yêu và hận thù, người
ta phải lựa chọn.
Thế
nên, tiếp theo Chúa bảo người ta phải suy nghĩ, cân nhắc. Như người muốn xây
tháp, như vua sắp đi giao chiến, phải suy tính kỹ lưỡng kẻo tháp xây không nổi,
đánh trận sẽ thua, khiến không những bị cười nhạo mà cuộc đời cũng tiêu luôn.
Người
ta phải suy nghĩ trước khi đi theo Chúa. Và theo Chúa không như theo bất cứ một
ai. Những người Do Thái đồng thời với Ðức Giêsu còn có thể hiểu lầm được, chứ
ngày nay chúng ta đã thấy rồi, Chúa đã đi con đường thập giá, ai muốn đi sau
Người, cũng phải mang lấy thập giá.
Tôi
tưởng đây là câu chính trong bài Tin Mừng hôm nay. Kẻ muốn làm môn đệ của Chúa
Giêsu Kitô phải vác thập giá đi sau Ðấng đã vác thập giá mở đường cứu độ cho
muôn người. Ðối với những thính giả ở thời Ðức Giêsu, điều này có một ý nghĩa rất
cụ thể. Người ta vẫn thấy những tên tù tội phải vác thập giá đi đến nơi chịu tử
hình. Ngày nay chúng ta đã thấy Ðức Giêsu đi như thế. Ai đi sau Người tất bị
khai trừ bởi những ai phủ nhận đường lối Người đã đi. Không chấp nhận bị khai
trừ như vậy không thể làm môn đệ của Người được. Và khi đi vào con đường thập
giá như vậy, làm sao còn có thể bám vào của cải thế gian nữa? Do đó hãy hiểu
hai đòi hỏi "ghét cha mẹ" và "từ bỏ của cải" như là điều kiện
và hậu quả của việc lựa chọn đi vào đường lối của Chúa, khi tình yêu tự nhiên
và của cải thế gian ngăn trở người ta bước đi sau Chúa để trở thành môn đệ của
Người.
Có
khi nào như vậy không? Thường ra thì không như trong trường hợp của chúng ta hiện
nay. Cha mẹ, vợ con, anh chị em đâu có cản trở chúng ta đi theo đường lối của
Chúa. Ngược lại, cha mẹ thường muốn con cái giữ luật Chúa, vợ ao ước chồng giữ
các giới răn của Chúa, anh chị mong muốn các em sống đời đạo đức. Có khi vì vậy
mà con cái ghét cha mẹ, chồng khó chịu với vợ, và các em giận hờn anh chị. Những
sự ghét bỏ ở đây là tội lỗi và bất công. Nhưng hồi Ðức Giêsu giảng đạo tại thế,
các môn đệ của Người phải bỏ cha mẹ, vợ con mới đi theo Người được. Và trong lịch
sử nhiều cuộc cấm đạo, người đi theo Chúa buộc lòng phải ghét bỏ cả cha mẹ, vợ
con, anh chị em và sự sống của mình mới có thể vác thập giá theo chân Chúa
Giêsu đi đến chỗ tử đạo được, khi những người kia cản trở mình trung kiên trong
đức tin.
Ðó là
những trường hợp hy hữu và điển hình để khẳng định dứt khoát chân lý sau đây:
không được yêu thích người nào, vật nào hơn Chúa; và phải kính yêu Người hơn hết
thảy mọi sự, mọi người. Ðiều không phải là người ta không thi hành chân lý này
mọi nơi, mọi lúc. Quá nhiều khi họ nghe theo cám dỗ, thích các ham muốn xác thịt
hơn Luật Chúa và vị nể người này người khác mà không dám làm theo tiếng lương
tâm. Họ không xứng đáng làm môn đệ của Chúa Giêsu, Ðấng đã vác thập giá đi trước
để mở đường cứu độ cho những ai chấp nhận vác thập giá của mình đi sau.
Thánh
Phaolô trong bài thư hôm nay cũng đặt Philêmon trước một lựa chọn. Ông có thể xử
sự theo lẽ tự nhiên hoặc thi hành tiếng gọi của Chúa? Ông sẽ lựa chọn theo sự
khôn ngoan của loài người hoặc sẽ nhờ sức mạnh Thánh Thần khôn ngoan của Thiên
Chúa mà hành động? Ông sẽ tỏ mình là môn đệ của Chúa hoặc chỉ sống như một người
thế gian? Chúng ta đọc qua đọc lại đoạn thư này để thấy Lời Tin Mừng đòi buộc
áp dụng cụ thể và chỉ những ai nhận được sự khôn ngoan của Thiên Chúa mới có thể
là môn đệ của Người.
3. Bạn
Sẽ Xử Sự Thế Nào?
Philêmon
là một người giàu có. Có thể chính Phaolô đã làm cho ông theo đạo. Ông có một
tên nô lệ gọi là Ônêsimô. Anh này bỏ trốn. Phaolô đã gặp anh và làm cho anh
theo đạo. Nhưng Người phải xử trí thế nào đây? Không trả Ônesimô lại cho
Philêmon hoặc để anh trốn đi nơi khác, là bao che một kẻ phạm pháp và gây ra
nhiều hiểu lầm tai hại cho Ðạo Thánh. Phaolô một mặt khuyên Ônêsimô trở về và mặt
khác viết một thư để anh cầm theo mang đến cho Philêmon.
Lá
thư vắn tắt nhưng thống thiết, chan chứa tình người và nhất là hối thúc đức ái
siêu nhiên. Phaolô nại đến tuổi già của mình và hoàn cảnh đang bị cầm tù vì Ðức
Giêsu Kitô. Những lý do này khiến Người có thể đòi hỏi Philêmon bất cứ điều gì.
Nhưng Người không muốn áp đặt mà chỉ muốn chính Philêmon phải lựa chọn. Ônêsimô
trước đây khi trốn đi là tên nô lệ; nhưng bây giờ khi trở lại, anh đã trở thành
con Chúa và là anh em của chúng ta.
Hơn nữa,
anh đã được sinh ra trong tuổi già và xiềng xích của Phaolô. Philêmon sẽ đón nhận
anh như một chủ thế gian gặp lại tên nô lệ đã trốn đi; hoặc ông sẽ cư xử như một
môn đệ của Chúa, đón nhận anh như một đồng đạo, và do đó như một người anh em
và bạn hữu? Chúng ta không được biết Philêmon xử trí như thế nào. Nhưng một bức
thư thống thiết, đầy tình nghĩa và lý tưởng cao như vậy, chắc chắn đã có hiệu
quả tốt đẹp. Philêmon bỏ lòng giận dữ, khước từ quyền lợi thế gian và xã hội
cho phép mình đón nhận lời Phaolô như sự khôn ngoan và Thánh Thần của Thiên
Chúa, để cư xử như một người môn đệ tốt của Chúa Giêsu Kitô, xứng đáng lưu tên
tuổi lại trong bộ Kinh Thánh, trở thành gương mẫu cho chúng ta khi nghe tiếng
Chúa kêu gọi trong những trường hợp rất cụ thể thuộc đời sống trần gian. Chúng
ta ghi nhớ bài thư hôm nay để thấy rõ Lời Chúa rất cụ thể. Người kêu gọi chúng
ta luôn biết từ bỏ thế gian xác thịt để trở thành môn đệ của Người. Và chúng ta
chỉ làm được như vậy khi thâm tín Lời Chúa và lệnh truyền của Chúa là sự khôn
ngoan Thánh Thần vượt xa mọi luận lý phàm nhân của chúng ta.
Chúng
ta hãy cầu xin được thêm lòng xác tín mọi lệnh truyền của Chúa, được nhiều ơn
Thánh Thần hơn để mạnh mẽ khước từ và ghét bỏ các cám dỗ, hầu sống xứng đáng là
môn đệ của Chúa. Thánh lễ này muốn mang đến tất cả những ơn đó.
Ðặc
biệt nơi bàn thờ sẽ nhắc nhở và thực hiện mầu nhiệm của Chúa Giêsu Kitô không
những vác thập giá mà còn chết trên thập giá để cống hiến Thịt Máu Người cho
chúng ta được sống.
Chúng
ta không thể đón nhận một tình yêu như vậy mà không quyết tâm từ bỏ tất cả để
vác thập giá của mình và đi theo Người. Xin Người đến hộ sức cho chúng ta.
(Trích
dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức
cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Chúa Nhật 23 Thường Niên, Năm C
Bài đọc: Wis 9:13-18; Plm
1:9b-10, 12-17; Lk 14:25-33.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Con người cần có Đức Khôn
Ngoan của Thiên Chúa.
Khôn
ngoan là một tĩnh từ mang nhiều hiểu lầm vì tính áp dụng quá rộng của nó: Thiên
Chúa khôn ngoan, nhà khoa học khôn ngoan, người thợ kim hoàn khôn ngoan vì làm
đồ giả như đồ thật, tên trộm khôn ngoan vì đánh lừa được chủ nhà. Đâu là sự
khác biệt mà tĩnh từ khôn ngoan được áp dụng cho các thành phần này?
Trước
hết, chúng ta cần phân biệt Đức Khôn Ngoan với sự hiểu biết: Đức Khôn Ngoan chỉ
áp dụng cho Thiên Chúa và những sự thuộc về Ngài; trong khi hiểu biết nên áp dụng
cho những sự thuộc về loài người. Hiểu biết cũng có nhiều loại: hiểu biết chung
cho tất cả phạm vi của loài người được gọi là kiến thức (knowledge), hay cho những
phạm vi chuyên môn gọi là khoa học (science)
Các
bài đọc hôm nay chú trọng đặc biệt đến Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa và sự cần
thiết của Đức Khôn Ngoan trong cuộc đời con người, để họ biết sống thế nào cho
đẹp lòng Thiên Chúa và đạt được mục đích của cuộc đời. Trong bài đọc I, tác giả
Sách Khôn Ngoan phân tích sự khác biệt giữa Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa và những
hiểu biết của con người, và những lợi ích do Đức Khôn Ngoan mang lại. Trong bài
đọc II, thánh Phaolô muốn cho Philemon nhận ra sự khác biệt to lớn khi một người
biết sống theo sự dạy dỗ khôn ngoan của Thiên Chúa. Họ có thể biến một người vô
tích sự thành một người hữu ích cho tha nhân. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đòi con
người phải có Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa thì mới có thể đáp ứng những đòi hỏi
để trở thành môn đệ của Ngài được. Nếu một người chỉ sống theo những hiểu biết
của thế gian, họ sẽ không bao giờ có thể trở thành môn đệ của Ngài.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc
I: Đức
khôn ngoan của Thiên Chúa và trí khôn của con người
1.1/ Đức
Khôn Ngoan của Thiên Chúa và sự hiểu biết của con người
Trước
tiên, tác giả Sách Khôn Ngoan xác tín: “Lạy Chúa, nào có ai biết được ý định của
Thiên Chúa? Nào có ai hiểu được Đức Chúa muốn điều chi?” Có nhiều lý do cho sự
không hiểu biết của con người: Thứ nhất, trí khôn con người có giới hạn, vì con
người “là loài phải chết, tư tưởng không sâu, lý luận không vững.” Linh hồn con
người bị chi phối bởi thân xác, mà thân xác bị chi phối bởi khí hậu, ăn uống,
hoàn cảnh, và nhất là những đòi hỏi về các ham muốn, lo âu và dục vọng. Thứ
hai, con người chỉ có thể hiểu biết những gì thuộc thế giới hữu hình, chứ không
hiểu biết được thế giới vô hình. Tác giả thú nhận: “Những gì thuộc hạ giới,
chúng con đã khó mà hình dung nổi, những điều vừa tầm tay, đã phải nhọc công mới
khám phá được, thì những gì thuộc thượng giới, có ai dò thấu nổi hay chăng?” Sự
thật của cuộc đời là thế, người tài giỏi lắm cũng chỉ biết những gì thuộc phạm
vi của mình; ví dụ, trong nghành y khoa còn phải chia ra các phân khoa như:
tim, phổi, thần kinh, xương, da...; trong ngành kỹ sư cũng chia ra các phân
khoa như: điện đường, điện tử, cơ khí, cầu cống... Làm sao có thời giờ để quán
thông mọi sự trong trời đất?
1.2/ Con
người cần được Thiên Chúa ban cho Đức Khôn Ngoan.
(1)
Theo tác giả, Đức Khôn Ngoan là quà tặng của Thiên Chúa ban cho con người trong
khi sự hiểu biết là do cố gắng hay kinh nghiệm mà con người đạt được.
Đức
Khôn Ngoan của Thiên Chúa không lệ thuộc vào trí khôn của con người, vì có người
rất hiểu biết nhưng lại không có Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa; trong khi có
người ít hiểu biết nhưng lại có Đức Khôn Ngoan của Ngài; dĩ nhiên cũng có những
người hiểu biết nhiều và sở hữu Đức Khôn Ngoan. Chính Đức Kitô đã nêu lên sự kiện
này khi cầu nguyện cùng Thiên Chúa: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi
khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều
này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp
ý Cha. Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết rõ người Con, trừ
Chúa Cha; cũng như không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con
muốn mặc khải cho” (Mt 11:25; Lk 10:21). Thực ra, Thiên Chúa ban tặng Đức Khôn
Ngoan cho mọi người, sở dĩ có những người không có là vì họ quá kiêu ngạo, họ
không nghĩ họ cần Đức Khôn Ngoan là những mặc khải và giáo huấn của Thiên Chúa.
(2)
Những lợi ích mà Đức Khôn Ngoan mang lại cho con người: Tác giả liệt kê 3 lợi
ích mà Đức Khôn Ngoan mang lại cho con người: thứ nhất, họ được đẹp lòng Thiên
Chúa; thứ hai họ biết sống theo trật tự của Thiên Chúa quan phòng nên họ được
thành công và có sự bình an; sau cùng, họ đạt được ơn cứu độ là sự sống đời đời.
2/ Bài đọc
II: Kẻ xưa
kia là vô dụng, thì nay đã thành người hữu ích cho cả anh lẫn tôi.
2.1/
Phaolô huấn luyện Onesimus theo đường lối và cách thức của Thiên Chúa.
Onesimus
là một người nô lệ của Philemon, sống tại Colossae. Vì một lý do nào đó, ông đã
bỏ trốn chủ qua Rôma và đã gặp lại Phaolô đang lúc ngài bị giam tù lỏng. Sau một
thời gian ở với Phaolô và được huấn luyện, ông đã thay đổi hoàn toàn và được chịu
phép Rửa bởi Phaolô. Luật Rôma rất nghiêm nhặt đối với người nô lệ bỏ chủ chạy
trốn, ông có thể bị tử hình. Phaolô tuy rất muốn giữ Onesimus ở với mình trong
khi tù đày và già yếu; nhưng ông không muốn làm gì mà không có sự đồng ý của
Philemon, chủ của Onesimus.
Phaolô
coi Onesimus như người con ruột của mình, “đứa con tôi đã sinh ra trong cảnh xiềng
xích.” Phaolô xin Philemon nhận lại Onesimus, không phải như nhận lại một người
nô lệ; nhưng như một người ruột thịt của ông, và như một người anh em trong Đức
Kitô. Có thể nói Phaolô đã làm một cuộc cách mạng khi xin tha chết cho
Onesimus, và xin Philemon đối xử với ông không như một người nô lệ.
2.2/
Thay vì một người nô lệ, thì được một người anh em rất thân mến.
Phaolô
muốn Philemon hoàn toàn tự do trong việc nhận lại Onesimus, và nếu Philemon đồng
ý, gởi Onesimus lại để ở với Phaolô: “Phần tôi, tôi cũng muốn giữ nó ở lại với
tôi, để nó thay anh mà phục vụ tôi trong khi tôi bị xiềng xích vì Tin Mừng.”
Chỉ
trong thời gian ngắn, Phaolô đã cảm hóa được Onesimus, đến nỗi có thể nói với
Philemon “không phải được lại một người nô lệ, nhưng thay vì một người nô lệ,
thì được một người anh em rất thân mến; đối với tôi đã vậy, phương chi đối với
anh lại càng thân mến hơn biết mấy, cả về tình người cũng như về tình anh em
trong Chúa.” Điều này là một chứng minh cho thấy cách giáo dục con người hay nhất
là giáo dục theo đường lối và cách thức khôn ngoan của Chúa Giêsu là yêu thương
hết mình và sống theo sự thật. Con người sẽ đáp trả khi họ được yêu thương
thành thật và được tôn trọng phẩm giá như một con người.
3/ Phúc
Âm: Ai
không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được.
3.1/ Những
điều kiện để làm môn đệ của Đức Kitô:
Trình
thuật cho biết có rất đông người cùng đi đường với Đức Giêsu. Có lẽ những người
này cũng muốn theo Người làm môn đệ, nên Người quay lại bảo họ: "Ai đến với
tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa,
thì không thể làm môn đệ tôi được. Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi,
thì không thể làm môn đệ tôi được.”
Có ba
điều kiện Chúa Giêsu đòi nơi người môn đệ:
(1) Bỏ
cha mẹ và những người thân thuộc: Làm môn đệ của Đức Kitô là lãnh sứ vụ rao giảng
Tin Mừng của Ngài. Nếu người môn đệ nào quá lo lắng cho cha mẹ và gia đình, ông
sẽ không còn thời gian để chu toàn sứ vụ được trao; vì thế, đòi hỏi của Chúa
Giêsu là điều hợp lý. Tuy nhiên, việc từ bỏ đây không có nghĩa phải chấm dứt
các mối liên hệ gia đình, nhưng phải dám hy sinh cho một sứ vụ, nhất là khi có
xung đột.
(2) Bỏ
chính mình: có lẽ đây là điều khó khăn hơn cả, vì người môn đệ bị đòi phải bỏ ý
riêng và như thế toàn thể con người mình, để sống hoàn toàn theo ý Thiên Chúa.
Nếu người môn đệ hiểu Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa sẽ mang lại những lợi ích
và nhất là ơn cứu độ, việc bỏ ý riêng mình là điều cần thiết và nên làm.
(3)
Vác thập giá mà theo Chúa: con người thường có khuynh hướng chạy trốn đau khổ để
tìm những sự an nhàn và dễ dãi. Người môn đệ bị đòi để sống theo Đức Khôn Ngoan
của Thiên Chúa để vào Nước Trời qua cửa hẹp, vì đường rộng rãi thênh thang chỉ
dẫn tới sự diệt vong.
3.2/ Hai
ví dụ của khôn ngoan: Để dẫn
chứng sự hợp lý của những đòi hỏi trên, Chúa Giêsu đưa ra hai ví dụ.
(1)
Người xây tháp canh: Đây là một dự án đòi nhiều vật lực và nhân lực; vì thế,
người xây phải ngồi xuống tính toán phí tổn, xem mình có đủ để hoàn thành
không? Kẻo lỡ ra, đặt móng rồi mà không có khả năng làm xong, thì mọi người thấy
vậy sẽ lên tiếng chê cười mà bảo: "Anh ta đã khởi công xây, mà chẳng có sức
làm cho xong việc.”
(2)
Vua giao chiến: Ngày nay cũng như ngày xưa, thăng bằng lực lượng là điều cần
thiết phải làm trước khi giao chiến. Nhà lãnh đạo tài giỏi sẽ thăm dò mọi cách
để biết lực lượng của đối phương: nếu cán cân lực lượng quá nghiêng về đối
phương, ông sẽ phải hạ mình xuống để sai sứ giả cầu hòa để tránh tử vong cho
mình, cho binh lính, và cho dân chúng; nếu biết lực lượng của mình mạnh hơn địch,
ông sẽ an tâm giao chiến và nắm chắc phần thắng.
Trên
con đường làm môn đệ của Đức Kitô cũng vậy, người môn đệ bị đòi phải gạt những
hiểu biết theo tính toán con người của mình qua một bên để sống theo Đức Khôn
Ngoan của Thiên Chúa. Nếu ngoan cố cứ sống theo cách riêng của mình, người môn
đệ sẽ bỏ Đức Kitô nửa đường và không theo Ngài tới cùng được. Chúa Giêsu kết luận:
“Ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi
được.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Kiến
thức có được do trí khôn con người không đủ giúp con người đạt tới ơn cứu độ.
Chúng ta cần cầu xin cho có được Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa. Để có được,
chúng ta cần khiêm nhường nhìn nhận những giới hạn của mình.
- Hãy
giáo dục chính mình, con cái, và tha nhân theo đường lối và cách thức của Thiên
Chúa: đó là yêu thương hết mình và luôn sống theo sự thật.
-
Chúng ta phải dẹp bỏ mọi khôn ngoan tính toán theo cách thức con người và chấp
nhận những điều kiện Chúa Giêsu đòi hỏi thì mới có thể trở thành môn đệ của
Ngài được.
-
Chúng ta cần tránh thái độ “ếch ngồi đáy giếng,” chỉ biết những gì trong giếng
và bầu trời bằng miệng giếng, để rồi chối từ tất cả những gì ngoài cái giếng nó
ở!
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
04/09/16 CHÚA NHẬT TUẦN
23 TN – C
Lc 14,25-33
Lc 14,25-33
Suy
niệm: Chúa Giê-su có đòi hỏi
một điều “phản tự nhiên” không khi Ngài yêu cầu người ta phải “dứt bỏ” người
thân và cả mạng sống mình nữa thì mới được làm môn đệ của Ngài? Trong Tin Mừng
Mát-thêu, Chúa nói rõ hơn về “cấp độ ưu tiên” này: “Ai yêu cha hay mẹ hơn
Thầy, thì không xứng đáng với thầy. Ai yêu con trai hay con gái hơn Thầy, thì
không xứng đáng với Thầy” (Mt 10,37). Nhớ chuyện Áp-ra-ham vâng lời Thiên
Chúa, đem người con duy nhất của mình là I-xa-ác hiến tế cho Ngài, để hiểu được
rằng Ngài là Đấng Tối Cao sáng tạo nên muôn loài, đã tín thác vào Chúa, thì
cũng yêu mến Ngài “trên hết mọi sự,” trên cả tình yêu dành cho cha mẹ,
anh em, chị em, con trai con gái, và thậm chí, dám hy sinh cả mạng sống mình,
nếu Ngài muốn.
Mời Bạn: Kinh Mười Điều Răn
được tóm kết bằng câu: “Trước kính mến một Đức Chúa Trời trên hết mọi sự, sau
lại yêu người như mình ta vậy.” Hai điều răn kính mến Chúavà yêu thương người không được tách
biệt nhau. Khi dạy ta yêu mến Chúa trên hết mọi sự, Chúa không hạ giá tình yêu
nhân loại mà Ngài lại nâng nó lên tầm cao vô biên của tình yêu Thiên Chúa. Nhờ
đó, khi “yêu
Chúa trên hết mọi sự” ta
sẽ “yêu
người như Chúa yêu ta.”
Sống Lời Chúa: Mỗi khi làm một việc
thờ phượng Chúa, bạn luôn luôn kèm theo một việc bác ái phục vụ tha nhân.
Cầu
nguyện: Lạy Chúa, xin dạy con
nhận rõ cấp bậc ưu tiên trong tình yêu để con yêu Chúa hết lòng, và cũng yêu
người như Chúa yêu con.
TỪ BỎ HẾT
Từ bỏ là cách diễn tả một tình yêu. Khi yêu người
ta vui lòng từ bỏ tất cả. Ước gì chúng ta vui khi gặp viên ngọc quý là Ðức
Giêsu, dám bán tất cả để thấy mình giàu có.
Suy niệm:
Sống là chấp nhận từ bỏ.
Có những điều xấu phải từ bỏ
như tật nghiện thuốc lá, ma tuý, rượu chè, trụy lạc...
Cũng có điều tốt phải bỏ, để chọn một điều tốt hơn:
chọn nghề, chọn trường, chọn chỗ làm, chọn bậc sống...
Từ bỏ thường làm ta sợ và tiếc.
Bỏ chiếc giường êm để thức dậy đi lễ sáng.
Tắt tivi vì đến giờ đọc kinh tối gia đình.
Dành Chúa Nhật để học giáo lý và làm việc xã hội.
Nếu từ bỏ vì yêu, ta sẽ thấy nhẹ hơn, dễ hơn.
Người mẹ thức trắng đêm để đan nốt chiếc áo cho con.
Người mẹ là mẹ hơn qua những hy sinh vất vả.
Từ bỏ vì yêu chẳng bao giờ thiệt thòi, mất mát.
Cuộc sống văn minh cho ta nhiều chọn lựa.
Con người dễ chọn cái tầm thường hơn cái cao cả,
chọn khoái lạc phù du hơn hạnh phúc vững bền,
chọn lợi ích cho cá nhân tôi hơn là cho tập thể.
Xem ra con người thích cái dễ dãi hơn.
như tật nghiện thuốc lá, ma tuý, rượu chè, trụy lạc...
Cũng có điều tốt phải bỏ, để chọn một điều tốt hơn:
chọn nghề, chọn trường, chọn chỗ làm, chọn bậc sống...
Từ bỏ thường làm ta sợ và tiếc.
Bỏ chiếc giường êm để thức dậy đi lễ sáng.
Tắt tivi vì đến giờ đọc kinh tối gia đình.
Dành Chúa Nhật để học giáo lý và làm việc xã hội.
Nếu từ bỏ vì yêu, ta sẽ thấy nhẹ hơn, dễ hơn.
Người mẹ thức trắng đêm để đan nốt chiếc áo cho con.
Người mẹ là mẹ hơn qua những hy sinh vất vả.
Từ bỏ vì yêu chẳng bao giờ thiệt thòi, mất mát.
Cuộc sống văn minh cho ta nhiều chọn lựa.
Con người dễ chọn cái tầm thường hơn cái cao cả,
chọn khoái lạc phù du hơn hạnh phúc vững bền,
chọn lợi ích cho cá nhân tôi hơn là cho tập thể.
Xem ra con người thích cái dễ dãi hơn.
Kitô hữu là người đã chọn theo Ðức Giêsu.
Làm môn đệ Ngài là chọn đi vào đường hẹp,
cửa hẹp.
Ngài đòi ta đặt tất cả dưới Ngài, yêu Ngài trên mọi sự,
trên những người thân yêu, trên của cải tinh thần, vật chất,
trên mạng sống mình, trên cả hiện tại tương lai.
Những thụ tạo trên thật đáng trân trọng,
nhưng chúng chỉ có giá trị tương đối
khi sánh với Ðức Giêsu, Con Thiên Chúa làm người.
Kitô hữu là người sống từ bỏ như Ðức Giêsu.
Ngài đã bỏ vinh quang thần linh để làm người như ta,
đã sống và đã hiến mạng sống vì yêu Cha và nhân loại.
Từ bỏ là đi vào cửa hẹp cùng với Ðức Giêsu.
Ngài đòi ta đặt tất cả dưới Ngài, yêu Ngài trên mọi sự,
trên những người thân yêu, trên của cải tinh thần, vật chất,
trên mạng sống mình, trên cả hiện tại tương lai.
Những thụ tạo trên thật đáng trân trọng,
nhưng chúng chỉ có giá trị tương đối
khi sánh với Ðức Giêsu, Con Thiên Chúa làm người.
Kitô hữu là người sống từ bỏ như Ðức Giêsu.
Ngài đã bỏ vinh quang thần linh để làm người như ta,
đã sống và đã hiến mạng sống vì yêu Cha và nhân loại.
Từ bỏ là đi vào cửa hẹp cùng với Ðức Giêsu.
Phép Rửa đã cho chúng ta trở thành môn đệ
Ðức Kitô.
Nhưng để là môn đệ đích thực của Ngài,
chúng ta cần từ bỏ mãi cho đến khi nhắm mắt.
Từ bỏ phải là thái độ nội tâm cần gìn giữ luôn.
Chúng ta dễ nghiêng như tháp Pisa.
Ðiều hôm nay chưa dính bén, mai đã thấy khó gỡ.
Ðiều đã bỏ từ lâu, nay lại bất ngờ hấp dẫn.
Từ bỏ điều tôi có, và cứ có thêm mỗi ngày
thật là một cuộc chiến lâu dài và gian khổ.
Chúng ta không được nửa vời, lừng khừng, thỏa hiệp.
Tháp đã bắt đầu xây, cuộc chiến đã khai mào.
Không còn là lúc ngồi xuống mà tính toán nữa.
Cần đầu tư để xây tháp, cần dồn sức để tiến quân.
Cầu từ bỏ mọi vướng víu để tiếp tục trung tín.
Vẫn có những Kitô hữu chịu dở dang và bại trận,
vì họ không dám sống đến cùng ơn gọi làm môn đệ.
chúng ta cần từ bỏ mãi cho đến khi nhắm mắt.
Từ bỏ phải là thái độ nội tâm cần gìn giữ luôn.
Chúng ta dễ nghiêng như tháp Pisa.
Ðiều hôm nay chưa dính bén, mai đã thấy khó gỡ.
Ðiều đã bỏ từ lâu, nay lại bất ngờ hấp dẫn.
Từ bỏ điều tôi có, và cứ có thêm mỗi ngày
thật là một cuộc chiến lâu dài và gian khổ.
Chúng ta không được nửa vời, lừng khừng, thỏa hiệp.
Tháp đã bắt đầu xây, cuộc chiến đã khai mào.
Không còn là lúc ngồi xuống mà tính toán nữa.
Cần đầu tư để xây tháp, cần dồn sức để tiến quân.
Cầu từ bỏ mọi vướng víu để tiếp tục trung tín.
Vẫn có những Kitô hữu chịu dở dang và bại trận,
vì họ không dám sống đến cùng ơn gọi làm môn đệ.
Từ bỏ là cách diễn tả một tình yêu.
Khi yêu người ta vui lòng từ bỏ tất cả.
Ước gì chúng ta vui khi gặp viên ngọc quý là Ðức Giêsu,
dám bán tất cả để thấy mình giàu có.
Ước gì chúng ta vui khi gặp viên ngọc quý là Ðức Giêsu,
dám bán tất cả để thấy mình giàu có.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
sống cho Chúa thật là điều khó.
Thuộc về Chúa thật là một thách đố cho con.
Chúa đòi con cho Chúa tất cả
để chẳng có gì trong con lại không là của Chúa.
Chúa thích lấy đi những gì con cậy dựa
để con thực sự tựa nương vào một mình Chúa.
Chúa thích cắt tỉa con khỏi những cái rườm rà
để cây đời con sinh thêm hoa trái.
Chúa cương quyết chinh phục con
cho đến khi con thuộc trọn về Chúa.
Xin cho con dám ra khỏi mình,
ra khỏi những bận tâm và tính toán khôn ngoan
để sống theo những đòi hỏi bất ngờ của Chúa,
dù phải chịu mất mát và thua thiệt.
Ước gì con cảm nghiệm được rằng
trước khi con tập sống cho Chúa
và thuộc về Chúa
thì Chúa đã sống cho con
và thuộc về con từ lâu. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
4
THÁNG CHÍN
Cắm Rễ
Thâm Sâu Trong Thiên Chúa
Ý
nghĩa của việc “củng cố mạnh mẽ con người nội tâm” – là hoạt động của Chúa
Thánh Thần trong lòng chúng ta – được giải thích rõ trong thư gửi tín hữu
Eâphêsô: “Xin cho anh em được bén rễ sâu và xây dựng vững chắc trên đức ái, để
có đủ sức thấu hiểu và nhận biết tình yêu của Đức Kitô vốn vượt quá mọi sự hiểu
biết. Như vậy anh em sẽ được đầy tràn tất cả sự viên mãn của Thiên Chúa”. (Ep
3,17-19).
Điều
đó chỉ có thể được hoàn thành bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần hoạt động
trong tinh thần con người. Chỉ có Chúa Thánh Thần mới có thể khai phóng cho
chúng ta sự viên mãn của con người nội tâm như được tìm thấy nơi tấm lòng của Đức
Kitô. Chỉ có Ngài mới có thể làm cho tâm hồn chúng ta ngày càng hấp thu năng lực
từ nguồn viên mãn này. Tâm hồn chúng ta – tức con người nội tâm – không thể chỉ
dừng lại nơi những ưu tư về các thực tại chóng qua. Không, chúng ta phải “bén rễ
sâu” trong tình yêu không bao giờ hư mất.
Nguyện
xin Nữ Tì khiêm cung của Thiên Chúa cầu thay nguyện giúp cho chúng ta, để trái
tim nhân loại của chúng ta có thể “bén rễ sâu” trong Thiên Chúa, vì chỉ có Ngài
là tình yêu không bao giờ hư mất. Và tình yêu này được mạc khải nơi trái tim
nhân loại của Đấng được sinh bởi cung lòng Đức Maria.
- suy
tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm.
Lê Công Đức dịch
từ nguyên tác
LIFT
UP YOUR HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày
04 – 9
Chúa
Nhật XXIII Thường Niên
Kn 9,
13-18b; Plm 9, 10.12-17; Lc 14, 25-33.
Lời
Suy niệm: “Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị
em, và cả mạng sống mình, thì không thể làm môn đệ tôi được. Ai không vác thập
giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được. Từ bỏ hết những gì
mình có”
Chúa
Giêsu đang tiến về Giêrusalem, các môn đệ và cả đám đông đang hào hứng nghĩ đến
ngày vinh quang trần thế của Người sắp đến. Nên Chúa Giêsu muốn xóa ngay những
tư tưởng đó. Chúa đã công khai công bố những điều kiện theo Người là phải: “từ
bỏ hết những gì mình có”
Lạy
Chúa Giêsu. “Từ bỏ hết những gì mình có” là một điều rất khó khăn với chúng
con. Nhưng chúng con tin, những gì Chúa đòi hỏi chúng con thực hiện theo Lời
Chúa dạy, đều có ơn ban của Chúa kèm theo để nâng đỡ chúng con. Xin Chúa thương
ban cho chúng con đức tin mạnh, đức cậy bền và đức kính mến sốt sắng, để chúng
con bước theo Chúa cho đến trọn dời.
Mạnh
Phương
04
Tháng Chín
Người Ta Sao, Tôi Vậy!
Theo
khuynh hướng tự nhiên, có lẽ ai trong chúng ta cũng thích dựa theo đám đông để
hành động.
Chúng
ta thử quan sát trong sự đi lại trong các thành phố. Cũng như xe cộ, khách bộ
hành cũng phải tuân theo đèn xanh, đèn đỏ. Những buổi chiều khi tan sở, người
ta thường thấy các xe cộ nối đuôi nhau ở các ngã tư. Ðối lại với một chuỗi dài
của những xe cộ, người ta cũng thấy lố nhố cả một đoàn người đang chờ đèn xanh
để qua đường.
Quan
sát cho kỹ, thỉnh thoảng người ta thấy một điều rất buồn cười, nhưng cũng rất
bình thường: nếu có một người trong đám bộ hành này, vội vàng vì công việc hoặc
không đủ kiên nhẫn, đã lợi dụng lúc vắng xe để băng qua đường bất chấp đèn đỏ,
thì lúc đó, một số người trong đám đứng đợi cũng sẽ làm theo, nghĩa là cũng sẽ
băng qua đường ngay giữa lúc đèn còn đỏ... Những người đi theo này có lẽ không
nhìn thấy những dấu hiệu của luật lệ đi đường, mà chỉ làm theo người khác. Ðối
với những người này, dấu hiệu để băng qua đường này không phải là đèn xanh, mà
là gương của người khác.
Trong
cuộc sống hằng ngày cũng thế, nhiều người trong chúng ta có lẽ không hành động,
không cư xử theo những dấu hiệu, theo những chỉ dẫn của chân lý, mà có lẽ theo
gương kẻ khác nhiều hơn. Người ta làm sao, tôi làm vậy! Ðó là lý luận thông thường
của chúng ta. Như thế người vượt đèn đỏ để băng qua đường chỉ làm một hành động
cá nhân cho riêng mình, mà còn trở thành dấu hiệu để cho không biết bao nhiêu
người làm theo.
Không
ai có thể tự phụ sống cho riêng mình mà hoàn toàn không ảnh hưởng gì đến người
khác. Bằng lời nói hay hành động, tất cả mọi hành xử của chúng ta đều gây một
chấn động nào đó với người khác. Một cách nào đó, chúng ta không sống như một
hòn đảo, mà là một dấu hiệu đối với người khác.
Riêng
với những môn đệ của Ðức Kitô, thì vai trò dấu hiệu ấy càng hiển nhiên hơn. Thật
thế, Chúa Giêsu đã quả quyết: "Các con là muối đất, các con là ánh sáng thế
gian".
Ước
gì cuộc sống chứng ta của bác ái, của nhẫn nhục, của tha thứ, của quảng đại, của
phục vụ và của sự cần kiệm liêm chính mà người Kitô luôn phải thể hiện, có sức
trở thành dấu hiệu của chân lý, của Sự Sống. Và để trở thành dấu hiệu cho người
khác, người Kitô cần phải luôn hướng nhìn về Ðấng là Ðường, là Sự Thật và là Sự
Sống. Sống theo Ngài, cư xử như Ngài, người Kitô cũng sẽ lôi cuốn nhiều người đến
với Ngài.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét