11/12/2016
Chúa Nhật tuần 3 mùa vọng năm A
(phần II)
Phụng vụ Lời Chúa: Chúa Nhật 3 Mùa Vọng, năm A
CHÚA NHẬT III MÙA VỌNG A
(Is 35,1-6a.10; Gc 5,7-10; Mt 11,2-11)
NIỀM HY VỌNG CỨU ĐỘ
“Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe:
Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng” (Mt
11,4-5).
I. CÁC
BÀI ĐỌC
1. Bài đọc I
Đoạn sách ngôn sứ Isaia đem lại cho dân đang chịu cảnh lưu đày niềm khích lệ và hy vọng về cuộc trở về Giêrusalem trong niềm vui vô bờ. Chính Thiên Chúa mang lại niềm vui và hy vọng cho dân Ngài, ngay cả trong hoàn cảnh bi đát nhất.
Trước hết, ngôn sứ nhấn mạnh đến sự biến đổi kỳ diệu của thiên nhiên: sa mạc, đồng khô cỏ cháy và đất hoang hãy trổ bông; khóm huệ hãy tưng bừng nở hoa (35,1-2a). Sự biến đổi của thiên nhiên, một đàng, mang lại niềm vui và sự hy vọng, đàng khác, là dấu hiệu để thiên hạ nhận ra vẻ huy hoàng, rực rỡ của Thiên Chúa. Quả vậy, nhìn vào vẻ đẹp của thiên nhiên, người ta nhận ra bàn tay uy quyền của Thiên Chúa, Đấng đem lại cho thiên nhiên một sự biến đổi kỳ diệu.
Sau nữa, trong hoàn cảnh bi đát của cuộc lưu đày, ngôn sứ lại loan báo một niềm hy vọng lớn lao: “Thiên
Chúa của anh em đây rồi”! Sự hiện diện của Thiên Chúa làm cho những bàn tay rã rời nên mạnh mẽ, cho những đầu gối bủn rủn được vững vàng, cho kẻ nhát gan không còn sợ hãi, cho kẻ què được nhảy nhót như nai và miệng lưỡi người câm được reo hò (35,3-6a). Niềm hy vọng vào một Thiên Chúa “cứu độ” và “thưởng công phạt tội” đem lại cho dân đang lưu đày sự can đảm để đón nhận những nghịch cảnh mà hướng đến tương lai tươi sáng của cuộc trở về.
Cuối cùng, ngôn sứ mở ra quang cảnh của cuộc trở về. Theo đó, những ai được Thiên Chúa giải thoát sẽ trở về lại Giêrusalem trong tiếng hò reo, mặt mày rạng rỡ và hớn hở vui cười; đau khổ và nước mắt sẽ không còn nữa (35,10). Thiên Chúa sẽ thứ tha tất cả những lỗi phạm của dân, những lỗi lầm đã khiến họ xa Chúa mà chịu cảnh lưu đày. Ơn cứu độ của Thiên Chúa sẽ làm cho tất cả mọi khổ đau về cả thể xác lẫn tinh thần vỡ òa trong niềm vui ngày trở về lại Giêrusalem. Rồi đây dân Chúa phải nhận ra rằng, ngay cả trong hoàn cảnh bi đát nhất, Thiên Chúa không bỏ rơi dân Ngài vì Ngài thật là Đấng cứu độ.
2. Bài đọc II
Đoạn thư Giacôbê nhấn mạnh về sự cần thiết của tính kiên nhẫn khi chờ đợi ngày Chúa quang lâm.
Trước hết, để có thể chờ đợi ngày Chúa quang lâm, tác giả thư Giacôbên nêu lên mẫu gương của người nông dân. Trong khi chờ đợi cho đất sinh hoa
màu quý giá, người nông dân phải chờ đợi cả mưa đầu mùa lẫn mưa cuối mùa. Vì sự quý giá của vụ mùa đối với cuộc sống của mình, họ sẵn sàng kiên nhẫn chờ đợi, dù thời gian có kéo dài. Cũng vậy, ngày Chúa quang lâm là phần thưởng quý giá đối với những ai tin tưởng trông đợi Ngài với tất cả sự kiên nhẫn.
Thêm vào
đó, tác giả thư Giacôbê còn mời gọi hãy“chịu đựng và kiên nhẫn theo gương các vị ngôn sứ là những vị đã nói nhân danh Chúa” (5,10).
Các vị ngôn sứ, vì tin chắc vào phần thưởng mà Chúa dành cho họ vào ngày Chúa trở lại, nên họ đã can đảm làm ngôn sứ nhân danh Chúa, dù có thể phải hy sinh mạng sống. Cũng vậy, tất cả những ai đang tin tưởng đợi chờ ngày Chúa quang lâm, hãy học gương kiên nhẫn của các ngôn sứ mà sẵn sàng chịu đựng những nghịch cảnh vì danh Chúa.
Sau nữa, tác giả khích lệ “hãy kiên nhẫn và bền tâm vững chí vì ngày Chúa quang lâm đã gần tới”(5,8). Như thế, lý do của việc kiên nhẫn và bền tâm đợi chờ là vì ngày Chúa đến đã gần kề, và chỉ những ai sẵn sàng chờ đợi, mới xứng đáng được vào dự tiệc Nước Trời (x. Mt 25,1-13). Hơn nữa, trong khi chờ đợi ngày Chúa quang lâm, thì “đừng phàn nàn kêu trách lẫn nhau để khỏi bị xét xử” (5,9).
Thiên Chúa như “vị thẩm phán đang đứng ngoài cửa” và những ai sống tinh thần bác ái với nhau trong khi kiên nhẫn đợi chờ Ngài thì sẽ được ân thưởng trong ngày Ngài xét xử (x. Mt 25,31-46).
3. Bài Tin
Mừng
Bài Tin Mừng tường thuật lại việc thánh Gioan Tẩy Giả gởi các môn đệ đến đặt câu hỏi với Chúa Giêsu. Câu trả lời của Chúa Giêsu cho thấy sứ mạng của Người trong thời đại mới, thời của Nước Trời.
Trước hết, dù đang ở trong tù, nhưng thánh Gioan Tẩy Giả vẫn dõi theo con đường sứ vụ của Đức Giêsu thông qua các môn đệ của mình. Khi nghe biết những việc làm của Chúa Giêsu xem ra không giống với “Đấng quyền thế” mà ông loan báo trước đây (x. Mt
3,10-12), có lẽ thánh nhân muốn tìm hiểu cặn kẽ hơn: “Thưa Thầy, Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?” (Mt 11,3).
Hoặc có thể ông muốn các môn đệ của ông, những người chưa thật sự hiểu sứ mạng của Chúa Giêsu (x. Ga
3,26), chứng kiến tận mắt những việc làm của Người, để tự các môn đệ tìm cho mình câu trả lời. Dù thế nào thì câu hỏi của thánh Gioan Tẩy Giả là dịp để Chúa Giêsu mạc khải rõ hơn về sứ mạng của Người.
Thật vậy, câu trả lời của Chúa Giêsu cho các môn đệ của ông Gioan Tẩy Giả mạc khải về sứ mạng của Người. Khi chứng kiến “người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng”, các môn đệ của thánh Gioan Tẩy Giả hiểu được rằng vai trò Mêsia của Chúa Giêsu không mang tính chính trị và quyền uy theo kiểu trần thế, nhưng phục vụ và cứu giúp những người đau khổ, bệnh tật, nghèo hèn với lòng xót thương; và phúc cho những ai không hiểu sai mà “vấp ngã” vì điều đó (x. Mt 11,6).
Ngoài ra, Chúa Giêsu cũng nhân cơ hội này khen ngợi ông Gioan Tẩy Giả. Quả vậy, ông Gioan Tẩy Giả không chỉ là một người có đời sống khổ hạnh trong sa mạc (11,7-8), nhưng trên hết là một vị ngôn sứ trổi vượt hơn bao vị ngôn sứ khác vì mang sứ mạng dọn đường cho Đấng Cứu Thế (11,9-10). Tuy nhiên, dù mang sứ mạng cao cả, dù được coi là “cao trọng” hơn cả trong số “phàm nhân lọt lòng mẹ”, thánh Gioan Tẩy Giả cũng chỉ là “người dọn đường” cho Đấng Cứu Thế là Đức Giêsu, Đấng đến để khai mạc một thời mới, thời của Nước Trời, thời trổi vượt trên tất cả những gì thuộc quá khứ dưới chế độ Luật Môsê (x.
11,12-13).
II. GỢI Ý ÁP DỤNG:
1/ Ngôn sứ Isaia loan báo về một niềm vui lớn lao cho dân Chúa đang chịu cảnh lưu đày: Thiên Chúa của anh em đây rồi! Ngài vẫn ở giữa họ. Giữa những chán nản và thất vọng, sự hiện diện của Ngài khơi lên niềm vui và hy vọng được trở về Giêrusalem. Như đất khô cằn gặp được nguồn nước bỗng nảy lên sự sống, dân Chúa hãy reo vui nhảy múa vì có Thiên Chúa là Đấng Cứu Độ hằng ở với họ, ngay cả trong những lúc bi đát nhất. Trong những lúc khó khăn, chán nản, thất vọng, tôi có nhận ra sự hiện diện của Chúa trong đời tôi? Thiên Chúa có là nguồn vui, và là nguồn sức sống cho cuộc đời của tôi?
2/ Thánh Giacôbê mời gọi sống kiên nhẫn và đừng kêu trách lẫn nhau để khỏi bị xét xử trong ngày Chúa quang lâm. Trong
cuộc sống vội vã và thực dụng của thế giới hôm nay, ngày Chúa quang lâm có lẽ chỉ còn là một khái niệm xa xỉ. Tôi có đang chờ ngày Chúa quang lâm? Chờ với thái độ nào? Việc chờ đợi Chúa quang lâm có làm cho cuộc sống hiện tại của tôi thêm ý nghĩa?
3/ Thánh Gioan Tẩy Giả và các môn đệ của ông, cũng như những người đương thời với Chúa Giêsu đang trông chờ một Đấng Mêsia, nhưng họ không nhận thấy nơi Chúa Giêsu những phẩm chất của Đấng Cứu Độ mà họ mong mỏi nên đâm ra nghi
ngờ. Tác giả Mátthêu xác quyết rằng Đức Giêsu không phải là Đấng Cứu Độ theo kiểu chính trị trần thế, mà là Đấng đến để cứu những người nghèo hèn, khốn khổ, bất hạnh. Tin Mừng cứu độ dành cho tất cả mọi người, đặc biệt cho những kẻ thấp kém, tội lỗi và bị xã hội loại trừ. Đức Kitô có thật sự là Đấng Cứu Độ của tâm hồn tôi? Tôi có thể làm gì để nối dài sứ mạng cứu độ của Đức Giêsu ở giữa trần gian này?
III. LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Anh chị em thân mến! Việc trông đợi Chúa đến thắp lên nơi chúng ta niềm vui thánh thiện. Phụng vụ hôm nay vang
lên lời mời gọi của thánh Phaolô: “Anh em hãy vui lên trong Chúa.” Với tâm tình hân hoan phấn khởi, chúng ta cùng dâng lời nguyện xin.
1. “Hãy về thuật lại cho Gioan những điều mắt thấy tai nghe.” Chúng ta cùng cầu xin cho các vị chủ chăn trong Hội Thánh luôn gắn bó mật thiết với Chúa Kitô, biết dùng lời nói cùng việc làm cụ thể để giới thiệu quyền năng và lòng Chúa thương xót cho thế giới hôm nay.
2. “Này Ta sai sứ thần Ta đi trước mặt con, để dọn đường sẵn cho con.” Chúng ta cùng cầu xin cho các nhà lãnh đạo trên thế giới trở nên công cụ hữu hiệu loan báo tình thương cứu độ của Thiên Chúa, qua những hoạt động bảo vệ nhân quyền và gìn giữ hòa bình.
3. “Anh em hãy bền chí và vững tâm, vì Chúa đã gần đến.” Chúng ta cùng cầu xin cho những Kitô hữu đang bị khủng hoảng trong đức tin, mất hướng trong cuộc sống, luôn cảm nhận được sự hiện diện và đồng hành của Chúa, hầu mau chóng tìm lại niềm tin và hy vọng.
4. “Người nhỏ nhất trong nước trời còn cao trọng hơn Gioan.” Chúng ta cùng cầu xin cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta biết nỗ lực để xứng đáng chung hưởng niềm vui nước trời bằng một đời sống chứng tá, luôn quảng đại chia sẻ và hiệp thông với mọi người.
Chủ tế: Lạy Chúa, Chúa đã sai Con Một Chúa đến thắp sáng cuộc đời chúng con. Xin thương nhận lời chúng con cầu nguyện, và giúp chúng con trở nên những người loan báo niềm vui cứu độ cho thế giới. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
ĐẤNG
CỨU ĐỘ ĐÃ GẦN
ĐẾN
"Thầy
có đúng là Đấng phải đến không ?" (Mt 11,3)
Sợi
chỉ đỏ :
-
Ngôn sứ Isaia loan báo Đấng Cứu độ sẽ đến (Bài đọc I)
- Tv
145 cầu xin Chúa đến (Đáp ca)
-
Gioan Tẩy giả sai môn đệ đến hỏi Đức Giêsu xem Ngài có phải là Đấng cứu độ
không (Tin Mừng)
-
Thánh Phaolô khuyên tín hữu bền chí chờ đợi Chúa lại đến lần thứ hai (Bài đọc
II)
Trong
Mùa Vọng, lễ phục của chủ tế màu tím. Nhưng hôm nay chủ tế mặc lễ phục màu hồng,
màu vui mừng ! Bởi vì hôm nay Lời Chúa loan báo cho chúng ta một tin hết sức
vui mừng : Chúa sắp đến viếng thăm chúng ta !
Nhưng
không phải là Chúa đã đến ở Bêlem cách nay khoảng 2000 năm hay sao ? Tại
sao lại nói là Chúa sắp đến ? Thưa quả thực ở Bêlem Chúa đã đến với trần
gian, nhưng chưa đến với tâm hồn mọi người. Mà điều Chúa thiết tha mong muốn
không phải là đến một nơi nhưng là đến với con người.
Chỉ
còn hơn một tuần lễ nữa thôi là chúng ta lại mừng lễ Giáng sinh, kỷ niệm lần đầu
tiên Ngôi Hai Thiên Chúa đến trần gian. Nhưng phải chăng một lần nữa Chúa chỉ đến
trong hang đá lạnh lẽo, mà không đến được với tâm hồn mỗi người chúng ta ?
Trong
Thánh lễ này, chúng ta hãy lắng nghe Lời Chúa dạy chúng ta phải làm gì để Chúa
có thể đến tận tâm hồn chúng ta.
- Đã
bao nhiêu lần Chúa muốn đến thăm viếng tâm hồn chúng ta, nhưng bấy nhiêu lần
Ngài đều không đến được vì cánh cửa tâm hồn chúng ta đã khóa chặt.
-
Chúng ta mong chờ biết bao người đến thăm chúng ta, như những người thân, những
người mang lại lợi lộc vật chất. Nhưng rất ít khi chúng ta mong chờ Chúa đến.
- Thậm
chí nhiều lần chúng ta còn xua đuổi Chúa.
Nhìn
chung quanh mình, ngôn sứ Isaia thấy những cảnh bất hạnh : nhiều người mệt
mỏi chán chường với "những bàn tay rời rã, những đầu gối mỏi
mòn" ; nhiều người khác bi quan sợ hãi trước những áp bức, bất
công ; nhiều người khác nữa đau buồn rên siết trong biển khổ cuộc đời…
Ngôn
sứ Isaia an ủi và khích lệ họ : mọi bất hạnh sẽ biến mất khi Thiên Chúa đến :
"Chính Thiên Chúa sẽ đến và cứu độ các ngươi"
Lời cầu
nguyện của Tv 145 này biểu lộ niềm tin tưởng vào lời Chúa phán qua miệng ngôn sứ
Isaia. Tác giả tin rằng khi Thiên Chúa đến, Ngài sẽ minh oan cho người bị áp bức,
nâng đỡ những người yếu đuối, chở che những người cô thế cô thân… Bởi thế, tác
giả cất tiếng nài van "Lạy Chúa, xin đến cứu thoát chúng tôi".
Cũng
như mọi người khác đương thời, Gioan Tẩy Giả nôn nóng chờ Đấng Messia của Thiên
Chúa đến. Gioan cũng đoán rằng Đức Giêsu chính là Đấng Messia ấy. Chỉ có điều
Gioan lại quan niệm rằng Đấng Messia là một vị Thẩm phán nghiêm minh. Ngài đến
để trừng trị những người gian ác. Vì thế khi thấy Đức Giêsu chưa làm gì để trừng
trị kẻ ác, thậm chí bản thân Gioan đang bị kẻ ác giam giữ trong ngục mà Ngài
cũng chưa ra tay. Gioan đâm ra hoang mang, ông sai môn đệ đến thưa Người rằng :
"Thầy có phải là Đấng phải đến chăng ?"
Đức
Giêsu không trả lời trực tiếp. Ngài bảo các môn đệ của Gioan về thuật lại cho
thầy họ tất cả những điều họ thấy Ngài làm : những kẻ bệnh hoạn tật nguyền
được cứu chữa và Tin Mừng được loan báo cho người nghèo. Đó là những chi tiết
mà ngôn sứ Isaia dùng để mô tả Đấng Messia, nhưng không phải là một Đấng Messia
thẩm phán, mà là một Đấng Messia Tôi Tớ.
Như
thế, một cách gián tiếp, Đức Giêsu đã trả lời cho Gioan biết rằng Ngài chính là
Đấng Messia ; đồng thời Ngài cũng điều chỉnh lại quan niệm Messia của
Gioan : Đấng Messia đến không phải để trừng trị mà để cứu vớt.
Quan
niệm này quả là quá xa lạ với suy nghĩ của Gioan. Vì thế, Đức Giêsu nhắn với
ông "Phúc cho ai không vấp ngã vì Ta".
Thời
Giáo Hội sơ khai, các tín hữu mong chờ Chúa lại đến lần thứ hai. Càng khổ sở vì
cuộc sống vất vả, càng cảm thấy yếu thế trước những áp bức bất công, họ càng
mong Chúa mau đến. Thế nhưng mong chờ đã lâu mà sao vẫn chưa thấy Chúa đến ?
Họ bắt đầu nản lòng.
Thánh
Giacôbê khuyến khích họ hãy làm như bác nông phu : đã gieo giống rồi thì
thế nào cũng tới mùa gặt hái, chỉ cần kiên nhẫn chờ đợi thôi : "Anh
em hãy bền chí và vững tâm, vì Chúa đã gần đến".
Nhìn
bề ngoài thì xem ra con người thời nay rất đầy đủ. Nhưng nếu đi sâu đến tận đáy
lòng, ta mới thấy nhiều khoảng trống mênh mông rất cần được lấp đầy :
- Khoảng
trống "siêu vật chất" : Mặc dù tiền bạc, của cải, tiện nghi… -
nói chung là vật chất - có rất nhiều, nhưng lòng người vẫn luôn thấy thiếu. Chỗ
thiếu vắng này không thế lấy tiền mà mua được, không thể lấy vật chất mà lấp đầy
được.
- Khoảng
trống "tình yêu" : người ta sống với nhau vì quyền lợi. Ai có lợi
cho tôi thì tôi đến ; ai không có lợi thì tôi thờ ơ, ai không còn có lợi
thì tôi bỏ, ai có hại thì tôi tìm cách diệt trừ… Hình như tình yêu không có chỗ
trong lòng người.
- Khoảng
trống "vĩnh hằng" : mọi thứ mà người thời nay có đều chỉ là tạm
bợ, kéo dài lắm cũng chỉ là "trăm năm trong cõi người ta". Con người
cần cái gì đó dài hơn, lâu hơn, mãi mãi…
Những
khoảng trống ấy thật là mênh mông, và không ai ngoài Chúa có thể lấp đầy. Con
người thời nay đang rất cần Chúa.
Trước
một vấn đề quan trọng cần giải quyết, người ta chia thành hai hạng khác
nhau :
- Những
người nóng vội : muốn giải quyết ngay tức khắc, bằng cách nào cũng được, kết
quả thế nào cũng được.
- Những
người kiên nhẫn : tìm hiểu kỹ vấn đề, suy nghĩ cách giải quyết thỏa đáng nhất,
chờ có đủ điều kiện thuận lợi nhất.
Phần
Thiên Chúa, Ngài không nóng vội nhưng rất kiên nhẫn, bởi vì Ngài muốn cứu chữa
tận căn, muốn cải tạo con người, muốn canh tân thế giới.
Phần
mỗi người chúng ta, cũng chớ tìm những giải pháp nhanh chóng mà hời hợt, nhưng
hãy kiên nhẫn : kiên nhẫn điều trị tận gốc căn bệnh của mình, kiên nhẫn cải
tạo từng mặt cuộc sống của mình, và kiên nhẫn góp phần canh tân thế giới.
Tuy
Gioan là một ngôn sứ và còn là vị Tiền hô, nhưng câu hỏi này của ông lại rất
"phàm trần" : Ông nghĩ rằng Đức Giêsu là Đấng Messia Thẩm phán.
Nhưng khi thấy Ngài chẳng xét xử và trừng trị ai thì ông nghĩ tới "một Đấng
nào khác".
Nhưng
chúng ta còn "phàm trần" hơn Gioan nhiều : Dù đã biết Đức Giêsu
chính là Đấng Messia, nhưng chúng ta không đủ tin nơi Ngài, chúng ta hướng về
nhiều "đấng messia khác" : messia-tiền-bạc, messia-thế-lực,
messia-lạc-thú…
Tuyên
ngôn Dominus Jesus khẳng định rằng Đức Giêsu là Đấng Cứu Độ duy nhất, ngoài
Ngài ra chẳng có đấng messia nào cả. Không hết lòng tin tưởng vào Đức Giêsu là
"vấp ngã", chạy theo những đấng messia khác cũng là "vấp
ngã". Vì thế Đức Giêsu đã khuyến cáo : "Phúc cho ai không vấp
ngã vì Ta".
Gioan
Tẩy giả không phải là một cây sậy phất phơ trước gió, vì Gioan không phải là
người yếu đuối nhu nhược dễ uốn mình trước áp lực và dư luận.
Nhưng
hình ảnh cậy sậy phất phơ trước gió có thể dạy ta nhiều điều :
- Nó
vừa mềm vừa nhẹ nên gió thổi nó nghiêng về hướng nào cũng được.
- Nhưng
nó lại rất mạnh : giông to gió lớn có thể xô ngã những cây cổ thụ to lớn,
nhưng không thể bứng gốc cây sậy nhỏ bé này.
Lạy
Chúa,
- xin
dạy chúng con hiểu rằng sức mạnh ở trong sự yếu đuối và dịu dàng
- xin
dạy chúng con khôn ngoan biết khi nào phải cong xuống và khi nào phải trụ vững
vàng.
a/ Ông
có phải là Chúa Giêsu không ?
Một
nhóm thương gia dự một cuộc họp. Người nào cũng báo trước với vợ con là sẽ về
nhà đúng giờ ăn bữa tối. Nhưng cuộc họp kéo dài hơn dự định. Tan buổi họp, ai nấy
hối hả chạy ra xe buýt. Một người xô phải quầy bán táo của một cậu bé, táo rơi
tứ tung. Nhưng không ai dừng lại để lượm giúp cậu. Rồi mọi người đều lên được
xe buýt, thở phào nhẹ nhõm.
Nhưng
ít giây sau, một người trong nhóm cảm thấy bứt rứt về chuyện cậu bé bán táo.
Ông xuống xe trở lại chỗ cũ. Ông thấy cậu bé đang vất vả mò tìm từng trái táo để
lượm lại. Thì ra cậu bị mù ! Tội nghiệp quá, ông giúp cậu lượm lại từng quả
cho đến hết. Một số quả đã bị giập. Ông móc túi dúi vào tay cậu bé một món tiền,
rồi ra đi. Cậu bé bán táo hỏi với theo "Ông có phải là Chúa Giêsu
không ?"
Theo
một nghĩa nào đó, ông ta là Chúa Giêsu. Thời nay đang cần có nhiều Chúa Giêsu
như thế.
b/ Đối
phó với Đấng Messia
Ngày
kia đang lúc trời mưa như trút nước, một người chủ nông trại giàu có từ đồng trở
về nhà và than phiền với giọng đầy lo lắng :
-
Rebecca, nghe đâu trong thành người ta đang kể một câu chuyện kinh khủng lắm :
Đấng Messia đã đến giữa chúng ta !
Người
vợ hỏi :
- Có
gì mà kinh khủng hả ? Tôi tưởng đó là chuyện tuyệt vời chứ. Sao mà ông hoảng
hốt vậy ?
Người
chồng lớn tiếng than :
- Tôi
hoảng hốt ư ? Sao biết bao năm trời vất vả lao nhọc, chúng ta mới được
giàu có với bầy súc vật hàng ngàn con, với những kho lẫm đầy ắp và cây cối nặng
trĩu quả. Thế mà, bà biết không, chúng ta sắp phải bỏ hết để đi theo Ngài.
Bà vợ
ôn tồn như muốn an ủi ông :
-
Thôi, bình tĩnh đi ông. Chúa là Thiên Chúa nhân lành. Ngài biết rõ người do
thái chúng ta đã luôn luôn phải chịu đau khổ, chúng ta phải đương đầu với
Pharaon, Haman, Hitler… nghĩa là luôn luôn với một kẻ nào đó. Nhưng Thiên Chúa
chúng ta đã có cách đối phó với họ mà, phải không ? Thế thì Ngài cũng có
cách đối phó với Đấng Messia chứ ! (Anthony de Mello, Lời kinh của Con Ếch)
CT :
Anh chị em thân mến
Đức Giêsu
Kitô, Ngôi hai Thiên Chúa, sắp ngự xuống trần gian. Người sẽ mang đến cho nhân
loại đang đau khổ vì chiến tranh ơn hòa bình, đang oằn oại trong tội lỗi ơn giải
thoát, đang sống trong bất hạnh được hạnh phúc tràn đầy. Chúng ta cùng chung lời
cảm tạ Chúa và tha thiết khẩn cầu :
1-
Sứ mạng cao cả của Hội Thánh / là rao giảng Tin Mừng cứu độ cho các dân tộc. /
Chúng ta hiệp lời cầu xin cho việc rao giảng Tin Mừng của Hội Thánh / luôn đạt
nhiều kết quả tốt đẹp.
2-
Trên thế giới ngày nay / việc phân bố tài nguyên các quốc gia không đồng đều /
vì có những nước quá giàu / trong khi đó có những nước quá nghèo. / Chúng ta hiệp
lời cầu xin cho những nước giàu / biết quan tâm giúp đỡ một cách vô vị lợi / những
nước chậm phát triển / cách riêng những nước mà một phần lớn dân chúng sống dưới
mức tối thiểu.
3-
Trong cuộc sống thường ngày / có một số người tôn thờ cá nhân chủ nghĩa / chỉ
lo sống hưởng thụ ích kỷ. / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho người kitô hữu hiểu rằng
/ không ai sống cho mình / mà là sống cho Chúa và sống vì người khác / vì không
ai là một hòn đảo trong đại dương bao la của cuộc đời này.
4-
Ngày xưa / Đức Giêsu đã chinh phục người khác bằng tình thương hy sinh / bằng
việc phục vụ hết lòng. / Ngày nay / Người đòi hỏi các kitô hữu cũng phải sống
như Người. / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa cho mọi người trong giáo xứ chúng
ta / biết yêu thương / tôn trọng / và giúp đỡ những người chung quanh mình / nhất
là những ai đói nghèo / túng thiếu và đang gặp đau khổ.
CT :
Lạy Chúa là Cha từ bi nhân hậu, xin cho chúng con biết kiên trì tỉnh thức mà chờ
đợi Ngôi Hai Con Chúa giáng trần, và biết cầm đèn cháy sáng trong tay mà hăm hở
đón Người đang ngự đến. Người hằng sống và hiển trị muôn đời.
-
Kinh Tiền Tụng : nên dùng Kinh Tiền Tụng Mùa Vọng II vì nó nhấn mạnh đến
vai trò của Gioan Tẩy Giả và diễn tả niềm vui của tín hữu đang khi chờ đợi lễ
Giáng sinh.
-
Kinh Nguyện Thánh Thể : nên dùng KNTT 4, nhấn mạnh một số nơi :
. (Cuối
đoạn 3) : "… Người đã loan Tin Mừng cứu độ cho người nghèo
khó, công bố ơn giải thoát cho kẻ tù đày, đem lại niềm vui cho những ai sầu khổ."
- Trước
kinh Lạy Cha : Chúng ta hãy tha thiết dâng lời cầu nguyện lên Chúa Cha,
xin cho Nước Ngài mau trị đến, để lấp đầy những khát vọng của những kẻ nghèo
hèn là con cái đích thực của Ngài.
Đức
Giêsu đã nói với các môn đệ của Thánh Gioan Tẩy giả : "Hãy về thuật lại
cho Gioan những gì các anh nghe và thấy". Giờ đây, anh chị em sắp trở về với
cuộc sống xã hội, Đức Giêsu cũng nói với anh chị em : Hãy đi thuật lại cho
mọi người những gì mà trong Thánh lễ này Chúa đã cho anh chị em được nghe và được
thấy.
Lm. Carolo HỒ BẶC XÁI
Lectio Divina: Chúa Nhật III Mùa Vọng
(A)
Chúa
Nhật, 11 Tháng 12, 2016
Lời
chứng của Chúa Giêsu về Gioan Tẩy Giả
Mt
11:2–11
1. Chúng
ta hãy khẩn cầu cùng Chúa Thánh Thần
Lạy
Chúa Thánh Thần,
Đấng
từ thuở tạo thiên lập địa,
Người
quét qua các vực thẳm của vũ trụ
và biến
đổi khuyết điểm của vạn vật
trở
thành một nụ cười của vẻ đẹp,
Xin
Chúa hãy ngự xuống trên trái đất lần nữa
và
ban cho nó niềm rộn ràng của sự khởi đầu.
Thế
giới này đang trở nên cằn cỗi,
Xin
Chúa hãy đụng chạm nó với đôi cánh vinh quang của Ngài.
Xin
Chúa hãy mang lại cho chúng con niềm hân hoan nguyên thủy.
Xin
hãy đổ ngập tràn Chúa trên tất cả các phiền não của chúng con.
Xin
Ngài hãy bay lượn một lần nữa trên thế giới xưa cũ trong nguy nan của chúng
con.
Và,
sau hết, một lần nữa hoang địa sẽ trở lại là khu vườn xanh tươi
Trong
vườn, cây công lý sẽ nở hoa
và
hoa trái của công lý sẽ là hòa bình.
Lạy
Chúa Thánh Thần, Đấng mà ở bên bờ sông Giođan
đã ngự
xuống trong sự viên mãn của Ngài trên Chúa Giêsu
và
công bố Người là Đấng Cứu Thế,
thì
các tầng trời mở ra chung quanh Người.
Tô điểm
với áo choàng của ân sủng.
Thánh
hóa với lễ xức dầu
và mời
gọi mang Tin Mừng đến cho người nghèo khó,
băng
bó những vết thương của các trái tim tan vỡ,
tuyên
bố tự do cho các người nô lệ,
giải
thoát các tù nhân
và
loan báo năm của lòng thương xót Chúa.
Xin
hãy giải thoát chúng con khỏi sự sợ hãi của việc không được che chở.
Nguyện
xin cho đôi mắt chúng con tỏa ra sự trong suốt siêu phàm.
Nguyện
xin cho con tim chúng con phát ra sự can đảm hòa lẫn với sự dịu dàng.
Nguyện
xin cho bàn tay chúng con tuôn đổ ân sủng của Chúa Cha
trên
tất cả những ai mà chúng con đụng chạm tới.
Xin
cho thân xác chúng con được rực rỡ với niềm vui.
Xin
hãy khoác cho chúng con với quần áo cưới.
Và
hãy bao bọc chúng con với thắt lưng của ánh sáng.
Bởi
vì, đối với chúng con và tất cả mọi người, Chàng Rể sẽ đến không chậm trễ.
T.
Bello
2.
Tin Mừng
2 Khi ấy, Gioan ở trong ngục nghe nói về các việc làm
của Chúa Kitô, Ông sai môn đệ đến thưa với Người rằng: 3 “Thầy
có phải là Đấng phải đến chăng, hay chúng tôi còn phải đợi Đấng nào
khác?” 4 Chúa Giêsu bảo họ: “Hãy về thuật
lại cho Gioan những gì các ông nghe và thấy; 5người mù được thấy,
người què đi được, người phong hủi được khỏi, người điếc được nghe, người chết
sống lại, và Tin Mừng được loan báo cho kẻ nghèo khó; 6 và
phúc cho ai không vấp ngã vì Ta.” 7 Khi những người
được sai đến đã đi rồi, Chúa Giêsu liền nói với đám đông về Gioan rằng: “Các
ngươi đi xem gì ở hoang địa? Một cây sậy phất phơ trước gió
ư? 8 Vậy các ngươi đi xem gì? Một người
ăn mặc lả lướt ư? Nhưng những người ăn mặc lả lướt thì ở nơi cung điện
nhà vua. 9 Vậy các ngươi đi xem gì? Một
tiên tri ư? Phải, Ta bảo các ngươi, và còn hơn một tiên tri nữa. 10 Vì
có lời chép về ông rằng: “Này Ta sai sứ thần Ta đi trước mặt con, để
dọn đường sẵn cho con.” 11 Thật Ta bảo các ngươi,
trong các con cái người nữ sinh ra, chưa từng xuất hiện một ai cao trọng hơn
Gioan Tẩy Giả; nhưng người nhỏ nhất trong Nước Trời cũng cao trọng hơn
ông.”
3. Chúng
ta hãy tạm dừng và đọc lại bài Tin Mừng lần nữa
§ Chúng
ta hãy lặng lẽ thì thầm những lời của Tin Mừng và hãy để cho chúng chầm chậm di
chuyển từ lưỡi đến tâm trí chúng ta và từ tâm trí đến lòng của chúng
ta. Trong thinh lặng, chúng ta hãy thưởng thức những lời này…
§ Chúng
ta đang tụ họp chung quanh Chúa Giêsu và chúng ta đang lắng nghe những điều các
môn đệ đang hỏi Người về Gioan Tẩy Giả: đây là một câu hỏi nghiêm túc từ những
người có thẩm quyền thay đổi lịch sử.
§ Câu
trả lời của Đức Giêsu mang một giai điệu trầm tĩnh, nhưng nó làm rỉ máu trái
tim chúng ta như bị một ngọn giáo đâm qua: thật là rõ ràng Đấng Cứu
Thế đang được chờ đợi chính là Người!
§ Hãy
để cho các câu hỏi, những nghi ngờ, những mong muốn và hy vọng tự do chạy nhảy
chung quanh Lời của Chúa Giêsu. Hãy để cho chúng đối đầu và tham gia
với Lời ấy. Dần dần câu trả lời sẽ xuất hiện, dù rằng đó có thể chỉ
là một phần: không phải ở trong các cuộc tranh cãi, mà là lúc nhìn
thẳng vào “Người là Đấng phải đến” và là Đấng đang nói chuyện với bạn bây giờ. Đừng
nên mệt mỏi về việc lặp lại Lời Chúa trong một giọng nói nhẹ nhàng và giữ nó
trong lòng bạn, trên hết tất cả các mối nghi ngờ và các vấn đề trong ngày của bạn.
4. Chúng
ta hãy có một cái nhìn sâu hơn về bài Tin Mừng của Mátthêu
§ Đoạn
Tin Mừng của chúng ta trích từ đoạn đầu của một chương mới trong sách Phúc Âm
(Chương 11:2-12, 50). Đây là một loạt các câu chuyện liên quan đến
hoạt động của Chúa Giêsu sau bài giảng của Người về việc tông đồ. Không
có nhiều phép lạ, nhưng Tác Giả Tin Mừng nhấn mạnh đến cuộc tranh luận giữa
Chúa Giêsu và những kẻ chống đối Người trong một cường độ ngày càng tăng đối với
toàn bộ phần còn lại của quyển Tin Mừng.
Chắc
hẳn văn bản phản ảnh lại các cuộc tranh luận thần học đầu tiên giữa các Kitô hữu
và các môn đệ của Gioan liên quan đến bản chất sứ vụ của Chúa Giêsu.
§ Gioan
ở trong ngục…: Đó là một thời gian khá lâu kể từ khi Mátthêu đề
cập đến Gioan Tẩy Giả (lần đề cập cuối cùng là ở trong chương 4:12) và bây giờ
ông cho chúng ta biết là Gioan đang ở trong tù và chỉ sau này ông mới cho chúng
ta biết hoàn cảnh tù đày của Gioan Tẩy Giả (14:3-12).
· Nơi
giam giữ Gioan, cũng như đối với tất cả mọi tù nhân, là một nơi cách biệt, một
loại “thế giới cách ly” làm cho ông gần như là người xa lạ với đời sống thường
nhật và làm méo mó nhận thức về tin tức nhận được từ bên ngoài. Vì
thế, câu hỏi của Gioan Tẩy Giả không đáng ngạc nhiên ngay cả khi ông là người đầu
tiên nhận thức được rằng Chúa Giêsu là “Đấng có quyền năng hơn” (Chương 3:11)
và là Đấng trong ngày phán xét chung “tay sẽ cầm nia sàng sẩy” (3:12), cúi mình
thờ lạy Người một cách khiêm nhường và trong sợ hãi (xem 3:11).
§ [Khi
ông] nghe nói về các việc Chúa Kitô đang làm…: những chữ “các việc
Chúa Kitô đang làm”, được dùng ở đây để nhắc nhớ lại những gì Chúa Giêsu đang
làm, dự đoán cho câu trả lời của Người để trả lời cho câu hỏi của ông Gioan.
· Gioan
Tẩy Giả, đang khi ở trong tù, nghe tin về Chúa Giêsu: chúng ta cũng
thế, mỗi ngày trong khi chúng ta đang ở trong “nhà tù” của sự cô tịch và xa
cách khỏi Thiên Chúa của chúng ta hoặc nhà tù của đau khổ, thì nghe thấy “một
điều gì đó” đến từ nhiều nguồn khác nhau và chúng ta cảm thấy bối rối bất
an.
Thường
thì khó mà phân biệt giữa những tin tốt lành của Phúc Âm với rất nhiều vấn đề
khác xảy ra trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta!
Tuy
nhiên, những gì Chúa Giêsu làm là những việc mà “Đấng Kitô làm”, thậm chí nếu
chúng ta không luôn luôn ý thức được điều này, thì cũng giống như trong trường
hợp của Gioan Tẩy Giả.
§ Thầy
có phải là Đấng phải đến chăng, hay chúng tôi còn phải đợi Đấng nào khác? Khi
Gioan Tẩy Giả làm phép rửa cho toàn đám đông ở sông Giođan, ông đã
mô tả một Đấng Cứu Thế hùng mạnh sẽ trừng phạt nặng nề tội lỗi của tất cả mọi
người: “Đấng đến sau tôi có quyền năng hơn tôi, và tôi không đáng
xách giầy cho Người; chính Đấng ấy sẽ rửa các ngươi trong Chúa Thánh Thần và lửa. Người
cầm nia trong tay mà sẩy sân lúa của Người, rồi thu lúa vào kho, còn rơm thì đốt
đi trong lửa không hề tắt.” (Mt 3:11-12). Trong sự nghiêm
khắc đó kêu răng rắc giống như một ngọn roi trong quan điểm về sự hoán cải và
do đó, về ơn cứu rỗi, Gioan đã đọc được dấu ấn lòng thương xót của Thiên Chúa
Gia Vê. Chịu đau khổ trong tù, trở nên mỏng dòn bởi cảm giác thất bại
và bất lực, nạn nhân của sự bất công và chống lại sự kiêu căng mà ông đã cả đời
chiến đấu, dường như Gioan Tẩy Giả cho rằng sự dữ đang thắng thế và ông cảm thấy
bất an. Bị chìm đắm trong đám sương mù không thể thay đổi được đó,
ông không còn khả năng nhìn thấy rõ quyền năng của Thiên Chúa trong hoạt động
trong các công việc của Chúa Giêsu nữa.
· Thật
là hợp lý mà suy đoán: Chúa Giêsu đang từ từ mặc khải chính Người là
Đấng Cứu Thế, nhưng Người đã làm như thế bằng cách phá vỡ các quy tắc lý tưởng
của người Do Thái và các diễn giải thông thường về Thánh Kinh: Người
đã không “hành xử công lý”, Người đã không gạn lọc điều tốt lành ra khỏi việc xấu
xa như cái sàng tách rời lúa tốt ra khỏi rơm; Người đã rao giảng về sự hoán cải
một cách nhiệt thành nhưng lại tha thứ những kẻ tội lỗi; Người đã tỏ cho thấy
Người “có lòng hiền lành và khiêm nhường” (Mt 11:29), cởi
mở và sẵn sàng với tất cả mọi người, một người xa lạ với tất cả các phương cách
tranh cãi thường tình của hệ thống. Vì thế, có thể nghĩ rằng Gioan Tẩy
Giả đang ở trong một cơn khủng hoảng bởi vì Đức Giêsu đã không tương ứng với Đấng
Cứu Thế mà ông đang mong đợi và Đấng mà ông đã liên tục rao giảng; do đó, ông
sai các môn đệ đến gặp Chúa Giêsu để hỏi Người một số câu hỏi và để họ về thuật
lại cho ông một lời có thể soi sáng bí ẩn của những mâu thuẫn
này: “Thưa Đức Giêsu, ông là ai? Ông nghĩ ông là
ai? Làm thế nào chúng tôi có thể tin vào ông khi đứng trước các sự
kiêu căng và bất công mà ông đã tỏ cho thấy ông là một Đấng Cứu Thế kiên nhẫn,
nhân từ và bất bạo động?”
Ai
trong chúng ta đã không cố gắng tạo nên một ý tưởng chính xác hơn về Đấng mà
chúng ta tín thác và các cách thức hành động của người ấy, khi mà đời sống đã
làm cho chúng ta gặp phải nhiều sự mâu thuẫn và bất công, ngay cả trong Giáo Hội
không? Ai trong chúng ta đã không khắc khoải để nhìn thấy và diễn giải
một cách chính xác các dấu hiệu của sự hiện diện tích cực của Thiên Chúa trong
lịch sử của chính chúng ta không? Thật khó mà chào đón một Thiên
Chúa, Đấng rất “khác biệt” với các nét phác họa của chúng ta và vì vậy chúng ta
không nên kết án Gioan Tẩy Giả, bởi vì chúng ta cũng có thể phải chịu sự cám dỗ
về việc muốn Thiên Chúa có những cảm xúc và khuynh hướng của chúng ta và thậm
chí có thể có những người muốn báo thù trong việc thực hiện “công
lý”. Thông thường chúng ta muốn có một Thiên Chúa được tạo nên theo
hình ảnh và giống như chúng ta, nhưng “tư tưởng của Ta không phải là tư
tưởng của các ngươi, và đường lối của các ngươi không phải là đường lối của
Ta…” (Is 55:8).
§ Chúa
Giêsu bảo họ: “Hãy về thuật lại cho Gioan những gì các ông nghe và
thấy: Chúa Giêsu không trả lời một cách nhanh chóng và trực tiếp,
nhưng cho thấy rõ ràng các sự kiện mà kết quả từ những hành động của Người đang
làm thay đổi lịch sử và thực hiện lời tiên tri ngày xưa về Đấng Cứu Thế. Vì
thế, Người không đưa ra một câu trả lời “để xử dụng ngay lập tức”, nhưng các
môn đệ phải trở về gặp Gioan và kể cho ông nghe những gì chính họ đã nghe và
nhìn thấy, bởi vì sự chữa lành, cho kẻ chết sống lại và giải thoát kẻ bị áp bức
là những dấu hiệu rõ ràng về bản chất Cứu Thế của Đức Giêsu Nagiarét.
Mỗi
ngày chúng ta phải học để công bố Tin Mừng bắt đầu từ những gì chúng ta cảm nhận
và nhìn thấy. Việc chứng nhân huynh đệ không thể thiếu được trong việc
truyền đạt Tin Mừng.
· Chúa
Kitô khiêm nhường phục tùng với những câu hỏi và những câu trả lời để cho các
môn đệ của Gioan Tẩy Giả thấy một phương pháp xác thực và cá nhân về việc hiểu
biết và loan báo: “Hãy về thuật lại cho Gioan những gì các ông
nghe và thấy”. Tác giả sách Phúc Âm thứ tư nhắc nhớ lại cùng một
phương pháp trong lá thư thứ nhất của ông: “Điều vẫn có ngay từ lúc khởi
đầu, điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều
chúng tôi đã chiêm ngưỡng, và tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự
sống – đây là chủ đề của chúng ta. Quả vậy, sự sống đã được tỏ
bày, chúng tôi đã thấy và làm chứng,chúng tôi loan báo cho anh em sự sống
đời đời: sự sống ấy vẫn hướng về Chúa Cha và nay đã được tỏ bày cho
chúng tôi. Điều chúng tôi đã thấy và đã nghe, chúng tôi loan
báo cho cả anh em nữa, để chính anh em cũng được hiệp thông với chúng tôi” (1Ga
1:1-3) Đây là phương pháp truyền giáo được sử dụng bởi Giáo Hội sơ khai:
phương pháp học được từ sự nhập thể của Ngôi Lời.
Một sự
công bố xác thực và hiệu quả phải đi qua một sự truyền đạt đơn giản và khiêm tốn
của kinh nghiệm cá nhân: những lời không có sự phô trương của một đời sống được
dệt bằng đức tin.
§ Người
mù được thấy, người què được đi, người phong hủi được khỏi, người điếc được
nghe, người chết sống lại, và Tin Mừng được loan báo cho kẻ nghèo
khó: Trong những lời này, một bộ sưu tập các câu trích dẫn từ
sách tiên tri Isaia (28:18-19; 35:5-6; 42:18; 61:1), chúng ta tìm thấy cốt lõi
câu trả lời của Chúa Giêsu và của đoạn Tin Mừng của chúng ta. Chúa
trưng ra các việc làm của Người không như một Đấng phán xét và có uy quyền, mà
như là ân sủng của Thiên Chúa ban cho những Dân Chúa đang cần đến.
Điều
đáng chú ý là những đoạn trích dẫn tiên tri không hề đề cập đến người phong cùi
và người chết mà Tác Giả Phúc Âm đã viết như lời Chúa Giêsu nói. Điều
này nhấn mạnh đến tính chất mới mẻ mà Chúa Giêsu mang đến trong phong cách của
Người để hoàn thành những lời tiên tri về Đấng Cứu Thế đang được dân Israel chờ
đợi.
Những
việc làm của Chúa Giêsu thật là cao cả, nhưng Người là một trong “những người
bé mọn” đã được Chúa chọn, Người là một trong “những người nghèo của Đức Giavê”
đã trông thấy cây thập giá tại cuối cuộc hành trình làm người của
mình. Điều này không thể chấp nhận được cho bất cứ ai đang trông đợi
một Đấng Cứu Thế vinh quang. Phúc cho những ai nghe và thấy với một
con tim đầy lòng tin.
· Một
cách gián tiếp Chúa Giêsu mời gọi Gioan Tẩy Giả tự mình nghe và thấy những gì
Người đã dạy và làm. Vì vậy, vị ngôn sứ cuối cùng có thể gợi nhớ lại
và bây giờ nhận ra rằng những gì Chúa Giêsu nói và làm đều tương ứng với những
lời tiên tri về Đấng Cứu Thế cao cả được nhắc đến nhiều trong Cựu Ước.
Đây
là cơ chế của “ký ức tôn giáo” nếu không có đức tin sẽ không bao giờ được khơi
dậy và đặc biệt là không bao giờ có thể tồn tại với các xúc động mạnh của sự vấp
ngã mà đời sống mang đến cho nó: các công trình của Thiên Chúa trong
quá khứ là những dấu hiệu của lòng trung tín của Người về các lời hứa và sự cam
kết về các công trình trong tương lai của Chúa.
Chúng
ta tự cam kết để gợi nhớ lại mỗi ngày về “những điều tuyệt vời” mà Thiên Chúa
đã làm cho chúng ta và trong chúng ta (xem Lc 1:49) không có nghĩa là để rơi
vào sự lặp lại vô ích, nhưng dần dần đưa hạt giống ân sủng tích cực của Thiên
Chúa đến tận đáy lòng của chúng ta, để nó có thể phát triển và sinh hoa
trái. Bí Tích Thánh thể cũng là một “sự tưởng niệm của sự Phục Sinh
của Chúa”, một sự tưởng niệm sống động và thật sự của ơn cứu rỗi được ban cho mỗi
người chúng ta.
§ Phúc
cho ai không mất niềm tin [không vấp ngã] vì ta: Chữ “sự vấp
ngã” xuất phát từ chữ Hy-lạp: “chướng ngại vật” được chuẩn bị để tấn công một
người bằng sự bất ngờ. Mặc dù có những ý nghĩa mà chúng ta thường
quy cho chữ này, trong Kinh Thánh chữ “vấp ngã” có thể là tiêu cực hoặc tích cực.
Chúa
Giêsu là người “làm mang tiếng” dân tộc Do-Thái của mình bởi cái gốc gác nghèo
hèn không phù hợp với một Đấng Cứu Thế vinh quang; Người xúc phạm đến những người
Biệt Phái với những lời lẽ gay gắt, Người xúc phạm đến các môn đệ của Gioan Tẩy
Giả vì đường lối những việc Người làm đã không theo như các kế hoạch dự kiến và
Người xúc phạm đến chính các môn đệ của Người với cái chết nhục nhã của mình.
Tuy
nhiên, Chúa Giêsu đã không tán dương những ai xúc phạm đến những kẻ bé mọn hoặc
những ai là cái cớ để cho người khác sa ngã (xem Mt 5:29) về đức tin hoặc luân
thường đạo lý để người khác đi vào con đường sai lạc.
Loại
tai tiếng mà chúng ta cần là loại đến từ cách sống Phúc Âm một cách triệt để hầu
giũ sạch chúng ta ra khỏi những thói quen trong cuộc sống và khỏi chủ kiến của
chúng ta.
Chúng
ta cũng được kêu gọi để “xúc phạm” đến thế giới với các vụ tiếng tăm của Tin Mừng
cho thấy bằng đời sống của chúng ta rằng chúng ta không chịu thua trước những
thói quen và tục lệ không đúng với đức tin Kitô giáo, bằng cách từ chối những
thỏa hiệp có thể tạo ra bất công, bằng cách nâng đỡ những người nghèo khó và những
kẻ hèn mọn nhất.
§ Các
ngươi đi xem gì ở hoang địa?: Mặc dù có yếu điểm cho thấy nơi
các câu hỏi đặt ra bởi Gioan, Chúa Giêsu nói về người mở đường cho mình với sự
nhiệt thành như một vị ngôn sứ mà những lời thôi thúc của ông đã kết hợp các dấu
chỉ sống động và không thể chối cãi được về sự liên hệ đặc biệt của ông với
Thiên Chúa, Đấng mà ông nhân danh để nói với Dân của Chúa. Thay vào đó, với
hàng loạt sáu câu hỏi hoa mỹ thúc bách và ba lời bày tỏ tích cực, Chúa Giêsu bảo
rằng Gioan Tẩy Giả còn hơn một ngôn sứ nữa: ông là người mà sách
Kinh Thánh cổ xưa của cha ông đã nói đến, người ngôn sứ chuẩn bị dọn sẵn đường
cho Chúa (Mt 3:3) như các vị tiên tri xưa đã nói (Ml 3:1; Xh
23:20). Tuy nhiên, Chúa nhanh chóng giải thích lý do cho lời khẳng định
của Người: những điều này thậm chí có thể quá hiển nhiên cho những
người nghe.
§ Trong
tất cả các con cái người nữ sinh ra, chưa từng xuất hiện một ai cao trọng hơn
Gioan Tẩy Giả: Gioan không chỉ là một ngôn sứ nổi tiếng và là
người dọn đường cho Đấng Cứu Thế (bởi vì bây giờ Chúa Giêsu đã rõ ràng nhận
mình là như thế), mà ông cũng là một người cao trọng, cao trọng hơn những người
cùng thời với ông và cũng hơn cả những người đi trước ông. Đây là một lời
khen ngợi hoàn toàn mang tính cách cá nhân nhắn gửi đến người tù của vua Hêrôđê
và không phải là một lời nói cường điệu. Với những lời này, Chúa
Giêsu liệu trước được sự so sánh giữa Gioan Tẩy Giả và ngôn sứ Êlia, người mà
Chúa sẽ nói rõ ràng trong câu 14: “Nếu anh em chịu tin lời tôi, thì ông
Gioan chính là Êlia, người phải đến”.
· Câu “trong
tất cả các con cái người nữ sinh ra” mang một sắc thái thông thường của
người Do-Thái, nhưng nó cũng ám chỉ đến nguồn gốc mầu nhiệm của Chúa
Giêsu: Chúa cũng “được sinh ra bởi người nữ”, nhưng chỉ trong những
gì liên quan đến xương thịt, bởi vì nguồn gốc Thiên-Chúa-nhập-thể của Người đã
vượt quá xa bản tính loài người thông thường.
Việc
sinh ra của chúng ta là “con cái Thiên Chúa” trong đức tin cũng được gói ghém
trong sự mầu nhiệm: “Họ được sinh ra, không phải do khí huyết, cũng
chẳng do ước muốn của nhục thể, hoặc do ước muốn của người đàn
ông, nhưng do bởi Thiên Chúa” (Ga 1:13). Chúng ta “được
sinh bởi người nữ” nhưng chúng ta không phải để cho thế gian này, mà là cho
Vương quốc Nước Trời nơi chúng ta sẽ được phán xét theo đức tin và các việc làm
đức tin của chúng ta, thành quả của sự đón tiếp chúng ta trao cho ân sủng Thánh
Tẩy của chúng ta.
§ Nhưng
những người nhỏ nhất…: phần này của câu nói (có lẽ văn hoa) dường
như đặt để một giới hạn về lời giới thiệu nhiệt tình về Gioan Tẩy Giả. Mặc
dù là người cao trọng, nhưng Gioan lại là kẻ bé mọn trong Vương Quốc Nước Trời,
bởi vì ở đó tất cả mọi thứ được đo lường theo các tiêu chuẩn hoàn toàn khác với
những gì trên thế gian: sự đo lường về thời đại mới đang đến và đã bắt
đầu với người đến từ Con Thiên Chúa. Những ai thuộc về thời đại hoàn
toàn mới này thì cao trọng hơn bất cứ ai đã sống trong những thời đại trước đó,
thậm chí hơn cả Gioan Tẩy Giả.
· Sự
tương phản giữa “cao trọng” và “bé mọn” được tạo ra một cách chính xác để làm
rõ ràng cho tất cả các tín hữu rằng để được nên cao trọng người ta phải trở nên
nhỏ bé hơn. Trong “sự cao trọng” thuộc bản tính loài người của ông,
Gioan Tẩy Giả được giới thiệu bởi Chúa Giêsu như là người bé mọn nhất trong Nước
Trời và do đó ngay cả đối với Gioan, ông cũng cần phải “trở nên kẻ bé mọn”
trong bàn tay của Thiên Chúa. Đó cũng là một đòi hỏi tương tự hàng
ngày cho mỗi người chúng ta là những kẻ đang bị cám dỗ để được nên “cao trọng”
và “đầy quyền năng”, ít nhất là trong ước muốn của chúng ta!
5. Chúng
ta hãy cầu nguyện Lời Chúa và cảm tạ Chúa
Thiên
Chúa là niềm hoan lạc của chúng ta, Đấng ban ơn cứu độ cho tất cả mọi người (Thánh Vịnh 146)
CHÚA là Đấng giữ lòng trung tín mãi muôn đời,
xử công minh cho người bị áp bức,
ban lương thực cho kẻ đói ăn.
CHÚA giải phóng những ai tù tội,
CHÚA mở mắt cho kẻ mù loà.
CHÚA cho kẻ bị dìm xuống đứng thẳng lên,
CHÚA yêu chuộng những người công chính.
CHÚA phù trợ những khách ngoại kiều,
Người nâng đỡ cô nhi quả phụ,
nhưng phá vỡ mưu đồ bọn ác nhân.
CHÚA nắm giữ vương quyền muôn muôn thuở,
Xion hỡi, Chúa Trời ngươi hiển trị ngàn đời.
6.
Từ Lời Chúa đến chiêm niệm
Lạy
Chúa Giêsu,
Đấng
“sắp đến”,
xin đừng
chậm trễ nữa
và
xin hãy lắng nghe tiếng khóc than của người nghèo khó
những
kẻ hướng về Chúa
vì sự
cứu rỗi, công lý và niềm hân hoan.
Xin
hãy ban cho chúng con đôi mắt trong sáng và trái tim tinh khiết
để
chúng con có thể nhận thức được
sự hiện
diện tích cực và hiệu quả của Chúa
cũng
như trong các sự kiện
của
“ngày hôm nay” của chúng con
trông
thật là u ám
và
thiếu vắng các tia hy vọng!
Lạy
Chúa Giêsu, xin Người hãy đến!
Thần
Khí và Tân Nương nói: "Xin Ngài ngự đến! "
Ai
nghe, hãy nói: "Xin Ngài ngự đến! "
Ai
khát, hãy đến;
ai
muốn, hãy đến lãnh nước trường sinh mà không phải trả tiền.
Đấng làm chứng về những điều đó phán rằng:
Đấng làm chứng về những điều đó phán rằng:
"Phải,
chẳng bao lâu nữa Ta sẽ đến."
Amen.
Amen.
Lạy
Chúa Giêsu, xin Ngài ngự đến!” (Kh 22:17,20)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét