14/12/2016
Thứ Tư tuần 3 mùa vọng
Thánh Gioan Thánh Giá, linh mục, tiến sĩ Hội Thánh.
Lễ nhớ.
* Thánh Gioan thánh giá chào đời năm 1542 ở Phontivêrốt, nước Tây ban Nha. Sau một ít năm sống
trong dòng Cácmen, và được thánh
nữ Têrêxa thành Avila khuyến khích, thánh Gioan đã muốn thực hiện việc cải cách trong dòng. Điều này khiến thánh
nhân phải chịu đựng muôn vàn đau khổ, thử thách. Người qua đời tại Ubêđa, nổi tiếng là một bậc khôn ngoan, thánh thiện, như chúng ta có thể nhận thấy qua các tác phẩm của người.
Bài Ðọc I: Is 45, 6b-8. 18.
21b-26
"Trời cao, hãy đổ sương
mai!"
Trích sách Tiên tri Isaia.
Chính Ta là Chúa, và không có
Chúa nào khác. Ta đã dựng nên ánh sáng và tối tăm. Ta đã dựng nên hạnh phúc và
tai hoạ. Chính Ta là Thiên Chúa đã làm những sự ấy. Trời cao, hãy đổ sương mai!
Ngàn mây, hãy mưa Ðấng Công Chính! Ðất hãy mở ra và trổ sinh Ðấng Cứu Ðộ, và đồng
thời sự công chính hãy xuất hiện. Chính Ta là Chúa đã dựng nên loài người. Vì
Thiên Chúa, Ðấng đã dựng nên các tầng trời, chính Người đã dựng nên địa cầu, đã
tạo ra và làm cho (nó) bền vững. Người không dựng nên địa cầu hoang vu, nhưng
đã dựng nên cho người ta ở, chính Người phán: Ta là Chúa và không có Chúa nào
khác. Nào Ta chẳng phải là Chúa, và ngoài Ta, còn có Chúa nào khác đâu? Không
có Thiên Chúa công bình và cứu độ nào khác ngoài Ta.
Hỡi các người ở tận cùng trái đất,
hãy trở lại cùng Ta và các ngươi sẽ được cứu thoát. Vì Ta là Thiên Chúa và
không có Chúa nào khác. Ta lấy tên Ta mà thề; lời công chính phát xuất từ miệng
Ta sẽ không trở lại: mọi gối sẽ quỳ xuống trước mặt Ta, và mọi lưỡi sẽ lấy tên
Ta mà thề rằng: Nhờ Chúa mà tôi sẽ được công chính và sức mạnh. Người ta sẽ đến
cùng Chúa, và mọi kẻ chống đối Người sẽ phải hổ thẹn. Toàn thể dòng dõi Israel
sẽ được công chính hoá và được hiển vinh.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 84, 9ab-10. 11-12.
13-14
Ðáp: Hỡi các tầng trời, hãy đổ sương mai! Hỡi ngàn mây,
hãy mưa Ðấng Công Chính! (Is 45,8).
Xướng: 1) Tôi sẽ nghe Chúa là
Thiên Chúa của tôi phán bảo điều chi? Chắc hẳn Người sẽ phán bảo về sự bình an.
Vâng, ơn cứu độ Chúa gần đến cho những ai tôn sợ Chúa, để vinh quang Chúa ngự
trị trong đất nước chúng ta. - Ðáp.
2) Lòng nhân hậu và trung thành gặp
gỡ nhau, đức công minh và sự bình an hôn nhau âu yếm. Từ mặt đất, đức trung
thành sẽ nở ra, và đức công minh từ trời nhìn xuống. - Ðáp.
3) Vâng, Chúa sẽ ban cho mọi điều
thiện hảo, và đất nước chúng ta sẽ sinh bông trái. Ðức công minh sẽ đi trước
thiên nhan Chúa, và ơn cứu độ theo sau lốt bước của Người. - Ðáp.
Alleluia:
Alleluia, alleluia! - Chúa đến,
hãy ra đón Người, chính Người là Hoàng tử Bình an. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 7, 19-23 (Hl 18b-23)
"Hãy thuật lại với Gioan
những điều các ông đã nghe và đã thấy".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Luca.
Khi ấy, Gioan gọi hai người
trong số môn đệ của mình, sai họ đến thưa Chúa Giêsu rằng: "Ngài là Ðấng
phải đến chăng, hay chúng tôi còn phải chờ đợi Ðấng nào khác?" Khi những
người này đến cùng Chúa Giêsu, họ thưa Ngài rằng: "Gioan Tẩy Giả sai chúng
tôi đến hỏi Ngài: Ngài có phải là Ðấng phải đến, hay chúng tôi còn phải đợi Ðấng
nào khác?" Ngay lúc đó, Chúa chữa những người khỏi bệnh hoạn tật nguyền và
quỷ ám, và cho nhiều người mù được thấy. Ngài đáp lại rằng: "Các ông hãy về
thuật lại cho Gioan những điều các ông đã nghe và đã thấy: người mù xem được,
người què đi được, người phong hủi được sạch, kẻ điếc nghe được, người chết sống
lại, kẻ nghèo khó được rao giảng tin mừng; và phúc cho ai không vấp phạm vì
Ta".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Đấng Cứu Thế đến
Trong tác phẩm “Ngày Đức Kitô chết”
của Jim Bishop, có một đoạn mô tả những gì người Do thái cảm thấy về việc Đấng
Cứu Thế đến:
“Việc Đấng Cứu Thế đến là nỗi ám
ảnh của cả một quốc gia, là niềm vui ngoài mức tưởng tượng, là hạnh phúc vượt
khỏi niềm tin, là niềm an ủi cho những vất vả của con người, là giấc mơ của bậc
cao niên, là hy vọng của dân đang bị xiềng xích tủi nhục. Đấng Cứu Thế luôn
luôn là sự hứa hẹn của buổi sáng ngày mai”
“Chúa Giêsu chính là Đấng Cứu Thế
mà muôn dân hằng mong đợi. Ngài chính là sự hứa hẹn của buổi sáng ngày mai”. Quả
vậy, như trong bài Tin Mừng hôm nay, khi dẫn những lời tiên tri Isaia về thời Cứu
Thế, Ngài đã cho thấy Ngài là Đấng phải đến. Ngài đem đến Nước Thiên là một yếu
tố quyết định mạnh mẽ. Sau Ngài sẽ không còn ai sẽ đến, vì Ngài đã hoàn tất lời
sấm ngôn: “người mù được thấy, người què được đi, người phung hủi được sạch, kẻ
điếc được nghe, kẻ chết sống lại, người nghèo khó được nghe báo Tin Mừng”.
Mùa vọng nói với chúng ta về việc
Chúa Giêsu đến, Ngài không chỉ đến trong giòng lịch sử như chúng ta vẫn mừng kỷ
niệm vào lễ Giáng sinh, nhưng Ngài còn đến vào cuối lịch sử để làm thẩm phán
xét xử chúng ta nữa.
Ước gì chúng ta đừng chờ đợi một
Đấng nào khác ngoài Đức Kitô, cũng đừng đi lướt qua Đấng phải đến đang hiện diện,
cũng đừng khinh thường những giáo huấn của Ngài. Bởi vì Ngài là Đấng phải đến,
Ngài là Đấng đã đến trong thế gian, và Ngài là Đấng sẽ đến đầy quyền năng cao cả
để trả cho mỗi người tùy theo công việc họ đã làm. Ước gì chúng ta được vào số
những người được Ngài chúc phúc và mời gọi đến lãnh lấy nước Trời làm cơ nghiệp.
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Tư Tuần III MV
Bài đọc: Isa
45:6b-8, 18, 21b-25; Lk 7:18b-23.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Chỉ có một
Thiên Chúa mà thôi.
Con người có thể lỗi phạm đến
Thiên Chúa cả khi sung sướng hạnh phúc lẫn khi đau khổ buồn sầu. Con người quên
Thiên Chúa trong lúc được sung sướng hạnh phúc, vì họ cho đó là công sức của họ
hay một thần nào khác. Con người từ chối Thiên Chúa khi phải đương đầu với nghịch
cảnh và đau khổ, vì họ đặt câu hỏi nếu Thiên Chúa có uy quyền thay đổi và yêu
thương rất mực, tại sao Ngài lại để những đau khổ xảy ra cho con người, nhất là
những người "vô tội?" Vì thế, họ kết luận hoặc Thiên Chúa không uy
quyền hoặc Thiên Chúa không yêu thương, nên họ từ chối tin vào Ngài!
Các Bài Đọc hôm nay xác tín chỉ
có một Thiên Chúa duy nhất và Ngài quan phòng mọi sự trong trời đất này. Trong
Bài Đọc I, tiên-tri Isaiah quả quyết chỉ có một Thiên Chúa, Ngài tạo dựng mọi sự
trong vũ trụ, quan phòng mọi chuyện xảy ra: tốt cũng như xấu, và có quyền giải
thoát và ban ơn cứu độ cho những ai vững tin vào Ngài. Trong Phúc Âm, Gioan Tẩy
Giả sai hai môn đệ đến hỏi Chúa Giêsu: "Thầy có thật là Đấng phải đến
không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?" Chúa Giêsu trả lời hai người
ấy rằng: "Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai
nghe: người mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được
nghe, người chết trỗi dậy, kẻ nghèo được nghe tin mừng, và phúc thay người nào
không vấp ngã vì tôi."
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Ta là Đức Chúa, ngoài Ta ra, không có thần nào nữa.
1.1/ Thiên Chúa duy nhất: Khi nói đến uy quyền của Thiên Chúa, truyền thống
Do-thái cũng như Giáo Hội thường đề cập đến ba hoạt động chính của Ngài: tạo dựng,
quan phòng, và cứu độ. Trình thuật của Isaiah hôm nay dẫn chứng ba điều này như
sau:
(1) Ngài tạo dựng nên mọi sự
trong vũ trụ: Tiên-tri Isaiah loan báo: "Đây là lời của Đức Chúa, Đấng tạo
dựng trời cao - chính Người là Thiên Chúa nặn quả đất thành hình, củng cố cho bền
vững; Người dựng nên quả đất mà không để hoang vu, nặn ra nó cho muôn loài cư
ngụ."
(2) Ngài quan phòng mọi sự xảy
ra trong trời đất: "Ta là Đức Chúa, không còn chúa nào khác. Ta tạo ra ánh
sáng và dựng nên tối tăm, làm ra bình an và dựng nên tai hoạ. Ta là Đức Chúa,
Ta làm nên tất cả." Theo giáo huấn của Giáo Hội, Thiên Chúa, trong sự quan
phòng trời đất, dựng nên cả ánh sáng và tối tăm, những tai họa của trời đất
như: núi lửa, động đất, mưa bão... nhưng tội lỗi luân lý là hoàn toàn do con
người, vì Ngài đã cho con người được tự do chọn lựa.
(3) Ngài ban ơn cứu độ cho con
người: Thiên Chúa có quyền dạy dỗ con người bằng cách để những tai nạn xảy ra
cho họ, như bệnh tật, đau khổ, tù đày; nhưng nếu con người biết ăn năn xám hối,
chỉ một mình Ngài có uy quyền giải thoát con người. Trong lịch sử, Ngài giải
thoát họ bằng cách sai Moses và Aaron đưa dân ra khỏi đất nô lệ Ai-cập; hay
dùng Cyrus, vua Ba-tư để phóng thích cho dân hồi hương để xây dựng lại Đền Thờ
và quê hương; hay gởi Đấng Thiên Sai tới để chuộc tội cho dân, như lời tiên-tri
Isaiah loan báo: "Trời cao hỡi, nào hãy gieo sương, mây hãy đổ mưa, mưa đức
công chính; đất mở ra đi cho nẩy mầm ơn cứu độ, đồng thời chính trực sẽ vươn
lên. Ta là Đức Chúa, Ta đã làm điều ấy."
1.2/ Thái độ của con người trước
Thiên Chúa: Trước tiên, con người cần xác
tín: những gì Thiên Chúa đã hứa, Ngài không bao giờ rút lại. Tiên-tri Isaiah dẫn
chứng điều này qua sấm ngôn của Đức Chúa: "Ta lấy chính danh Ta mà thề, lời
chân thật này thốt ra khỏi miệng Ta, Ta quyết chẳng bao giờ rút lại: Trước mặt
Ta, mọi người sẽ quỳ gối, và mở miệng thề rằng: Chỉ mình Đức Chúa mới cứu độ và
làm cho mạnh sức."
Để được Thiên Chúa cứu độ, con
người cần qui hướng và đặt trọn vẹn niềm tin tưởng nơi Thiên Chúa: Nếu con người
cậy dựa vào Thiên Chúa, họ sẽ chiến thắng vẻ vang; nhưng nếu con người cậy dựa
vào sức mình hay nơi các thần khác, Ngài sẽ để mặc họ cho các sức mạnh của ma
quỉ và của thế gian hành hạ họ, và họ sẽ phải nhục nhã và thẹn thùng xấu hổ.
2/ Phúc Âm: Phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi.
2.1/ Câu hỏi của Gioan Tẩy Giả: Có nhiều giả thuyết khác nhau chung quanh câu hỏi của hai
môn đệ của Gioan Tẩy Giả: "Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là
chúng tôi còn phải đợi ai khác?"
(1) Ông nghi ngờ Chúa Giêsu là Đấng
Thiên Sai: Truyền thống Do-thái tin một Đấng Thiên Sai uy quyền, khi Ngài tới,
Ngài sẽ dùng uy quyền và sức mạnh để đanh đuổi ngoại bang và phục hồi địa vị ưu
việt cho người Do-thái. Khi không thấy điều này xảy ra, niềm tin của ông vào Chúa
Giêsu là Đấng Thiên Sai bị lung lay.
(2) Tuy Gioan tin Chúa Giêsu,
nhưng ông muốn hai môn đệ của ông tự tìm ra và củng cố niềm tin của họ bằng
cách gởi họ trực tiếp tìm câu trả lời từ miệng Chúa Giêsu. Một người có thể
nghe người khác nói về Chúa Giêsu hay đọc những sách nói về Ngài; nhưng để có
niềm tin vững mạnh vào Ngài, họ cần có kinh nghiệm trực tiếp với Chúa Giêsu.
(3) Gioan đang bị giam giữ khốn
khổ trong ngục thất, và sự giam giữ này làm lung lay đức tin của Gioan. Tại sao
Chúa Giêsu không dùng uy quyền ra tay giải thoát hay sai các thiên sứ của Ngài
đến để cứu ông thoát khỏi cảnh tù tội?
Cả ba giả thuyết đều có lý do,
vì dựa trên câu trả lời của Chúa Giêsu cho hai môn đệ.
2.2/ Câu trả lời của Chúa Giêsu: Thánh sử Lucas chú trọng đến ba điều quan trọng trong câu
trả lời của Chúa Giêsu:
(1) Chúa Giêsu có uy quyền chữa
bệnh: "Chính giờ ấy, Đức Giêsu chữa nhiều người khỏi bệnh hoạn tật nguyền,
khỏi quỷ ám, và ban ơn cho nhiều người mù được thấy." Hai môn đệ của Gioan
đã chứng kiến tất cả những việc này, và niềm tin của hai ông phải được củng cố
bởi những phép lạ của Chúa Giêsu.
(2) Chúa Giêsu củng cố niềm tin
cho Gioan: Đau khổ khi bị tù đày cần thiết để thanh luyện và củng cố đức tin
cho con người. Trong câu cuối, Ngài gián tiếp nhắn nhủ Gioan và hai môn đệ của
ông: "Phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi."
(3) Chúa Giêsu nhắc nhở cho
Gioan biết Ngài là Đấng mà tiên-tri Isaiah đã loan báo, và Ngài làm cho lời
tiên-tri Isaiah được ứng nghiệm: "Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những
điều mắt thấy tai nghe: người mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch,
kẻ điếc được nghe, người chết trỗi dậy, kẻ nghèo được nghe tin mừng."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Niềm tin của chúng ta vào
Thiên Chúa phải được củng cố và làm cho lớn mạnh mỗi ngày, để có thể giúp chúng
ta đứng vững trước phong ba của cuộc đời. Nếu không, chúng ta sẽ dễ dàng bỏ
Thiên Chúa để chạy theo các thần khác.
- Khi phải đương đầu với nghịch
cảnh, thay vì trách Thiên Chúa, chúng ta hãy tự kiểm điểm xem tại sao những điều
ấy xảy ra: có thể là tiếng kêu gọi thức tỉnh để trở về với Thiên Chúa hay có thể
là dịp để chúng ta luyện tập đức tin cho vững vàng hơn.
Linh mục Anthony Đinh Minh
Tiên, OP
14/12/16 THỨ TƯ TUẦN 3 MV
Th. Gio-an Thánh Giá, linh mục, tiến sĩ HT
Lc 7,19-23
Th. Gio-an Thánh Giá, linh mục, tiến sĩ HT
Lc 7,19-23
Suy niệm: Câu trả lời của Chúa Giê-su thật rõ ràng và dứt khoát: “…Về thuật lại cho ông Gio-an những điều mắt thấy tai nghe…, và phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi” (c.22-23). Chúa Giê-su rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa không chỉ bằng lời nói, nhưng còn bằng chính cuộc sống và hoạt động cụ thể của Ngài. Lời nói và hành động của Chúa Giê-su chứng thực Ngài là Đấng phải đến mà các tiên tri đã loan báo.
Hội Thánh, qua lời của Chân phước giáo hoàng Phao-lô VI, nhắc nhở ta: “Ngày nay người ta không thích nghe các thầy dạy, mà chỉ muốn nghe các chứng nhân, và nếu người ta có nghe các thầy dạy, là vì các thầy dạy ấy, trước đó, đã là những chứng nhân.”
Mời Bạn: Bản chất của Hội Thánh là loan báo Tin Mừng. Tất cả mọi Ki-tô hũu, bất kể già trẻ lớn bé, đều có bổn phận này. Tin Mừng của Chúa đã được truyền giảng vào quê hương ta gần 500 năm, nhưng kết quả thật khiêm tốn: vỏn vẹn 7,8 triệu người Công giáo trên tổng số 94 triệu dân! Phải chăng vì bạn và tôi, những người Ki-tô hữu, chưa thực thi sứ mạng loan báo này? Hay phải chăng chúng ta mới chỉ là “thầy dạy” mà chưa phải là “chứng nhân”?
Sống Lời Chúa: Xét mình kỹ lưỡng về “những điều thiếu sót”: Tôi chưa là chứng nhân, phải chăng vì tôi còn tránh né không làm những việc tốt và những việc bổn phận tôi phải làm?
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, xin
ban thêm đức tin
trong hành động, để chúng con luôn là chứng nhân, và không còn chờ đợi ai hay
cái gì khác ngoài Chúa.
Còn phải đợi ai? (14.12.2016 – Thứ tư Tuần 3 Mùa Vọng)
Ước gì chúng ta không
mất đức tin khi đứng trước máng cỏ, trước Hài Nhi Giêsu, nhỏ bé và yếu ớt, lặng lẽ và khiêm hạ, vì chúng ta tin Ngài cứu độ thế giới bằng chính sự yếu đuối.
Suy niệm:
Đường lối của Thiên Chúa lúc nào
cũng làm con người ngỡ ngàng.
Ngài có lối nghĩ, lối đi rất
riêng, khó đoán trước được.
Chính vì thế con người dễ bắt hụt
Ngài.
Ngài ở đây mà ta lại cứ đi tìm
Ngài ở kia.
Nhiều khi ta kêu ca vì không sao
gặp được Ngài
ở những điểm hẹn quen thuộc.
Phải đổi cái nhìn xưa, ra khỏi lối
nghĩ cũ, mới hy vọng gặp được Ngài.
Gioan có một hình ảnh khá rõ về
Đấng Mêsia.
Ngài như người cầm nia rê lúa và
đốt thóc lép trong lửa
hay như cái rìu chặt những cây
không sinh trái.
Đấng Mêsia thích dùng lửa để
thanh luyện cái xấu (Lc 3, 9, 16-17).
Gioan rất xác tín về hình ảnh
này của mình.
Vì thế ông sốt ruột khi không thấy
Đức Giêsu làm điều ông chờ đợi.
Trong bóng tối của nhà tù nằm ở
phía đông Biển Chết,
Gioan còn phải chiến đấu với
bóng tối của sự nghi ngờ nơi mình.
Đức Giêsu mà ông loan báo có
đúng là Đấng Mêsia không?
Ông sai hai môn đệ đến tận nơi gặp
Đức Giêsu, để hỏi cho ra lẽ.
“Thầy có thật là Đấng-phải-đến
không,
hay chúng tôi còn phải đợi ai
khác?” (c. 19).
Câu trả lời của Đức Giêsu cho thấy
một khuôn mặt Mêsia khác hẳn.
Ngài bảo hai môn đệ của Gioan về
thuật lại cho thầy mình
những gì họ mắt thấy tai nghe
vào chính giờ họ đến gặp (c. 21).
Có sáu dấu chỉ của thời đại
Mêsia, thời của Đấng Thiên Sai:
người mù được thấy, kẻ què được
đi, người cùi được sạch,
kẻ điếc được nghe, người chết trỗi
dậy,
và người nghèo được nghe Tin Mừng
(c. 22).
Đây là những dấu chỉ Ngài đã và
đang làm cho dân chúng.
Những dấu chỉ này làm cho bao lời
ngôn sứ Isaia ngày xưa
được ứng nghiệm (Is 26, 19; 29,
18-19; 35, 5-6; 42, 18; 61,1).
Như thế Đức Giêsu quả là Đấng
Mêsia,
nhưng không phải là Mêsia như
Gioan chờ đợi.
Ngài không phải là một Mêsia đến
phán xét hay tiêu diệt ác nhân,
cho bằng là một Mêsia khiêm nhu
và đầy lòng thương xót.
Đức Giêsu đến để công bố một năm
hồng ân cứu độ (Lc 4, 19).
“Phúc thay người nào không vấp
ngã vì tôi” (c. 23).
Muốn tránh vấp ngã, Gioan phải đổi
cái nhìn của mình về Đấng Mêsia.
Đổi cái nhìn về Thiên Chúa không
phải chuyện dễ.
Nhiều khi chúng ta thích một
Thiên Chúa chiến thắng vẻ vang,
một Thiên Chúa quyền uy, dùng sức
mạnh để chinh phục lòng người.
Chúng ta không chịu được một
Thiên Chúa kiên nhẫn với cỏ lùng,
và để cho kẻ ác nhởn nhơ tác oai
tác quái.
Ước gì chúng ta không mất đức
tin khi đứng trước máng cỏ,
trước Hài Nhi Giêsu, nhỏ bé và yếu
ớt, lặng lẽ và khiêm hạ,
vì chúng ta tin Ngài cứu độ thế
giới bằng chính sự yếu đuối.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa,
xin ban cho con đức tin lớn
hơn hạt cải,
để con làm bật rễ khỏi lòng
con
những ích kỷ và khép kín.
Xin cho con đức tin can đảm
để con chẳng sợ thiệt thòi
khi trao hiến,
chẳng sợ từ bỏ những gì con cậy
dựa xưa nay.
Xin cho con đức tin sáng suốt
để con thấy được thế giới
mà mắt phàm không thấy,
thấy được Đấng Vô hình,
nhưng rất gần gũi thân thương,
thấy được Đức Kitô nơi những người nghèo khổ.
Xin cho con đức tin liều lĩnh,
dám mất tất cả chỉ vì yêu Chúa và tha nhân,
dám tiến bước trong bóng đêm
chỉ vì mang trong tim một đốm lửa của Chúa,
dám lội ngược dòng với thế gian
và khước từ những mời mọc quyến rũ của nó.
Xin cho con đức tin vui tươi,
hạnh phúc vì biết những gì
đang chờ mình ở cuối đường,
sung sướng vì biết mình được yêu
ngay giữa những sa mù của cuộc sống.
Cuối cùng, xin cho con đức tin cứng cáp
qua những cọ xát đau thuong của phận người,
để dù bao thăng trầm dâu bể,
con cũng không để tàn lụi niềm tin
vào Thiên Chúa và vào con người.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu,
SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
14 THÁNG MƯỜI HAI
Chúa Đang Đến Gần
Hãy vui lên, Chúa đang đến gần!
Hãy nhân hậu và từ tâm, hãy sẵn lòng tha thứ cho nhau.
Chúa gần đến. Nguyện xin Người
ban bình an của Người cho bạn! Thánh Tông Đồ viết: “Sự bình an của Chúa, vốn vượt
trên mọi trí hiểu, sẽ canh giữ lòng trí anh em trong Đức Kitô Giêsu” (Pl 4,7).
Sự bình an ấy thật là một hồng
phúc lớn lao! Tiên vàn, đó là sự bình an của một lương tâm ngay thẳng. Chúa
đang đến gần, điều đó thúc bách chúng ta khảo sát lại lương tâm mình, thúc bách
ta dò xét các tư tưởng và hành động của ta trước mặt Người.
Sứ vụ của Gioan Tẩy Giả trên bờ
sông Gio-đan là một minh họa tuyệt vời về sự thúc bách này. Đó là lý do tại sao
phụng vụ mùa Vọng hơn một lần gợi cho chúng ta chú ý đến sứ vụ ấy. Gioan là vị
sứ giả loan báo rằng Đấng Mêsia đang đến gần. Ông đề nghị người ta hoán cải để
đón nhận Đấng ‘sẽ rửa anh em trong Thánh Thần và lửa’ (Lc 3,16).
Chính qua sứ vụ của Gioan trên bờ
sông Gio-đan mà con cái Israel nghe biết rằng Chúa đang đến gần. Trong ánh sáng
này, câu hỏi đầu tiên của dân chúng là: “Vậy chúng tôi phải làm gì đây?” (Lc
3,10). Gioan Tẩy Giả trả lời bằng cách mời gọi người ta sống công chính đích thực.
Ông mời gọi cả những người thu thuế và các binh lính. Thì ra, khi Chúa đến gần,
Người kêu gọi người ta hoán cải, canh tân, thay đổi cách sống.
Vâng, Thiên Chúa đang đến thật gần.
Người kêu gọi người ta qua tiếng nói lương tâm trong sâu thẳm lòng họ. Nếu tiếng
lương tâm nơi một người không vang lên, thì nghĩa là đương sự chưa gặp gỡ Thiên
Chúa, đương sự chưa cảm nếm được sự gần gũi của Thiên Chúa trong ”Tinh Thần và
Sự Thật” (Ga 4,23). Đương sự đã hụt mất Thiên Chúa hoặc chính đương sự đã quay
lưng tránh xa khỏi Người.
- suy tư 366 ngày của Đức
Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope
John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 14-12
Thánh Gioan Thánh Giá linh mục
tiến sĩ Hội Thánh
Is 45,6b-8.18.21b-25; Lc
7,19-23.
Lời suy niệm: “Phúc thay
người nào không vấp ngã vì tôi.”
Với Chúa Giêsu, Người đến và hiện
diện không phải là để tiêu diệt hay loại bỏ bất cứ một ai. Bởi vì Thánh Ý Chúa
Cha: “Ngài không muôn ai bị hư mất” Nên Người đã thực hiện những điều tốt lành
cho tất cả mọi người, mặc dầu trong số họ có kẻ bất toàn: người mù xem thấy, kẻ
què được đi, người phong được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ
nghèo nghe được Tin Mừng.
Lạy Chúa Giêsu. Xin Chúa ban
thêm ơn đức tin cho chúng con, để chúng con đừng vấp ngã vì tình thương của
Chúa đối với người tội lỗi, và sự chờ đợi để tha thứ cho những người biết sám hối
ăn năn. Xin cho chúng con đừng vấp ngã trước quyền năng của Chúa khi sự dữ đang
lấn át sự thiện trong đời sống xã hội.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 14-12: Thánh GIOAN THÁNH
GIÁ
Linh Mục Tiến Sĩ (1542 -
1591)
Gioan de Yepes sinh tại
Phontiveros, gần Avila. Tây Ban Nha ngày 24 tháng 6 năm 1542. Cha Ngài làm thợ
dệt, bị gia đình giàu có làmnghề buôn bán loại trừ vì đã cưới một người vợ kém
hơn. Mẹ Ngài là một người đàn bà thánh thiện, trở thành goá phụ sau khi sinh
Gioan. Không nguồn lợi, với 3 đứa con, bà đã làm thuê cho một thợ dệt. Bé Gioan
dần dần đã học nghề thợ mộc, may vá, điêu khắc, hội họa trong tình yêu mến Chúa
Giêsu Kitô.
Trong mọi việc, Ngài có thói
quen tự hỏi: - "Vào trường hợp tôi, Chúa Giêsu sẽ làm gì ?"
Ngài không trốn tránh một hy
sinh nào. Lúc 12 tuổi, Gioan được học đọc, học viết với các nữ tu ở Medina del
Campo. Đức bác ái của Ngài bao la: tư hồi còn niên thiếu, Ngài đã dùng giờ rảnh
để phục vụ các bệnh nhân ở nhà thương, dầu vẫn theo học văm phạm và triết học
nơi các cha dòng Tên.
Năm1563, Gioan gia nhập dòng
Carmêlô và năm sau được gửi học tại đại học Salamanca. Năm 1567 Ngài thụ phong
linh mục ở Medina và đã gặp thánh nữ Avila. Thánh nữ đã khuyên Ngài thực hiện
việc cải tổ dòng Camêlô như thánh nữ đang làm. Thánh nữ nói với Ngài: -
"Đây là công trình đòi hy sinh và máu. Tôi không biết cha sẽ phải chịu khổ
tới đâu nhưng chắc chắn cha phải chịu khổ".
Gioan trở thành người con thiêng
liêng của người nữ tu Carmêlô này. Cha 25 tuổi và chị 52 tuổi. Chị gửi cha đến
với hai người bạn ở Duruelô trong cảnh cô tịch và đây là nguồn gốc của dòng
Carmêlô canh tân đi chân không, Ngài lấy tên là Gioan Thánh Giá. Sự nghèo túng
thật khủng khiếp, Ngài chỉ sống bằng cỏ, nhưng vẫn dùng những khúc ca tạ ơn
Chúa vì đã chỉ cho biết phải sống và cư xử cách nào. Ngài hành động cách khác
thường trên những người chung quanh, giải thoát họ khỏi những việc hư hỏng, tạo
cho họ một lòng yêu thích hy sinh.
Sau khi chống lại đoàn thể các
tu sĩ Carmêlô ở Alcala de Hélenrés, Ngài trở thành tuyên úy của tu viện Avila
trong 5 năm, thánh nữ Têrêxa giới thiệu với con cái mình: - "Cha là vị
thánh".
Sự thánh thiện của Gioan vượt
quá nhiều người và trở nên khó hiểu, sự canh tân khiến Ngài bị tố cáo là nổi loạn.
Các thày dòng Carmêlô chước giảm chống lại các thày dòng Carmêlô đi chân không.
Cuối cùng, sau những nhục mạ dữ dội, Ngài bị cầm tù ở Tolêđô. Người ta đối xử cứng
rắn với Ngài, ba lần mỗi tuần họ đưa Ngài tới nhà cơm và đánh đập không nương
tay. Nhưng Ngài cảm thấy đang đi đúng đường Chúa muốn và tạ ơn Chúa vì đã chịu
được hạ nhục và chịu khổ cực. Những bắt bớ tăng thêm đức tin và lý tưởng của
Ngài. Đáp lại, Ngài yêu mến nhiều hơn và trong hầm tối thiếu khí trời, Ngài trước
tác những vần thơ bí nhiệm làm thành cuốn "Thánh ca thiêng liêng"
(cantiques spirituelles).
Được 9 tháng thánh nhân vượt ngục.
Trước khi đến tu viện định tới, Ngài dừng lại trong một dòng nữ. Ngài nghe một
nữ tu ca hát về "hạnh phúc của đau khổ" và bỗng Ngài phải bám chặt
vào cửa sắt nhà khách. Ngài đã xuất thần. Ý tưởng được chịu khổ vì Chúa đã làm
cho Ngài cả thấy dư tràn hạnh phúc. Phép lạ này trong tâm hồn, như muốn lôi kéo
cả thân xác đổi mới theo... thánh Têrêxa nói: - "Không có cách gì để nói về
Thiên Chúa với cha Gioan Thánh Giá. Ngài xuất thần ngay và lôi kéo người khác
theo".
Một ngày kia quỳ bên song sắt,
thánh nữ nghe cha nói về Chúa Ba Ngôi, thì thánh linh như muốn nâng Ngài lên.
Khiêm tốn, Ngài nắm lấy tay vào thành ghế. Nhưng hoạt động thần linh đã nâng
Ngài lên tới trần nhà. Têrêxa ở trước mặt Ngài cũng xuất thần và bay bổng. Một
nữ tu tiến vào, cảm kích và cảnh tượng vội đi gọi các nữ tu khác đến chiêm ngưỡng
cả hai vị thánh được Chúa chúc phúc.
Đức Thánh cha và vua Philipphe
II ủng hộ những cuộc cải cách và bây giờ Gioan phải nhận nhiều trọng trách.
Ngài làm bề trên dòng Calvariô. Ngài lập cộng đoàn Carmêlô Baeza và 3 năm sau
được chọn làm tu viện trưởng ở Grenade. Đi đường qua các thành Tây Ban Nha,
Ngài chinh phục các linh hồn về cho Chúa Kitô, chính Ngài đã xây dựng một thủy
lộ, một tu viện. Trong 15 ngày, Ngài đã viết cuốn "ngọn lửa tình yêu sống
động" (la vive flamme d'amour). Cuối cùng Ngài trở thành Tổng đại diện
Andalousia.
Sự trong trắng của thánh nhân đã
tạo cho Ngài một quyền năng trên quỉ thần. Ngài đã giải thoát nhiều bị quỉ ám.
Người ta nói rằng, bằng những dấu thánh giá Ngài dẹp tan cơn bão, bằng lời nguyện,
Ngài dập tắt một hỏa hoạn. Các thú vật quí mến Ngài. Để giữ mình trong sạch,
thánh nhân tự nhận lấy đau khổ nhưng lại rất thương cảm những đau khổ của người
khác, Ngài còn tế nhị hơn nữa đối với những đau khổ tinh thần mà Ngài gọi là
"đêm tối của tâm hồn". Nhưng Ngài hiểu rằng, những đau khổ này thanh
tẩy tâm hồn rất nhiều. Không kết hợp với Chúa được nếu không có khổ hạnh trong
tâm hồn.
Thường nhà dòng nghèo khó đến độ
có ngày không có bánh ăn. Tập họp ở nhà ăn, thánh nhân nói với các tu sĩ về hạnh
phúc được chịu khổ vì Chúa Giêsu Kitô. Họ khóc vì nhiệt tâm và lui ra. Bỗng
chuông reo, một người vô danh đã đem bánh cho nhà dòng. Các tu sĩ trở lại phòng
ăn. Lần này, thánh nhân khóc và nói: - "Oi, vậy là Chúa đã thấy sự yếu đuối
của chúng con không chịu thử thách được lâu. Ngài đã sớm thương hại chúng
ta".
Lần kia, Ngài đã trả lời Chúa
Giêsu khi Ngài hỏi về phần thưởng Ngài muốn rằng: - "Lạy Chúa, xin cho con
được chịu khổ và bị khinh miệt vì Chúa".
Và Ngài đã xin ba ơn này là: đừng
có ngày nào mà không được chịu đau khổ, đừng là bề trên vào lúc chết và được chết
trong khiêm hạ. Thiên Chúa đã nhận lời Ngài.
Những tháng bị giam cầm, với bao
đau khổ dữ dằn người ta đối xử, đã hủy hoại thân thể Ngài. Mệt nhọc vì du hành
tới Andalousia, làm thánh nhân bị thiêu đốt ở chân, các vết thương mở rộng.
Ngài chịu đau đớn kinh khủng đến nỗi lần kia Ngài nói với người đối thoại: -
"Xin lỗi, tôi không trả lời nổi. Tôi bị đay nghiến và đau nhức".
Thánh nhân được chọn một trong
hai nơi để chữa bệnh, hoặc ở Baeza, nơi người ta qúi mến, hoặc ở Ubeda, nơi tu
viện trưởng có ác cảm với Ngài. Ngài đã chọn tu viện Ubeda. Những cư xử nghiêm
nhặt làm cho Ngài đau đớn thêm. Nhưng Ngài càng ôm chặt thánh giá vào lòng. Vị
tu viện trưởng cảm động vì sự dịu dàng không mệt mỏi, vì lòng bác ái sâu xa của
bệnh nhân, cuối cùng đã hiểu và xin Ngài tha thứ.
Gioan báo trước mình sẽ chết đêm
14 tháng 12 (năm 1591). Các tu sĩ đọc kinh phó linh hồn, Ngài xin đọc sách Diễn
tình ca. Các cơn đau không ngừng gia tăng khi chuông reo giờ kinh sáng, Ngài cầm
thánh giá nói: - "Lạy Chúa, con phó linh hồn trong tay Chúa".
Ngài còn nhìn các tu sĩ, hôn
Chúa Kitô và tắt thở. Ngài đã viết: - "Vào xế chiều cuộc sống này, bạn được
phán xét về tình yêu".
Gioan Thánh Giá để lại nhiều
sách luôn được suy gẫm như: Đường lên Carmêlô, đêm tối tâm hồn, Ngọn lửa tình
yêu sống động, thánh ca thiêng liêng. Ngài được tuyên thánh năm 1726. Và Đức
Piô XI đã đăt Ngài làm tiến sĩ Hội Thánh năm 1962.
(daminhvn.net)
14 Tháng Mười Hai
Cánh Tay Của Người Ganh Tị Và Tham Lam
Câu chuyện có tính cách ngụ
ngôn sau đây đã xảy ra tại thế kỷ thứ 16 tại Ấn Ðộ. Trong triều đình có hai
viên sĩ quan nổi tiếng vì những đam mê của mình. Một người thì ganh tị, một người
thì tham lam.
Ðể chữa trị những tính xấu ấy,
vua cho triệu tập hai viên sĩ quan vào giữa triều đình. Vua thông báo sẽ tưởng
thưởng hai viên sĩ quan vì những phục vụ của họ trong thời gian qua. Họ có thể
xin gì được nấy, tuy nhiên, người mở miệng xin đầu tiên chỉ được những gì mình
muốn, còn người thứ hai sẽ được gấp đôi.
Cả hai viên sĩ quan đều đứng
thinh lặng trước mặt mọi người. Người tham lam nghĩ trong lòng: nếu tôi nói trước,
tôi sẽ được ít hơn người kia. Còn người ganh tị thì lý luận: thà tôi không được
gì còn hơn là mở miệng nói trước để tên kia được gấp đôi... Cứ thế, cả hai đều
suy nghĩ trong lòng và không ai muốn lên tiếng trước. Cuối cùng, vua mới quyết
định yêu cầu người ganh tị nói trước. Người này lại tiếp tục suy nghĩ: thà
không được gì còn hơn để tên tham lam kia được gấp đôi. Nghĩ như thế, hắn mới
dõng dạc tuyên bố: "Tôi xin được chặt đứt một cánh tay...". Hắn cảm
thấy sung sướng với ý nghĩ là người tham lam sẽ bị chặt hai cánh tay.
Lắm khi chúng ta không hài lòng
về cái mình có và chúng ta cũng không sung sướng khi người khác gặp nhiều may mắn
hơn chúng ta. Không bằng lòng về chính mình, chúng ta không được hạnh phúc, mà
bất mãn về người khác, chúng ta lại càng đau khổ hơn.
(Lẽ Sống)
Lectio Divina: Luca 7:19-23
Thứ Tư, 14 Tháng 12, 2016
Thứ Tư sau CN III Mùa Vọng
1. Lời nguyện mở đầu
Chúng con nguyện cầu cùng Thiên
Chúa toàn năng,
Rằng việc đang ngự đến trang trọng
của Con Chúa
Có thể ban cho chúng con ơn chữa
lành trong cuộc sống đời này
Và mang lại cho chúng con phần
thưởng sự sống đời đời.
Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu
Kitô, Chúa chúng con, là Con Chúa,
Đấng hằng sống hằng trị cùng
Chúa trong sự hiệp nhất của Chúa Thánh Thần,
Một Thiên Chúa, đến muôn thuở
muôn đời.
2. Tin Mừng theo
thánh Luca 7:18b-23
Khi ấy, Gioan gọi hai người
trong số môn đệ của mình, sai họ đến thưa Chúa Giêsu rằng: “Ngài là Đấng
phải đến chăng, hay chúng tôi còn phải chờ đợi Đấng nào khác?”
Khi những người này đến cùng
Chúa Giêsu, họ thưa Ngài rằng: “Gioan Tẩy Giả sai chúng tôi đến hỏi
Ngài: Ngài có phải là Đấng phải đến, hay chúng tôi còn phải đợi Đấng
nào khác?”
Ngay lúc đó, Chúa chữa những người
khỏi bệnh hoạn tật nguyền và quỷ ám, và cho nhiều người mù được thấy.
Ngài đáp lại rằng: “Các
ông hãy về thuật lại cho Gioan những điều các ông đã nghe và đã thấy: người
mù xem được, người què đi được, người phong hủi được sạch, kẻ điếc nghe được,
người chết sống lại, kẻ nghèo khó được rao giảng Tin Mừng; và phúc cho ai không
vấp phạm vì Ta.”
3. Đọc và Tìm Hiểu
Đoạn Tin Mừng này được tìm thấy
trong sách Tin Mừng theo Mátthêu lẫn trong sách theo Luca và được chèn vào giữa
câu chuyện về phép lạ Chúa cho con trai bà góa thành Naim sống lại (theo sách
Tin Mừng của Luca) và bài giảng của Chúa Giêsu với ông Gioan Tẩy Giả. Trong
bối cảnh này, chúng ta có thể nói về đoạn Tin Mừng này như có phận sự đưa chúng
ta từ hình ảnh Chúa Giêsu chữa lành, ngay cả cái chết, đến lời mời gọi sửa đổi,
được nhắc nhở bởi chính Chúa Giêsu trong ba đoạn Tin Mừng liên tiếp: chú
trọng vào ông Gioan Tẩy Giả, lời nhận xét về thế hệ của Người và việc chấp nhận
cử chỉ của người phụ nữ tội lỗi trong nhà người Biệt Phái. Đoạn văn
bản này có thể được hiểu trong bối cảnh sâu xa hơn nữa: trong toàn bộ
sự kiện của ông Gioan Tẩy Giả và trong kinh nghiệm được nói trước của dân
Israel rằng chờ đợi, và có kinh nghiệm về lắng nghe Thiên Chúa là Đấng đang ngự
đến với họ.
Các môn đệ của ông Gioan Tẩy Giả
giữ một vai trò căn bản ở đây, họ xuất hiện ở lúc bắt đầu và lúc kết thúc câu
chuyện; họ là phương tiện thông tin liên lạc giữa thày của họ, đang bị giam giữ
trong nhà tù của vua Hêrôđê (xem Lc 3:19-20), và Chúa Giêsu. Họ báo
tin cho ông Gioan Tẩy Giả và hai trong số này đại diện ông Gioan trở lại với
câu hỏi trực tiếp đến Tôn Sư của làng Nagiarét: cả hai lần thánh
Luca nêu ra câu hỏi, có tầm quan trọng rất lớn. Và câu hỏi được nêu
ra về việc chờ đợi. Ông Gioan biết rằng có một đấng nào đó phải đến. Vấn
đề là Đấng ấy có phải là Chúa Giêsu không hay là họ còn phải chờ đợi Đấng nào
khác. Việc mà ông Gioan cho người đến hỏi thẳng Chúa Giêsu có nghĩa
là ông đã tin tưởng vào Người. Có lẽ ông đã nhầm lẫn bởi vì thiếu hiểu
biết về sự thực hiện trong hình ảnh Kinh Thánh về “Ngày của Chúa”, đó là nền tảng
cho mọi lời rao giảng của ông (xem Lc 3:7 và các câu kế tiếp).
Có vẻ như là đoạn Tin Mừng làm một
bước nhảy vọt lớn ở đây: câu hỏi đang còn bị bỏ lửng và lập tức, việc
hoàn thành các công việc chữa lành của Chúa Giêsu “cho tất cả mọi người” được
đưa ra, được kết thúc với món quà sự sáng cho những người mù. Và sau
các công việc chữa lành thì trở lại với câu trả lời. Chúa Giêsu nói
với các môn đệ của ông Gioan: “Các ông hãy đi về”: đó là
một sứ vụ, liên quan đến những gì đã được mặc khải – bằng bất cứ phương tiện gì
– với những gì đã được công bố (xem Lc 3:8). Giờ đây, Tin Mừng được
hoàn thành, và đang xảy ra, bởi vì các công việc mà Người thực hiện là những gì
đã được các ngôn sứ loan báo từ lâu (giống như một bài “lectio”, trong nhiều đoạn
khác nhau của sách tiên tri Isaia; nhưng lần này, việc người mù được thấy thì
được đề cập đến đầu tiên). Đây là một thông điệp không thể nhầm lẫn
đối với một người như ông Gioan, người mà Ngôi Lời Thiên Chúa đã đến (xem Lc
3:2). Sau cùng, có một ân phúc mà có vẻ như là kỳ lạ bởi vì nó được
biểu hiện một cách tiêu cực: phúc cho ai không vấp phạm vì Chúa
Giêsu, một trở ngại trong con đường đức tin. Làm thế nào mà chúng ta
có thể hiểu được điều này? Chắc chắn rằng đó là một ân phúc cao xa
hơn sứ điệp của ông Gioan Tẩy Giả, và nó được gửi đến cho người đang nghe Lời
Chúa.
4. Suy Niệm
Bối cảnh của văn bản này đã được
chỉ ra cho chúng ta thấy mối quan hệ giữa ân sủng và trách nhiệm, giữa sáng kiến
của Thiên Chúa và những gì đáp trả lại từ chúng ta. Thiên Chúa kêu gọi
và yêu thương trước, nhưng mong muốn một sự đồng ý tự nguyện và có trách nhiệm: một
sự đáp trả như thế thì có thể bởi vì Thiên Chúa yêu thương chúng ta trước.
Sự việc mà các môn đệ xuất hiện
tại điểm này cho thấy rằng ông Gioan không chỉ quan tâm đến thời điểm hiện tại,
mà cũng quan tâm đến “sự tề chỉnh tinh thần” của các hoạt động mà đối với những
ai ông Gioan là người tiêu biểu. Khi bắt đầu cho sứ vụ rao giảng
công khai của Chúa Giêsu, hai môn đệ của ông Gioan đã trở thành môn đệ của Người
(xem Ga 1:37), và nhiều năm sau đó, ngay cả thánh Phaolô cũng đã gặp những người
đã được nhận phép rửa từ ông Gioan (xem Cv 19:1-7).
Tâm điểm của đoạn Tin Mừng này
là chủ đề của sự chờ đợi được hoàn thành, theo chương trình của Thiên Chúa, được
loan báo và không chỉ đơn giản được biên soạn bởi các ngôn sứ của nhà
Israel. Ngay cả Lời Chúa không làm vơi đi và làm giảm thiểu độ
nghiêm túc của Thiên Chúa là Đấng yêu thương và ban cho lòng thương xót và sự gần
gũi trong chính Con Người – một khả năng để nhận lãnh với đức tin chính đáng
như việc chữa lành người mù cho thấy. Và chính đức tin dẫn đến sự
phúc lành. Điều được công bố bởi Đức Giêsu tại cuối của đoạn Tin Mừng
chỉ hiểu được nếu ta cân nhắc trách nhiệm về phía người tuân theo, nơi mà có
nguy cơ bị vấp phạm; khi ấy thật là cần thiết phải suy gẫm, gạt bỏ sang bên những
kỳ vọng và thành kiến của loài người, để tự do mở lòng mình ra với sự đơn sơ của Thiên
Chúa trong con người của Đức Giêsu đang làm. Chính lý luận của Vương Quốc
Thiên Chúa, nó đã vượt quá sự dũng cảm của ông Gioan (Lc 2:28).
Chúng ta phải tự hỏi mình:
* Chúng ta có sống Lời
Chúa như một sự năng động của việc hoán cải không?
* Chúng ta có đọc các
dấu chỉ của sự hiện diện sống động của Thiên Chúa ngay cả trong thời đại của
chúng ta không?
* Chúng ta có tin tưởng
tích cực vào Tin Mừng, như các môn đệ đích thực không?
5. Cầu nguyện
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con
đôi mắt để thấy và đôi tai để nghe.
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con
sự can đảm luôn tìm kiếm chân lý và mong muốn có sự mặc khải của Chúa trong sự
cầu nguyện.
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con
sự khôn ngoan để đi với tha nhân, với những ai đã hiểu được đường lối của Chúa
và những ai đang tìm tiếm sự hiện diện của Chúa.
6. Chiêm Niệm
Đoạn Tin Mừng này mời gọi chúng
ta nhận ra được phong cách của Chúa Giêsu: kiên nhẫn, chào đón, soi
sáng.
Lắng nghe Lời Chúa đòi hỏi một
cái nhìn bao quát về những gì đã được mặc khải, mà không bị quá gò bó về điều ấy: bởi
vì trong mỗi trường hợp Chúa Giêsu đem đến sự soi sáng.
Hơn nữa nó mời gọi chúng ta biết
cách đọc các hành động của Thiên Chúa trong thế gian; đó là, nhận ra “những dấu
chỉ của thời đại”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét