19/10/2016
Thứ Tư tuần XXIX
thường niên
Thánh Phao-lô Thánh Giá, linh mục.
Lễ nhớ
* Thánh Phaolô Thánh Giá, Linh Mục (1694-1775)
Thánh Phaolô sinh tại
Uvada, miền Ligurie nước Ý ngày 03/01/1694. Ngay từ thời niên thiếu, ngài đã
đặc biệt sùng kính Chúa Giêsu chịu đóng đinh. Ngài cũng tha thiết ước mong được
chịu tử đạo nên đã gia nhập đoàn quân viễn chinh ở Venise để chống lại quân Thổ
Nhĩ Kỳ. Nhưng sau khi nhận ra ý Chúa, ngài đã giã từ vũ khí và xin vào dòng tu.
Ngài được phong chức linh mục do tay Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XIII. Sau đó,
ngài sống cuộc đời ẩn dật tại núi Argentarô và lập dòng Thương Khó năm 1720. Lời
hứa đặc biệt của dòng là chuyên lo giảng dạy cho mọi người về sự khổ nạn của
Chúa Giêsu. Ngài còn lập một dòng nữ chuyên lo cầu nguyện và sống cuộc đời
Thương Khó Chúa.
Thánh nhân được Chúa
cho làm nhiều phép lạ như nói tiên tri, thấu suốt được tâm hồn nhiều người. Hơn
nữa, ngài có tài giảng thuyết, nhất là khi giảng về những đau khổ của Chúa. Năm
1775, ngài từ trần tại Rôma, hưởng thọ 81 tuổi.
Đức Giáo Hoàng Piô IX
đã phong ngài lên bậc Chân Phước và ít lâu sau, phong thánh cho ngài năm 1867.
Bài Ðọc I: (Năm
II) Ep 3, 2-12
"Hiện
nay mầu nhiệm của Ðức Kitô đã được mạc khải, các Dân ngoại được đồng thừa tự lời
hứa".
Trích thư Thánh Phaolô Tồng đồ
gửi tín hữu Êphêxô.
Anh em thân mến, anh em đã
nghe biết Thiên Chúa ban phát ân sủng để cho tôi mưu ích cho anh em: vì nhờ ơn
mạc khải mà tôi biết được sự mầu nhiệm, như tôi vừa mới viết ra trong ít lời
trên kia. Ðọc những lời đó, anh em có thể nhận thức được sự am hiểu của tôi
trong mầu nhiệm Ðức Kitô. Mầu nhiệm đó chưa hề tỏ ra cho con cái loài người ở
các thế hệ khác được biết, nhưng hiện nay, đã được mạc khải cho các thánh Tông
đồ và các tiên tri của Người, trong Thánh Thần. Và nhờ Tin Mừng, các Dân ngoại
được nên đồng thừa tự, đồng một thân thể, và đồng thông phần lời hứa của Người
trong Chúa Giêsu Kitô.
Tôi đã được nên người phục vụ
Tin Mừng đó, do ân huệ Thiên Chúa đã ban cho tôi, bằng cách thi thố sức mạnh của
Người. Tôi là kẻ hèn nhất trong các thánh, nhưng đã được ơn này là rao giảng
cho Dân ngoại những sự giàu có không thể thấu hiểu được của Ðức Kitô, và soi
sáng cho mọi người biết cách thức phân phát mầu nhiệm đã được ẩn giấu từ muôn
thuở trong Thiên Chúa, Ðấng tạo thành vạn vật: khiến các chủ thần và quyền thần
thiên quốc đều phải nhờ Hội Thánh mới biết được sự khôn ngoan muôn hình vạn trạng
của Thiên Chúa, thể theo dự định từ trước muôn đời mà Ngài đã thi hành trong Ðức
Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Trong Người, chúng ta được cậy trông và nhờ lòng tin
vào Ngài, chúng ta mạnh dạn đến cùng Ngài.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Is 12,
2-3. 4bcd-5. 5-6
Ðáp: Các ngươi sẽ hân hoan múc nước nơi suối Ðấng Cứu
Ðộ (c. 3).
Xướng: 1) Ðây Thiên Chúa là Ðấng
Cứu Chuộc tôi, tôi sẽ tin tưởng mà hành động và không khiếp sợ: vì Chúa là sức
mạnh, là Ðấng tôi ngợi khen, Người sẽ trở nên cho tôi phần rỗi. - Ðáp.
2) Hãy ca tụng Chúa và kêu cầu
danh Người, hãy công bố cho các dân biết kỳ công của Chúa, hãy nhớ lại danh
Chúa rất cao sang. - Ðáp.
3) Hãy ca tụng, vì Chúa làm
nên những việc kỳ diệu, hãy cao rao việc đó trên khắp hoàn cầu. Hỡi người cư ngụ
tại Sion, hãy nhảy mừng ca hát, vì Ðấng cao cả là Ðấng Thánh Israel ở giữa
ngươi. - Ðáp.
Alleluia: Tv
118, 18
Alleluia, alleluia! - Lạy
Chúa, xin mở rộng tầm con mắt của con, để quan chiêm những điều kỳ diệu trong
luật Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 12,
39-48
"Người
ta đã ban cho ai nhiều, thì sẽ đòi lại kẻ ấy nhiều".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng
các môn đệ rằng: "Các con hãy hiểu biết điều này, là nếu chủ nhà biết giờ
nào kẻ trộm đến, ắt sẽ tỉnh thức, không để nó đào ngạch nhà mình. Cho nên các
con hãy sẵn sàng: vì giờ nào các con không ngờ, thì Con Người sẽ đến".
Phêrô thưa Người rằng:
"Lạy Thầy, Thầy nói dụ ngôn đó chỉ về chúng con hay về mọi người?"
Chúa phán: "Vậy con nghĩ ai là người quản lý trung tín khôn ngoan mà chủ
đã đặt coi sóc gia nhân mình, để đến giờ phân phát phần lúa thóc cho họ? Phúc
cho đầy tớ đó, khi chủ về, thấy nó đang làm như vậy. Thầy bảo thật các con, chủ
sẽ đặt người đó trông coi tất cả gia sản mình. Nhưng nếu đầy tớ ấy nghĩ trong
lòng rằng: "Chủ tôi về muộn", nên đánh đập tớ trai tớ gái, ăn uống
say sưa: chủ người đầy tớ ấy sẽ về vào ngày nó không ngờ, vào giờ nó không biết,
chủ sẽ loại trừ nó, và bắt nó chung số phận với những kẻ bất trung. Nhưng đầy tớ
nào đã biết ý chủ mình mà không chuẩn bị sẵn sàng, và không làm theo ý chủ, thì
sẽ bị đòn nhiều. Còn đầy tớ nào không biết ý chủ mình mà làm những sự đáng trừng
phạt, thì sẽ bị đòn ít hơn. Vì người ta đã ban cho ai nhiều, thì sẽ đòi lại kẻ ấy
nhiều, và đã giao phó cho ai nhiều, thì sẽ đòi kẻ ấy nhiều hơn".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Tỉnh Thức Trong Phục Vụ
Danh họa Ý Leonard de Vinci
có kể một dụ ngôn: Giữa một ngôi vườn xinh tươi, có một cây sồi cao, chung
quanh là một rừng cây. Cây sồi ngày một lên cao ngạo nghễ. Một hôm, từ trên
nhìn xuống, nó ra lệnh cho người làm vườn đốn những cây chung quanh, vì chúng
làm vướng víu, quấy rầy và che bóng của nó. Và như thế, cây sồi loại hết mọi
cây cỏ để chỉ còn một mình bá chủ ngôi vườn. Thế nhưng một ngày kia, một trận
cuồng phong nổi lên, không còn cây cối chung quanh chống đỡ cho bớt gió, cây sồi
ngả rạp giữa vườn và chết một cách thê thảm.
Số phận của những người chà đạp
người khác để tiến thân cũng giống như cây sồi trong dụ ngôn trên đây. Người ta
thường nói: "Trèo cao, té nặng", bởi vì để lên cao, họ đã đạp đổ tất
cả người khác, đến độ khi trượt chân té ngã, họ không còn ai nâng đỡ họ.
Trong Tin Mừng, Chúa Giêsu đã
nói lên quan niệm của Ngài về quyền bính. Các Tông đồ không ngừng tranh luận với
nhau về quyền bính; cái giấc mộng công hầu khanh tướng luôn ám ảnh các ông, ai
trong các ông cũng muốn ngồi chỗ cao trong Vương Quốc mà họ tưởng Chúa Giêsu đã
đến để thiết lập. Nhưng đối lại với tham vọng ấy, Chúa Giêsu cho thấy rằng quyền
bính là để phục vụ; trong Nước Ngài, kẻ càng được trao nhiều quyền hành, càng
phải là người phục vụ, mà phục vụ theo đúng nghĩa là hoàn toàn quên mình để sống
cho người khác.
Do phép Rửa, người Kitô hữu
chúng ta được tham dự vào chức vị vương giả của Chúa Kitô. Chúa Kitô là Vua,
nhưng là Vua của phục vụ. Cung cách vương giả của Ngài là quì trước các môn đệ
và rửa chân cho họ. Do đó, tham dự chức vụ vương giả của Chúa Kitô, chúng ta
cũng được trao cho một thứ quyền bính, và quyền bính ấy tương đương với phục vụ.
Người ta không thể là Kitô hữu, không thể là môn đệ Chúa Kitô mà lại khước từ
phục vụ.
Lời Chúa hôm nay mời gọi
chúng ta tỉnh thức. Sự tỉnh thức đích thực của người Kitô hữu chính là phục vụ.
Càng phục vụ, họ càng nhận ra được Nước Chúa đang đến; càng phục vụ, họ càng
nên giống Chúa trong cung cách vương giả của Ngài. Ai lãnh nhận nhiều sẽ bị đòi
nhiều. Ân sủng dồi dào mà chúng ta lãnh nhận qua Bí Tích Rửa Tội là để san sẻ;
tình yêu chúng ta cảm nhận được trong đức tin là để trao ban. Sự thức tỉnh đích
thực của người Kitô hữu chính là ý thức rằng sống là để yêu thương và phục vụ,
và đó cũng là hạnh phúc đích thực, vì "cho thì có phúc hơn là nhận".
Ước gì chúng ta luôn thức tỉnh trong hướng đi ấy.
Veritas Asia
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Tư Tuần 29 TN2, Năm Chẵn
Bài đọc: Eph 3:2-12; Lk 12:39-48.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Rao giảng Tin Mừng là một đặc quyền.
Hiểu biết được
Mầu Nhiệm Cứu Độ của Thiên Chúa là một đặc ân vì không phải ai cũng có thể biết
và hiểu được. Một khi đã hiểu biết Mầu Nhiệm Cứu Độ, con người nắm được chìa
khóa vào Nước Trời. Nhưng nhiệm vụ của những người đã hiểu biết là phải rao giảng
Mầu Nhiệm Cứu Độ này cho người khác. Trong Bài đọc I, Thánh Phaolô coi đó như một
đặc quyền được rao giảng Mầu Nhiệm Cứu Độ. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu khen thưởng
những người biết trung thành phân phối Mầu Nhiệm Cứu Độ cho người khác; đồng thời,
Chúa cũng cảnh cáo những người bất trung, lười biếng không chịu phân phối Mầu
Nhiệm Cứu Độ cho mọi người.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Mầu nhiệm Cứu Độ của Thiên Chúa được thực
hiện và mặc khải qua Đức Kitô.
1.1/ Đức Kitô mặc
khải Mầu nhiệm Cứu Độ của Thiên Chúa cho các Tông Đồ và Thánh Phaolô: Trong 4 Phúc Âm, chính Chúa Giêsu mặc khải
cho các Tông Đồ về Mầu Nhiệm Cứu Độ của Thiên Chúa. Tuy Phaolô không thuộc Nhóm
Mười Hai và không được mặc khải bởi Chúa Giêsu khi Ngài còn mang thân xác con
người, nhưng Phaolô cũng được mặc khải về Mầu Nhiệm này bởi chính Đức Kitô Phục
Sinh. Mầu nhiệm đó là: trong Đức Kitô Giêsu và nhờ Tin Mừng, các Dân Ngoại được
cùng thừa kế gia nghiệp với người Do-Thái, cùng làm thành một thân thể và cùng
chia sẻ điều Thiên Chúa hứa.
Hiểu được Mầu
Nhiệm Cứu Độ là một đặc ân Chúa ban, vì không phải ai cũng có thể hiểu được Mầu
Nhiệm đó, như lời Thánh Phaolô nói: “Mầu nhiệm này, Thiên Chúa đã không cho những
người thuộc các thế hệ trước được biết, nhưng nay Người đã dùng Thánh Thần mà mặc
khải cho các thánh Tông Đồ và ngôn sứ của Người.”
1.2/ Đức Kitô đã
trao phó cho Phaolô nhiệm vụ phân phát ân sủng qua việc rao giảng Tin Mừng: Đức Kitô Phục Sinh không chỉ mặc khải Mầu
Nhiệm Cứu Độ cho Phaolô mà Ngài còn sai ông đi rao giảng Mầu Nhiệm Cứu Độ này
cho các Dân Ngọai: “Tôi đã trở nên người phục vụ Tin Mừng đó, nhờ ân sủng đặc
biệt Thiên Chúa ban cho tôi, khi Người thi thố quyền năng của Người.”
Thánh Phaolô ý
thức được sở dĩ Ngài được mặc khải và được sai đi để rao giảng Mầu Nhiệm Cứu Độ,
không phải vì công đức của Ngài, nhưng hòan tòan vì lòng thương xót của Thiên
Chúa. Ngài thú nhận: “Tôi là kẻ rốt hết trong toàn thể dân thánh, thế mà Thiên
Chúa đã ban cho tôi ân sủng này là loan báo cho các dân ngoại Tin Mừng về sự
phong phú khôn lường của Đức Kitô, và soi sáng cho mọi người được thấy đâu là mầu
nhiệm Thiên Chúa đã an bài.”
Một câu truyện
có thể dùng để nói lên cảm nghĩ của Thánh Phaolô khi được Thiên Chúa sai đi rao
giảng Mầu Nhiệm Cứu Độ: Nhà điều khiển hòa tấu lừng danh Toscanini nói với anh
nhạc công đang sửa sọan hòa tấu nhạc Beethoven: Tôi chẳng là gì, anh cũng chẳng
là gì, nhưng chúng ta hãy cố gắng để cho những giòng nhạc của thiên tài
Beethoven được trào dâng.
2/ Phúc Âm: Ông chủ trao cho người quản gia sản nghiệp
và ban quyền phân phát.
2.1/ Ông chủ trao
cơ nghiệp và quyền phân phát cho người quản gia: Người quản gia là người được ông chủ chọn; tuy ông có quyền
trên các đầy tớ khác nhưng đối với chủ, ông vẫn là một đầy tớ. Nhiệm vụ của quản
gia là coi sóc mọi sự trong nhà và mọi đầy tớ khi chủ vắng mặt; trong đó có nhiệm
vụ cung cấp của ăn cho các gia nhân đúng giờ đúng lúc. Nhưng ai là quản gia
trong câu truyện Chúa muốn nói ở đây?
Bấy giờ ông
Phêrô hỏi: "Lạy Chúa, Chúa nói dụ ngôn này cho chúng con hay cho tất cả mọi
người?" Chúa đáp: “Vậy thì ai là người quản gia trung tín và khôn ngoan,
mà ông chủ sẽ đặt lên coi sóc kẻ ăn người ở, để cấp phát phần thóc gạo đúng giờ
đúng lúc?” Câu trả lời của Chúa Giêsu muốn ám chỉ các Tông Đồ. Các ông là những
người được Chúa Giêsu tin tưởng, huấn luyện, và sai đi để rao giảng Tin Mừng.
Các ông phải chịu trách nhiệm với Chúa về những người mà Chúa sai các ông đến để
rao giảng. Nhưng câu trả lời cũng có thể mở rộng đến các Kitô hữu.
2.2/ Thái độ của
người quản gia: Ông có thể
rơi vào một trong 2 thái độ:
(1) Thái độ
trung thành và phần thưởng: Người quản gia trung thành là người biết chu tòan
nhiệm vụ của mình khi chủ có mặt cũng như lúc chủ vắng mặt. Vì thái độ luôn
trung thành nên không lạ khi chủ về mà thấy đầy tớ ấy đang làm như vậy. Chúa
Giêsu khen: “Thật là phúc cho anh ta. Thầy bảo thật anh em, ông sẽ đặt anh ta
lên coi sóc tất cả tài sản của mình.” Ai trung thành trong việc nhỏ thì cũng sẽ
trung thành trong việc lớn.
(2) Thái độ bất
trung và hình phạt: Nhưng nếu người đầy tớ ấy nghĩ bụng: "Chủ ta còn lâu mới
về," và bắt đầu đánh đập tôi trai tớ gái và chè chén say sưa, chủ của tên
đầy tớ ấy sẽ đến vào ngày hắn không ngờ, vào giờ hắn không biết, và ông sẽ loại
hắn ra, bắt phải chung số phận với những tên thất tín.
Và Chúa Giêsu
tuyên án: Đầy tớ nào đã biết ý chủ mà không chuẩn bị sẵn sàng, hoặc không làm
theo ý chủ, thì sẽ bị đòn nhiều. Còn kẻ không biết ý chủ mà làm những chuyện
đáng phạt, thì sẽ bị đòn ít. Hễ ai đã được cho nhiều thì sẽ bị đòi nhiều, và ai
được giao phó nhiều thì sẽ bị đòi hỏi nhiều hơn.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Rao giảng Tin
Mừng là một đặc quyền chứ không phải chỉ là bổn phận. Thiên Chúa đã ban cho
chúng ta thấu hiểu Mầu Nhiệm Cứu Độ và Ngài sai chúng ta đi phân phát ân sủng bằng
việc rao giảng Tin Mừng.
- Không phải
công ơn của chúng ta cũng chẳng phải sự xứng đáng của người nghe, nhưng hòan
tòan là do tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa mà chúng ta thấu hiểu được
Mầu Nhiệm Cứu Độ được thực hiện qua Đức Kitô.
- Vì đã được
trao phó kho tàng Tin Mừng, nhiệm vụ của mỗi người được trao là phải trao ban
Tin Mừng lại cho những người khác thì sẽ được Thiên Chúa thưởng công xứng đáng.
Nhưng nếu chúng ta xao lãng bổn phận để người khác phải hư đi, chúng ta sẽ lãnh
nhận hình phạt từ Thiên Chúa.
Linh mục
Anthony Đinh Minh Tiên, OP
19/10/16 THỨ TƯ TUẦN 29
TN
Th. Phao-lô Thánh giá, linh mục
Lc 12,39-48
Th. Phao-lô Thánh giá, linh mục
Lc 12,39-48
Suy niệm: Tại Paralympic Rio 2016, thế giới lại có dịp
sững sờ ngưỡng mộ những “dị nhân” thi đấu bất chấp thân phận khuyết tật của họ:
một Ibrahim Hamato (Ai Cập) mất cả hai tay vẫn chơi bóng bàn, miệng ngậm vợt,
tung bóng bằng chân; hay đô cử Lê Văn Công, đôi chân bị liệt không ngăn nổi anh
đoạt huy chương vàng và phá kỷ lục thế giới môn cử tạ. Không chỉ có thế, biết
bao nhiêu anh chị em khuyết tật ở khắp nơi trên thế giới, đã không đầu hàng số
phận: dù hoàn cảnh khó khăn, khả năng ít ỏi, họ đã nỗ lực vươn lên, sống vui,
làm nhiều điều hữu ích cho đời. Có ít mà họ đã làm ra được nhiều, hơn cả những
người có nhiều hơn họ. Có hay không có tấm huy chương, họ vẫn là những anh hùng khuyết tật, những tấm gương sáng cho chúng ta soi chung.
Lời Chúa dạy chúng ta: Chúng ta chỉ là người quản lý những khả năng mà Chúa ban
cho. Ngài đòi hỏi chúng ta phát triển những gì Ngài đã ban: “được giao phó nhiều thì cũng
được đòi hỏi nhiều hơn.”
Mời Bạn: Đôi
khi chúng ta phàn nàn về những thiếu thốn của mình. Nhưng hãy nhìn lại những gì
mình có và tự hỏi chúng ta đã phát huy hết các tiềm năng có sẵn của mình chưa?
Hay lại phung phí, làm hư hỏng những khả năng ấy? Phá hại môi trường, nhậu
nhẹt, cờ bạc, ma tuý và bao tệ nạn khác đều là không quản lý tốt ân huệ của
Chúa.
Sống Lời Chúa: Quyết
tâm sửa chữa khuyết điểm mình mắc phải.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, con xin tạ ơn Chúa vì biết bao ân huệ Chúa ban xuống cho
con. Xin cho con biết phát triển những khả năng Chúa ban và dùng chúng để phục
vụ tha nhân.
Trung
tín, khôn ngoan
Kitô hữu là những người đã biết ý Chúa, mà không làm theo, sẽ
bị phạt nặng hơn những người không biết.
Suy niệm:
Kẻ trộm xưa cũng như nay
đều đến mà không báo trước,
bất ngờ khoét vách nhà
khi gia chủ còn ngủ say.
Đức Giêsu, qua một dụ
ngôn, đã dám so sánh mình với kẻ trộm,
chỉ vì Ngài giống anh ta
ở nét bất ngờ (cc. 39-40).
“Anh em hãy sẵn sàng, vì
chính giờ anh em không ngờ, Con Người sẽ đến.”
Ông chủ có thể trở về khi
trời gần sáng, lúc canh ba.
Sẵn sàng là mở cửa ngay
cho chủ, vì vẫn còn thức, còn chờ, còn đèn sáng.
Thiếu sẵn sàng là ngủ mê,
không nghe được tiếng gõ cửa.
Ngủ mê làm chủ nhà không
biết kẻ trộm đang khoét vách.
Thiếu tỉnh thức để đón
Chúa Giêsu, cũng đem lại hậu quả khôn lường.
Tỉnh thức sẵn sàng là
thái độ cần có của chủ nhà, của người lãnh đạo.
Khi Phêrô hỏi Đức Giêsu
xem dụ ngôn trên áp dụng cho ai (c. 41),
cho dân chúng hay cho
nhóm Mười Hai là những người lãnh đạo,
Ngài đã kể cho họ một dụ
ngôn khác về người quản gia.
Vì ông chủ đi vắng nên
anh được ông đặt lên coi sóc gia nhân trong nhà,
tuy anh vẫn là một đầy tớ
giữa những đầy tớ khác (c. 43).
Chính sự vắng nhà của ông
chủ đã làm lộ ra thực chất của người quản gia.
Người quản gia trung tín
sẽ chăm chỉ làm tròn bổn phận được giao.
Việc quan trọng là cấp
phát phần thóc gạo đúng giờ đúng lúc (c. 42).
Anh này chẳng để ý gì đến
chuyện khi nào chủ mình về.
Khôn ngoan đối với anh là
làm theo đúng ý của chủ.
Anh chỉ tập trung vào việc
phục vụ những người được chủ giao phó,
và phục vụ đúng giờ.
Hẳn anh sẽ được ông chủ
khen ngợi và đặt ở một vị trí cao hơn,
nếu bất ngờ ông về mà
thấy anh đang phục vụ chăm chỉ.
Nhưng quản gia lại có thể
là một người thiếu trách nhiệm.
Thời gian ông chủ vắng
nhà cũng là thời gian anh ta có quyền.
Anh đã tận dụng quyền
hành có trong tay để áp chế các đầy tớ khác,
và sống một cuộc sống
buông thả, vô độ.
“Anh bắt đầu đánh đập các
tôi trai tớ gái, và chè chén say sưa” (c. 45).
Lý do hư hỏng của anh này
rất đơn giản.
Anh nghĩ “chủ ta còn lâu
mới về”, nên ta cứ thoải mái ăn chơi.
Anh chỉ cố làm sao khi
chủ về, chủ thấy anh đang làm việc tử tế.
Tiếc thay chủ về sớm hơn
anh nghĩ,
“vào ngày anh không ngờ,
vào giờ anh không biết” (c. 46).
Sự thật ê chề được phơi
bày không thể chối cãi.
Những đầy tớ bị anh hành
hạ và bỏ đói, những phung phí tài sản,
là bằng chứng cho sự thất
tín của anh.
Kitô hữu là những người
đã biết ý Chúa, mà không làm theo,
sẽ bị phạt nặng hơn những
người không biết.
Những nhà lãnh đạo được
trao quyền hành và trách nhiệm
cũng phải trả lời trước
mặt Chúa về cách phục vụ của mình.
Chúng ta đều sợ khi nghe
những lời này của Đức Giêsu:
“Ai được cho nhiều, sẽ bị
đòi nhiều.
Ai được giao phó nhiều sẽ
bị đòi hỏi nhiều hơn.”
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xưa Chúa đã sai các môn đệ ra khơi thả lưới,
nay Chúa cũng sai chúng con đi vào cuộc đời.
Chúng con phải đối diện
với bao thách đố của cuộc sống,
của công ăn việc làm, của gánh nặng gia đình,
của nghề nghiệp chuyên môn.
Xin đừng để chúng con sa vào cạm bẫy
của vật chất và quyền lực,
nhưng cho chúng con
giữ nguyên lý tưởng thuở ban đầu,
lý tưởng phục vụ quê hương và Hội Thánh.
Lạy Chúa Giêsu,
xin dạy chúng con sống thực tế,
nhưng không thực dụng ;
biết xoay xở nhưng không mưu mô ;
lo cho tương lai cá nhân,
nhưng không quên bao người bất hạnh cần nâng đỡ.
Giữa cơn lốc của trách nhiệm và công việc,
giữa những xâu xé trước bao lựa chọn,
xin cho chúng con biết tìm những phút giây trầm lắng,
để múc lấy ánh sáng và sức mạnh,
để mình được thật là mình trước mặt Chúa.
Nhờ lời Đức Trinh Nữ Maria chuyển cầu,
xin cho chúng con thật sự trở nên chứng nhân,
làm tất cả để Thiên Chúa được tôn vinh,
và phẩm giá con người được tôn trọng. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu,
SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
19 THÁNG MƯỜI
Chứng Từ Của
Tình Yêu Huynh Đệ
Sau khi ghi nhận
những công việc xuất phát từ tình yêu lớn lao dành cho Chúa Kitô trong trái tim
của người phụ nữ này – một tôi tớ nhỏ bé của Thiên Chúa – tôi liên tưởng đến
giáo huấn mà Tông Đồ Phao-lô đã viết cho các tín hữu Philipphê: “Nếu quả thật sự
liên kết với Đức Kitô đem lại cho chúng ta một niềm an ủi, nếu tình bác ái
khích lệ chúng ta, nếu chúng ta được hiệp thông trong Thần Khí, nếu chúng ta sống
thân tình và biết cảm thương nhau, thì xin anh em hãy làm cho niềm vui của tôi
được trọn vẹn, là hãy có cùng một cảm nghĩ, cùng một lòng mến, cùng một tâm hồn,
cùng một ý hướng như nhau” (Pl 2,1-2).
Phải chăng những
lời này của vị Tông Đồ Dân Ngoại chỉ dành cho giáo đoàn ở Philipphê? Hay chỉ gởi
cho giáo hội ở Calcutta? Không! Đó là những lời được gởi cho toàn thể Giáo Hội ở
mọi nơi trên thế giới, gởi cho mọi người Kitô hữu! Có thể nói, đó là những lời
được gởi cho mọi tín đồ thuộc mọi niềm tin tôn giáo, cho tất cả những con người
thiện chí. Đó là một chứng từ của tình yêu huynh đệ: “Xin anh em hãy làm cho niềm
vui của tôi được nên trọn vẹn, là hãy có cùng một cảm nghĩ, cùng một lòng mến,
cùng một tâm hồn, cùng một ý hướng như nhau. Đừng làm gì vì ganh tị hay vì hư
danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình” (Pl 2,2-3).
Đừng! Chúng ta
đừng bao giờ hành động theo hướng nuôi dưỡng hận thù, bất công, hoặc gây ra đau
khổ! Đừng bao giờ hành động để chạy đua vũ trang! Đừng bao giờ hành động theo
hướng áp bức các dân tộc yếu kém! Đừng bao giờ hành động theo những dạng trá
hình của chủ nghĩa đế quốc và những ý thức hệ bất nhân chà đạp tinh thần người
ta.
Cuối cùng, hãy
cho phép những người thấp cổ bé miệng được lên tiếng nói! Hãy cho phép những
người nghèo của Mẹ Têrêsa – cũng như mọi người nghèo trên thế giới – được lên
tiếng nói! Bởi tiếng nói của họ chính là tiếng nói của Đức Kitô! Amen.
- suy tư 366
ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công
Đức dịch từ
nguyên tác
LIFT UP YOUR
HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 19 -10
Thánh Gioan
Brêbeuf, linh mục
Thánh Isaac
Jogues, linh mục và các bạn tử đạo
Ep 3,2-12;
Lc 12,39-48.
Lời suy niệm “Bấy giờ ông Phêrô hỏi: Lạy Chúa, Chúa nói dụ ngôn này cho chúng con
hay cho tất cả mọi người? Chúa đáp: Vậy thì ai là người quản gia trung tin,
khôn ngoan mà ông chủ sẽ đặt lên coi sóc kẻ ăn người ở, để cấp phát phần thóc gạo
đúng giờ đúng lúc?”
Đời sống của
người Kitô hữu là một hành trình tiến về nhà Cha, để được gặp Ngài. Chúa Giêsu
luôn nhắc nhở mỗi người trong chúng ta phải luôn tỉnh thức, chu toàn bổn phận của
mình hằng ngày bằng đức tính công bằng và bác ái đối với hết mọi người, đặc biệt
quan tâm đến người nghèo và người bị xã hội bỏ rơi.
Lạy Chúa Giêsu.
Xin cho mỗi người trong chúng con được gặp Chúa lúc chúng con đang chu toàn bổn
phận; khi chúng con đang sống hòa thuận với hết mọi người; khi chúng con đang
được sự bình an với Chúa; để chúng con được hưởng hạnh phúc với Chúa muôn đời.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 19-10
Thánh PHAOLÔ
THÁNH GIÁ
(1694 -
1775)
Ít có biến cố đẹp
mắt để ghi lại cuộc đời của Paul Prannes Daniel. Thường trọn đời Ngài dành cho
cầu nguyện, sám hối và tôn sùng cụôc tử nạn của Chúa. Ngài là dụng cụ phổ biến
lòng tôn sùng này với dòng tu Ngài thiết lập, dòng Thương khó. Ngài sinh tại miền
Bắc Ý năm 1694 từ một gia đình trung lưu đạo đức. Dầu cuộc sống Ngài cho tới tuổi15
đã diễn ra như cuộc sống bình thường của người Kitô hữu, nhưng vào thời này,
người đã trải qua một loạt trở lại khiến Ngài dâng trọn đời cho việc cầu nguyện
hãm mình: Ngài quỳ gối lâu giờ, thực hành những việc phạt xác như ngủ trên đất
và ăn chay liên tục, nhờ đó ảnh hưởng đối với những người đương thời, khiến nhiều
người đi tu dòng hay là một linh mục triều.
Vào tuổi 20, việc
gia nhập đạo quân Venise để bảo vệ Kitô giáo chống lại người Hồi cho thấy sau một
thời lý tưởng Ngài đã khác. Nhưng Ngài đã trở lại đời sống cầu nguyện hãm mình.
Sáu năm qua đi
và chỉ đến lúc 26 tuổi, Ngài mới thấy rõ hơn chuỗi ngày tương lai của mình
trong một loạt các thị kiến. Ngài hiểu rằng: mình phải lập một dòng tu đặc biệt
tôn sùng cuộc khổ nạn. Trước hết Ngài bắt đầu nếp sống mà tu sĩ dòng Thương khó
sẽ phải sống, trong khi phát ra một qui luật gửi về Roma xin phê chuẩn. Sau một
ít khó khăn, luật này đã được chuẩn nhận. Ngài và em mình là Gioan Tẩy giả đã lập
dòng ở Mote Argentaro và nhận những tập sinh đầu tiên. Đức Bênêdictô XIV đã buộc
giảm nhẹ đôi chút sự khắc khổ trong đời sống tu trì và đi rao giảng trong các
miền lân cận.
Phaolô là một
nhà truyền giáo nhiệt thành rao giảng cuộc Thương Khó khắp nơi và gây được nhiều
cuộc trở lại. Những năm cuối đời, Ngài đã lập dòng các nữ tu thương khó. Bây giờ
Ngài được dân chúng coi như một vị thánh và mỗi khi đi qua đâu, Ngài phải chịu
đựng đám đông những người lo kiếm miếng vải áo Ngài làm thánh tích, họ chạm tới
Ngài hay xin Ngài chữa bệnh hoặc một ân huệ nào khác. Ngài qua đời ngày 18
tháng 10 năm 1775 vào tuổi 80 và được tuyên thánh khoảng gần thế kỷ sau năm
1865.
Điều lạ lùng là
vị thánh người Ý không hề rời xa quê hương mình sinh trưởng lại rất quan tâm tới
việc trở lại của nước Anh mà Ngài biết đến rất ít. Ngài nói: "Nước Anh
luôn ở trứơc mặt tôi và nếu nước Anh trở lại công giáo thì ích lợi cho Giáo hội
vô kể". Dầu bản thân Ngài đã không thể đi bước tích cực nào để cải tiến vấn
đề, cũng cần ghi lại rằng 65 năm sau khi Ngài qua đời,một tu sĩ, dòng Thương
Khó, anh Dominicô Barbeni đã tới nước Anh và trở thành dụng cụ đưa về hiệp
thông với Giáo hội Jolm Hery Newman và nhiều người khác nữa, như thế là góp phần
vào việc phục hồi đạo công giáo tại xứ sở này.
*******************
Ngày 19-10
Ngày 19-10
CÁC THÁNH TỬ
ĐẠO MIỀN BẮC MỸ
(Thế kỷ
XVII)
Rênê (+1642)
Jean Lalande Và Isaac Jogues (+1644) Antoine Daniel (+1648) Jean De Brébeuf Và
Gabriel Lalemant (+1649) Charles Garnier Và Noel Chabanel (+1649)
Ngay từ năm
1608, hai tu sĩ dòng Tên đã được gởi tới miền Nova Scotia, nhưng công cuộc sớm
bị ảnh hưởng những cuộc chiến tranh với nước Anh và mãi tới năm 1632 khi Canada
đi về với Pháp, trung tâm truyền giáo mới được các tu sĩ dòn Tên thiết lập thường
xuyên ở Rucbee.
Năm 1633, bề
trên Paul le Jeune kết hợp với Jean de Brébeuf, một nhà quí phái sinh tại
Normandie, và Antoine Daniel với Ennemond Massé. Những khó khăn của các nhà
thám hiểm này được biểu trưng bằng những kinh nghiệm của Le Jeune khi Ngài theo
nhóm Algonquin đi săn bắn: những cố gắng rao giảng của Ngài bị phá hoại bởi những
tiếng reo hò, chế giễu, bởi vì người da đỏ dạy người nói thổ ngữ để châm chọc
đã dùng những chữ độc ác nhất đặt ngang với từ ngữ chỉ đức tin Kitô giáo. Le
Jeune cũng bắt dầu cảm thấy bốn khía cạnh tệ hại nhất trong đời sống dân da đỏ
là: lạnh, nóng, khói và chó. Trong căn lều chất đầy đàn ông, đàn bà và chó ngủ
chung quanh đống lửa đến khi thường bị mù lòa. Một sự kiện khiến Le Jeune nhận
định: "Những lương dân bất hạnh này trải qua cuộc sống đời tạm trong khói
mờ và chôn vùi cuộc sống đời đời trong lửa cháy".
Le Jeune quyết
định rằng không có cuộc truyền giáo nào hy vọng thành công được nếu không hướng
về những bộ lạc đã định cư. Dân Huron sống ở miền phía đông bờ biển Huron đã được
chọn làm trung tâm truyền giáo. Năm 1634, Brébeuf Daniel và Davort đã thành
công trong việc hoà đồng với dân tộc gồm hai chục ngàn dân sống trong ba mươi
làng, mỗi làng có khoảng bảy trăm dân này.
Các nhà truyền
giáo gặp được những người da đỏ lịch sự nhưng xa cách trẻ em và những người hấp
hối hầu như không thể trở lại đạo được, vì họ chỉ coi đó là tôn giáo của người
da trắng. Họ hỏi: "Các ông có săn bắn trên thiên đàng, đánh nhau hay mừng
lễ không ?". Được trả lời là không. Họ liền đáp lời: "Vậy chúng tôi
không tới đó đâu. Nhàn cư vi bất thiện. Các nhà truyền giáo nhận thấy điều chống
lại mình chính là cả nếp sống với những cưới hỏi phải tranh hùng, những hành hạ
và những cuộc ăn thịt người. Các Ngài quyết định chính mình tập trung dân lại,
không coi họ là đồng minh. Nhưng khích lệ và còn hy vọng những cuộc hôn nhân với
dân cư gốc Pháp nưã.
Sự sáng suốt của
quyết định này đã được củng cố với những kinh nghiệm thu lượm được trong cuộc
thí nghiệm năm 1638, trùng hợp với việc đến góp mặt của năm nhà truyền giáo
khác nữa trong đó có: Isaac-Joques, một học giả và nhà lực sĩ có thể qua mặt cả
người da đỏ và Charles Garnier. Dân da đỏ bắt đầu thù nghịch với các tu sĩ dòng
Tên như là những phù thủy nguyền rủa dân tộc họ, khi ấy bóng áo dài của các
Ngài in trên nền tuyết trắng trên đường đi tới làng nào, trẻ con khóc thét tìm
mẹ như là cơn đói và dịch tễ đã đến. Đó là lúc Jean de Brebeuf thấy thánh giá
vĩ đại của mình tiến đến từ vùng đất dân Iroquois cư ngụ, kẻ thù của dân Huron.
Khi được hỏi thánh giá ấy giống cái gì, Ngài trả lời: "Nó lớn đủ để đóng
đinh tất cả chúng ta".
Dân Iroquois
nuôi dưỡng sự tức giận từ khi bị người Pháp đánh bại 30 năm về trước và mức độ
tấn công của họ ngày càng lớn thêm. Vào tháng tám năm 1624 Jognes, Goupil (một
giáo dân cộng tác vào việc truyền giáo) và một nhóm người da đỏ từ Quebu trở về
với thực phẩm cần thiết cho nhóm truyền giáo và những người dân da đỏ đói khổ.
Họ bị dân Iroquois tấn công và bắt giữ. Dân này gặm tay họ như chó dại, rút
móng tay và bắt họ chạy giữa hai hàng người cho người ta đánh đập mỗi khi qua
làng nào. Sự tinh chế hay là "Mơn trớn" (như người da đỏ nói) của cực
hình họ chịu còn nhiều hơn nữa: than nóng, dao mác, cắt xẻo để diễu cợt và vui
chơi. Cái chết trong bầu khí quỉ quái hơn là chỉ để vui chơi, thường bằng cách
thiêu sống và rồi sau đó thân thể được phân phát làm của ăn.
Goupil tồi tệ
nhất. Ngài bị giết ngày 29 tháng 9 năm 1642 bằng một nhát búa vì dám rửa tội một
em bé nhưng Jognes bị giam giữ nhiều tuần với bản án tử hình vĩnh viễn. Cuối
năm 1643, với sự trợ giúp của vài nhà buôn Hòa Lan, Ngài đã trốn thoát được về
Pháp bằng tàu, nhưng lại trở lại truyền giáo năm 1644 và được chính quyền miền
tân Pháp gửi tới dân Iroquois như một sứ giả trong một thời gian hưu chiến ngắn.
Được khích lệ bởi
những kết quả của cuộc viếng thăm này, Jognes đã trở lại với một giáo hữu trợ
tá khác là Jean Lalande. Nhưng thành công của họ không sống lâu: một vụ mất
mùa, một cái hộp khả nghi của Jognes mà người da đỏ tin là có chứa một tai họa
và cả hai bị bắt, bị hành hạ, bị giết ngày 18 tháng 10 năm 1644.
Hầu hết dân
Huron đã bắt đầu đón nhận đức tin Kitô giáo, tinh thần của họ như một dân bị khổ
cực với những cuộc tấn công liên lỉ của dân Iroquois. Cuộc tử đạo kế tiếp xảy
ra vào ngày 4 tháng 7 năm 1648 khi pháo đài chính xứ thánh Giuse, một làng 26
ngàn người bị dân Iroquois phá hủy. Antoin Daniel thành công trong 4 năm liên
tiếp vừa mới cử hành thánh lễ xong, khi thấy nhóm người bảo vệ bị vây khốn,
Ngài giục họ trốn đi và nói: "Tôi sẽ ở lại đây, chúng ta sẽ gặp lại nhau
trên thiên đàng". Mặc nguyên áo, Ngài tiến ra gặp người Iroquois. Họ ngỡ
ngàng nhìn lại một chút, rồi bắn một loạt tên. Sau đó bắt nạn nhân của mình, tắm
mặt họ vào máu Ngài và ném xác Ngài vào ngôi nhà thờ đang bốc cháy.
Mùa Xuân tiếp
sau, người Iroquois tăng gấp đôi nỗ lực nhằm hại người Huron và trong một cuộc
tấn công của 1000 người vào làng thánh Lu-y, họ bắt thánh Jean de Brébeuf và
Gabriel Lement, thánh Jean de Brebeuf bị hành hạ nghiêm khắc đến nỗi đã chết
sau 4 tiếng đồng hồ. Một chiếc vòng bằng vàng những cái rìu nóng đỏ quấn quanh
cổ Ngài và Ngài đã được một người Huron phản đạo rửa tội trong nước sôi. Nằm chết,
đám đông uống máu Ngài và thủ lãnh họ được đặc ân ăn trái tim Ngài.
Lelemant ốm yếu
đã sống sót được 17 giờ bị hành hạ trước khi tắt hơi ngày 17 tháng 3 năm 1649.
Hai vị tử đạo
khác bị những người Thổ của Giáo hội người da đỏ kêu gào đòi mạng khi sự khủng
khiếp trải rộng tới dân tộc Tobacco sống ở những thung lũng núi Blue. Trong cuộc
tấn công vào xứ thánh Gioan tháng 12 năm 1644, Charles Garnier đã bị giết khi
Ngài cố gắng giải tội cho một người da đỏ, đang hấp hối. Là con của một người
dân thành Paris, Ngài đã sống bằng rễ cây và trái sồi và đi bộ 30 hay 40 dặm dứơi
sức nóng của mùa hạ qua miền đất thù hận để rửa tội một người da dỏ đang hấp hối.
Bạn Ngài, Noel Chabanel ngán các điều kiện của việc truyền giáo đến nỗi tự buộc
mình bằng lời khấn sẽ ở lại đó cho tới chết, đã bị giết chết bởi một người
Huron phản đạo vì tin rằng: tôn giáo mới chịu trách nhiệm về số phận đau khổ của
quê hương anh ta.
Cuộc truyền
giáo cho người Huron như thế thật gian khổ chỉ thấy chán nản thất vọng và phân
tán. Tuy vậy ảnh hưởng của cuộc truyền giáo đã thay đổi nếp sống những người da
đỏ, dầu họ còn hoang dại nhưng hết độc ác.
(daminhvn.net)
19 Tháng Mười
Ôi Giêsu, Ôi Giêsu!
Jeanne
D'Arc, một cô gái quê, đã nghe theo tiếng gọi từ trời cao để cầm quân đánh đuổi
người Anh ra khỏi đất Pháp. Nhờ chiến thắng này, hoàng tử Charles đã được đăng
quang làm vua nước Pháp.
Nhưng sau đó
trong một trận chiến khác, Jeanne D'Arc bị bại trận, cô bị người Anh bắt giữ và
kết án hỏa thiêu. Trong những giờ phút cuối cùng cô chỉ còn trơ trọi một mình:
người mẹ thân yêu ở cách xa ngàn dặm, vua Charles không muốn bỏ tiền ra để chuộc
cô, các tướng lãnh và binh lính đã từng sát cánh bên cô cũng đã bỏ chạy trốn hết.
Chỉ còn lại âm thanh lúc nào cũng trung thành với cô: đó chính là tiếng kêu của
cô.
Trong cơn
đau đớn cùng cực, người thiếu nữ đã kêu lớn: "Ôi Giêsu, ôi Giêsu!".
Quả thật, dù lòng người có bội bạc phôi pha, Chúa Giêsu vẫn luôn ở với cô và
luôn an ủi đỡ nâng cô.
Tin tưởng là tiếp
tục yêu mến cho dù trong từng phút giây ta có bị người đời bỏ rơi, phản bội.
Yêu là tin rằng ta có thể trung thành trước những bất trung của người khác và
những thăng trầm của cuộc sống. Chúng ta đứng vững trong niềm tin vì cho dù
xung quanh ta không còn một bóng người, Thiên Chúa vẫn luôn ở đó.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét