Ngày 17 tháng 12
Mùa Vọng
Bài Ðọc I: St 49, 2. 8-10
"Phủ việt sẽ không cất
khỏi Giuđa".
Bài trích sách Sáng Thế.
Ngày ấy, Giacóp triệu tập con
cái lại và nói rằng: "Hỡi con cái Giacóp, hãy hợp lại và nghe cha đây. Hỡi
nhà Israel, hãy nghe lời cha của các con. Giuđa, anh em con sẽ ca tụng con. Bàn
tay con sẽ đè trên ót quân thù; con cái của cha con sẽ phục lạy con. Giuđa là
sư tử con, hỡi con của cha, con đã chồm lên bắt mồi, con đã nằm xuống nghỉ
ngơi, như giống sư tử đực, tựa nòi sư tử cái, ai dám khiêu khích nó? Phủ việt sẽ
không cất khỏi Giuđa, gậy chỉ huy không rời khỏi chân nó, cho đến lúc Ðấng
thiên sai ngự đến, là Ðấng chư dân đợi trông".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 71, 2. 3-4ab. 7-8. 17
Ðáp: Sự công chính và nền hoà bình viên mãn sẽ triển nở
trong triều đại người tới muôn đời (x. c. 7).
Xướng: 1) Lạy Chúa, xin ban quyền
xét đoán khôn ngoan cho đức vua, và ban sự công chính cho hoàng tử, để người
xét đoán dân Chúa cách công minh, và phân xử người nghèo khó cách chính trực. -
Ðáp.
2) Núi non đem an hoà cho dân,
và nổng đồi mang lại đức công chính. Người bênh chữa kẻ hèn trong dân, và cứu
thoát con cái nhóm nghèo. - Ðáp.
3) Sự công chính và nền hoà bình
viên mãn sẽ triển nở trong triều đại người, cho đến khi mặt trăng không còn chiếu
sáng. Và người sẽ thống trị từ biển nọ đến biển kia, từ sông cái đến tận cùng
trái đất. - Ðáp.
4) Chúc tụng danh người đến muôn
đời, danh người còn tồn tại lâu dài như mặt trời. Vì người, các chi họ đất hứa
sẽ được chúc phúc, và các dân nước sẽ ca ngợi người. - Ðáp.
Alleluia:
Alleluia, alleluia! - Lạy Ðức
Thượng Trí của Ðấng Tối Cao, Ngài an bài mọi sự cách mạnh mẽ và dịu dàng, xin
hãy đến dạy dỗ chúng con con đường khôn ngoan. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 1, 1-17
"Gia phả của Chúa Giêsu
Kitô, con vua Ðavít".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Matthêu.
Sách gia phả của Chúa Giêsu
Kitô, con vua Ðavít, con của Abraham. Abraham sinh Isaac; Isaac sinh Giacóp;
Giacóp sinh Giuđa và các anh em người. Giuđa sinh Phares và Zara bởi bà Thamar;
Phares sinh Esrom; Esrom sinh Aram; Aram sinh Aminadab; Aminadab sinh Naasson;
Naasson sinh Salmon; Salmon sinh Booz do bà Rahab; Booz sinh Giobed do bà Rút.
Giobed sinh Giêsê; Giêsê sinh vua Ðavít.
Ðavít sinh Salomon do bà vợ của
Uria; Salomon sinh Robo-am; Roboam sinh Abia; Abia sinh Asa; Asa sinh
Giosaphát; Giosaphát sinh Gioram; Gioram sinh Ozia; Ozia sinh Gioatham;
Gioatham sinh Achaz; Achaz sinh Ezekia; Ezekia sinh Manas-se; Manasse sinh
Amos; Amos sinh Giosia; Giosia sinh Giêconia và các em trong thời lưu đày ở
Babylon.
Sau thời lưu đày ở Babylon,
Giêconia sinh Salathiel; Sala-thiel sinh Zorababel; Zorababel sinh Abiud; Abiud
sinh Eliakim; Eliakim sinh Azor; Azor sinh Sađoc; Sađoc sinh Akim; Akim sinh
Eliud; Eliud sinh Eleazar; Eleazar sinh Mathan; Mathan sinh Giacóp; Giacóp sinh
Giuse, là bạn của Maria, mẹ của Chúa Giêsu gọi là Ðức Kitô.
Vậy, từ Abraham đến Ðavít có tất
cả mười bốn đời, từ Ðavít đến cuộc lưu đày ở Babylon có mười bốn đời, và từ cuộc
lưu đày ở Babylon cho đến Chúa Kitô có mười bốn đời.
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Gia Phả Của Chúa Giêsu
Kitô
Ðể ứng nghiệm Lời Chúa hứa ban
ơn cứu chuộc sau khi Adam và Eva tổ tiên con người phạm tội, Kinh Thánh đã có
câu: "Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai và tên con trẻ
sẽ gọi là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta".
Trong bài Tin Mừng hôm nay,
thánh Matthêu đã kể lại gia phả của Chúa Giêsu để gợi lên cho chúng ta biết rằng,
Thiên Chúa đã chuẩn bị chương trình cứu rỗi của Ngài trải qua dòng thời gian rất
lâu dài, chu đáo và kỹ lưỡng. Thiên Chúa đã chọn tổ phụ Abraham là mẫu gương
cho những ai tin Ngài và Abraham được gọi là cha các kẻ tin. Ðức tin là điều kiện
tiên quyết khi chúng ta gia nhập vào Giáo Hội Công Giáo. Chính khi bắt đầu gia
nhập vào Giáo Hội, Linh Mục hỏi: "Con xin gì cùng Hội Thánh". Chúng
ta thưa: "Thưa, con xin đức tin".
Khi Thiên Chúa gọi Abraham ra đi
để làm cha các dân tộc dù ông đang ở tuổi già. Thường ở lứa tuổi này ít ai dám
mạo hiểm xông pha để khám phá những nơi rừng núi nguy hiểm đang đón chờ mà trí
óc già cả lẩm cẩm không thể dễ dàng suy tính nhanh nhẹn, xoay sở, ứng biến y
như hồi còn trẻ được. Thiên thần với hình dáng của một người qua đường đến báo
với ông rằng bà Sara, vợ ông mặc dù đã già nhưng vào thời kỳ này qua năm bà sẽ
sinh con, và Sara cười có vẻ mỉa mai vì không tin, nhưng ông, ông vẫn tin tưởng
việc Chúa làm.
Rồi khi sinh được đứa con trai
duy nhất là Isaac, Thiên Chúa lại muốn thử thách lòng tin của ông một lần nữa,
Ngài truyền đem Isaac lên núi để hiến tế. Dù rất đau lòng vì tình phụ tử dạt
dào nhất trong cảnh cha già con muộn, Abraham vẫn lẳng lặng cúi đầu, cặm cụi mò
mẫm lê tấm thân già nua cùng với đứa con leo lên núi cao để sát tế con độc nhất
của mình dâng cho Thiên Chúa. Từ lòng tin kiên vững và sâu xa đó, Abraham đã được
hưởng lời Chúa hứa: "Abraham là cha các dân tộc đông đúc như sao trên trời,
như cát dưới biển". Dòng họ này kế tiếp dòng họ kia, từ Abraham đến vua
David có mười bốn đời, từ vua David đến thời kỳ lưu đày ở Babylon gồm có mười bốn
đời. Tổng cộng từ Abraham đến Chúa Giêsu là đời thứ bốn mươi hai.
Ðiểm thứ hai trong bài Tin Mừng
hôm nay gợi lên một cái nhìn chân xác: "Xem quả thì biết cây". Cây tốt
sinh trái tốt. Không thể tìm hoa hồng nơi bụi cỏ gai rậm rạp được. Chúng ta
cũng thường nghe nói: "Hổ Phụ Sinh Hổ Tử", cha mẹ hiền lành chắc hẳn
con cái không hung dữ được, hoặc "con nhà tông không giống lông cũng giống
cánh".
Là người Kitô hữu thì tất cả mọi
người đều là anh em với nhau, có Thiên Chúa là Cha, Ngài là Ðấng nhân từ, khoan
dung, yêu thương và đầy lòng tha thứ. Chúng ta học theo tính tình người Cha, bắt
chước Cha để trở nên khoan dung độ lượng, yêu thương và tha thứ. Không một lý
do gì mà chúng ta không ăn ở thuận hòa với nhau trong cuộc sống, không một lý
do gì mà chúng ta không yêu thương hiệp nhất nối kết chúng ta lại với nhau
trong tình yêu của một Cha chung. Những thiếu sót, khuyết điểm lầm lỗi của nhau
không còn cản trở tình thương đang đổ chan hòa trên chúng ta là con cái yêu
thương của một người Cha nhân từ. Yêu nhau không phải là nhìn nhau nhưng là
cùng nhìn về một hướng, hướng đó là hướng đích điểm nhắm về Cha là Thiên Chúa.
Ðừng để những gai nhọn hai bên đường làm chúng ta mất thì giờ dừng lại trên con
đường dài thăm thẳm tiến về Nước Trời để rồi chúng ta không tiến bước được về
nhà Cha là nơi Cha vĩnh cửu luôn yêu thương và chờ đón chúng ta.
Lạy Chúa, xin cho chúng con ý thức
được Chúa đã chuẩn bị chương trình cứu rỗi yêu thương của Thiên Chúa như thế
nào đối với nhân loại, trong đó có chúng con để chúng con cố gắng sống xứng
đáng với lòng yêu thương mà Chúa đã dành cho chúng con.
Lạy Chúa, Chúa đã chọn
Abraham làm cha các kẻ tin. Xin ban cho chúng con có một niềm tin kiên vững và
mạnh mẽ để chúng con tìm thấy thánh ý Chúa trong cuộc sống hằng ngày trên con
đường tiến về quê trời. Không phải chúng con tìm thấy hoa nở hai bên đường nhưng
xin Chúa ban thêm nghị lực, kiên nhẫn, bình an và lạc quan để chúng con vững bước
về với người Cha đầy thân yêu nhân ái đang chờ đón chúng con. Amen.
Veritas
Asia
Lời Chúa Mỗi Ngày
Ngày 17 tháng 12 MV
Bài đọc: Gen 49:2,
8-10; Mt 1:11-17.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Đấng Cứu Thế
được sinh ra trong lịch sử.
Niềm tin của con người vào Đấng
Cứu Thế không phải là một niềm tin trừu tượng; ví dụ, tin vào một vị thần không
có nguồn gốc; nhưng là một niềm tin vào Đấng có gia phả trong lịch sử con người.
Đấng Cứu Thế đã được Thiên Chúa hứa ngay từ thuở ban đầu, và được nhắc đi nhắc
lại cho con người nhớ theo giòng lịch sử. Kinh Thánh gọi đó là Kế Họach Cứu Độ.
Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa
đã có sẵn từ thuở ban đầu, và đã được mặc khải cho con người ngay từ khi Ông
Adong và Bà Evà sa ngã trong Vườn Địa Đàng, khi Thiên Chúa tuyên án con rắn:
“Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa giòng dõi mi và giòng dõi người
ấy; giòng dõi đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó.” (Gen 3:15).
Trải qua giòng lịch sử của
Do-Thái, Thiên Chúa không ngừng chuẩn bị cho Kế Họach Cứu Độ này. Trong Bài Đọc
I từ Sách Sáng Thế Ký, Tổ-phụ Jacob đã chúc lành đạc biệt cho giòng dõi Judah;
vì Tổ-phụ đã nhìn thấy trước ngày giòng dõi này sẽ làm vua và cai trị các anh
em mình. Đồng thời, Tổ-phụ cũng tiên đóan Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra từ giòng dõi
Judah. Trong Phúc Âm, Thánh-sử Matthêu tường thuật gia phả của Đức Kitô, Con
Thiên Chúa. Bắt đầu từ thời các Tổ-phụ Abraham, Isaac, và Jacob cho đến thời
Vua David là 14 đời; từ thời Vua David cho đến Thời Lưu Đày Babylon là 14 đời;
sau Thời Lưu Đày cho đến thời Đấng Cứu Thế sinh ra cũng 14 đời. Trình thuật
Matthêu hôm nay chỉ tường thuật từ Thời Lưu Đày cho đến khi Đấng Cứu Thế sinh
ra.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Tổ phụ Jacob chúc lành cho giòng dõi Judah.
Chương 49 của Sách Sáng Thế Ký
là những lời chúc lành và trăn trối của Tổ-phụ Jacob (Israel) cho 12 con mình,
tượng trưng cho 12 chi tộc của Israel. Nhà Giuse được chia thành 2 chi tộc:
Benjamin và Manasseh. Tổ phụ Jacob kêu các con đến trước khi chúc lành: “Hỡi
các con của Jacob, hãy tụ tập lại mà nghe, hãy nghe Israel, cha các con.” Trình
thuật hôm nay chỉ chú ý đặc biệt đến chi tộc Judah; vì từ chi tộc này sẽ phát
sinh Đấng Cứu Thế.
1.1/ Giòng dõi Judah sẽ cai trị các
anh em: Judah là đứa con duy nhất được khen
ngợi trước khi chúc lành. Tổ-phụ Jacob chúc lành và nói tiên tri về chi tộc
Judah: “Con sẽ được anh em con ca tụng, tay con sẽ đặt trên ót các địch thù,
anh em cùng cha với con sẽ sụp xuống lạy con. Judah là sư tử con. Con ơi, săn mồi
xong con lại trở về. Nó quỳ xuống, nằm phục như sư tử và như sư tử cái: ai sẽ
làm cho nó đứng dậy?”
1.2/ Giòng dõi Judah sẽ làm vua: Thời của Tổ-phụ Jacob là thời của Bộ-tộc, Israel chưa có
vua. Hàng ngũ lãnh đạo gồm các thượng tế, bô lão, và thủ lãnh. Israel chỉ có
vua sau thời Moses gần 200 năm, bắt đầu với Vua Saun, sau đó tới David,
Solomon. Thế mà tổ phụ Jacob đã được Thiên Chúa cho nhìn thấy trước ngày giòng
dõi Judah sẽ làm vua: “Vương trượng sẽ không rời khỏi Judah, gậy chỉ huy sẽ
không lìa đầu gối nó, cho tới khi người làm chủ vương trượng đến, người mà muôn
dân phải vâng phục.”
1.3/ Từ giòng dõi Judah sẽ phát
sinh Đấng Cứu Thế: Không những nhìn thấy
ngày giòng dõi Judah sẽ nối nhau làm vua, tổ phụ Jacob còn được Thiên Chúa cho
nhìn thấy Ngày Đấng Cứu Thế ra đời. Ngài tuy xuất thân từ giòng dõi Judah,
nhưng lại là chủ của vương trượng. Ngài không chỉ cai trị dân Do-Thái, nhưng
muôn dân phải vâng phục quyền bính của Ngài.
2/ Phúc Âm: Đấng Cứu Thế sinh ra từ giòng dõi Judah.
2.1/ Từ thời cực thịnh của vương triều
David đến thời Lưu Đày Babylon: “Josiah sinh
Jechoniah và các anh em vua này; kế đó là thời lưu đày ở Babylon.” Trong lịch sử
Do-Thái, thời của Vua David được coi là thời cực thịnh; vì Vua David thống nhất
tòan lãnh thổ, tất cả 12 chi tộc Jacob, và lên làm vua. Tuy nhiên, điểm yếu của
Vua David là biến cố ngọai tình với Bà Bathsheba và sinh ra Vua Solomon. Vì biến
cố này, mà vương quốc bị chia đôi, và giòng họ Nhà Vua bị suy thóai dần dần cho
đến thời Lưu Đày. Trong thời Lưu Đày, nước Israel bị xóa sạch trên bản đồ,
giòng họ Judah bị đày sang Babylon, và dân Do-Thái hầu như không còn hy vọng gì
nơi lời chúc lành của Tổ-phụ Jacob. Họ kêu cầu Thiên Chúa:
“Đâu cả rồi, lạy Thiên Chúa,
nghĩa cũ với tình xưa Ngài hứa cùng David nhân danh chữ tín thành? Lạy Chúa,
xin nhớ rằng: các tôi tớ Ngài bị thoá mạ, những lời phỉ báng của chư dân, con
đây vẫn chất chứa trong lòng. Vâng, lạy Chúa, kẻ thù Ngài thoá mạ, theo sát gót
mà buông lời thoá mạ đấng Ngài đã xức dầu tấn phong” (Psa 89:50-52).
2.2/ Sau thời Lưu Đày Babylon: Trong hòan cảnh hầu như tuyệt vọng tại nơi lưu đày,
Thiên Chúa vẫn tiếp tục làm việc, và Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa vẫn trên đường
tiến tới. Theo trình thuật của Tin Mừng Matthêu: “Sau thời lưu đày ở Babylon,
Jechoniah sinh Shealtiel; Shealtiel sinh Zerubbabel; Zerubbabel sinh Abiud;
Abiud sinh Eliakim; Eliakim sinh Azor; Azor sinh Zadok; Zadok sinh Achim; Achim
sinh Eliud; Eliud sinh Eleazar; Eleazar sinh Matthan; Matthan sinh Jacob; Jacob
sinh Giuse, chồng của bà Maria, bà là mẹ Đức Giêsu cũng gọi là Đức Kitô. Như thế,
tính chung lại thì: từ tổ phụ Abraham đến vua David, là mười bốn đời; từ vua
David đến thời lưu đày ở Babylon, là mười bốn đời; và từ thời lưu đày ở Babylon
đến Đức Kitô, cũng là mười bốn đời.
Nhìn lại gia phả của Chúa Giêsu,
Đấng Cứu Thế, chúng ta học được nhiều bài học: (1) Tổ tiên của Chúa Giêsu gồm cả
người thánh thiện (các Tổ-phụ Abraham, Isaac, và Jacob) và kẻ tội lỗi (Bà Tamar
giả làm gái điếm để được có con với Judah, Vua David ngọai tình với Bà
Bathsheba); cả những người thờ phượng Thiên Chúa và người thờ nhiều thần (Bà
Ruth); cả những người Do-Thái và Dân Ngọai. (2) Tuy có những lúc cực thịnh (triều
đại của David và Solomon) và những lúc cực suy (thời Lưu Đày), lời hứa của
Thiên Chúa và lời chúc lành của Tổ-phụ Jacob vẫn tiếp tục ứng nghiệm. Ngài vẽ
đường thẳng của Kế Họach Cứu Độ trên những đường cong của lịch sử Do-Thái.
Thiên Chúa là Đấng Trung Thành: những gì Ngài đã hứa, Ngài sẽ thực hiện.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Niềm tin của chúng ta vào Chúa
Giêsu, Đấng Cứu Thế, không phải là niềm tin trừu tượng và mơ hồ, nhưng được bám
rễ sâu trong lịch sử con người qua gia phả của Chúa Giêsu.
- Đấng Cứu Thế đã được Thiên
Chúa hứa ban cho con người ngay từ khởi thủy, và Ngài đã không ngừng chuẩn bị
và mặc khải cho con người qua các thời đại. Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa vẫn
đang tiếp tục họat động trong thời đại chúng ta cho đến Ngày Phán Xét.
- Chúng ta hãy đặt hòan tòan niềm
tin nơi Thiên Chúa trong mọi khúc quanh của cuộc đời. Cho dù trời đất có thay đổi,
nhưng những gì Thiên Chúa đã hứa không bao giờ đổi thay.
Linh mục Anthony Đinh Minh
Tiên, OP
17/12/16 THỨ BẢY TUẦN 3 MV
Mt 1,1-17
Mt 1,1-17
Suy niệm: Giống như bên Á Đông, người Do Thái cũng có quan niệm “trọng nam, khinh nữ”. Vì thế, trong gia phả của họ, chỉ có tên người nam, người nữ không được nhắc đến. Vậy mà trong bản gia phả của Đức Giê-su, thánh Mát-thêu nhắc đến năm người nữ: bốn người của Cựu Ước và một của Tân Ước. Điều đáng nói là bốn người nữ kia đều có vấn đề: Ta-ma loạn luân, Ra-kháp là gái điếm, Rút là người ngoại giáo, còn vợ ông U-ri-gi-a, ngoại tình. Phải chăng tác giả có ý cho thấy Đức Giê-su đã nhập sâu vào gia đình nhân loại, một nhân loại với những điều tốt đẹp, nhưng cũng lắm chuyện ô trọc? Bốn người nữ bất toàn ấy càng làm nổi bật người thứ năm: Đức Ma-ri-a, người nữ vẹn toàn, vì ngài là mẹ Đấng Cứu Thế. Đấng Cứu Thế làm người để đem lại ơn cứu độ cho cả nhân loại, không còn phân biệt nam nữ, giàu nghèo, tốt xấu… vì ai ai cũng được mời gọi để nên thánh trong ơn cứu độ.
Mời Bạn: Làm quen với một quan điểm của C. Morrison: “Hội Thánh là một hội gồm các tội nhân. Đó là hội duy nhất trên thế giới mà tiêu chuẩn hội viên chỉ dựa vào một phẩm chất là ứng viên không xứng đáng với tiêu chuẩn hội viên này”. Biết như vậy, không phải để bạn ỷ lại, hay nản lòng, nhưng là nỗ lực hơn, để sống xứng đáng tư cách thành viên Hội Thánh.
Sống Lời Chúa: Ý thức thân phận bất xứng của mình, để có thái độ tri ân với Chúa, khiêm tốn với mình, và bao dung hơn với tha nhân.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, cảm tạ Chúa đã chọn gọi chúng con là môn đệ Chúa, là thành phần của Hội Thánh. Xin giúp chúng con cố gắng mỗi ngày để xứng đáng hơn với tư cách cao cả ấy.
Từ Bà Đức Giêsu được sinh ra (17.12.2016 – Thứ bảy)
Con Thiên Chúa đã có một người mẹ để trọn vẹn là người. Ngài có cha nuôi là thánh Giuse để được thuộc về dòng Đavít. Làm người cần được sống trong bầu khí gia
đình để lớn lên.
Suy niệm:
Chúng
ta bước vào một giai đoạn mới để mừng lễ Giáng Sinh,
mừng
Mầu nhiệm Con Thiên Chúa làm người cách trọn vẹn.
Làm
người là có một gia phả.
Thánh
Matthêu đã muốn viết một gia phả dài của Đức Giêsu Kitô,
không
phải một cách hết sức chính xác và đầy đủ theo nghĩa lịch sử,
nhưng
mang nặng ý nghĩa thần học.
Matthêu
muốn cho thấy Đức Giêsu là con của cụ tổ Abraham,
và
cuộc đời Ngài gắn kết với Ítraen, dân được tuyển chọn.
Ngài
cũng là Con của vua Đavít, nên Ngài có cơ sở để là Đấng Kitô.
Làm
người là sống trong dòng lịch sử một dân tộc
với
tất cả những thăng trầm và biến động của nó.
Matthêu
chia lịch sử dân Do-thái làm ba thời kỳ.
Thời
kỳ chuẩn bị cho bước đầu của vương triều vua Đavít (cc. 2-6a),
thời
kỳ trị vì của các vua thuộc dòng Đavít (cc. 6b-11),
và
thời kỳ sau lưu đầy, khi vương quyền Đavít đã mai một (cc. 12-16).
Mỗi
thời kỳ mười bốn đời, nghĩa là hai lần bẩy, một con số linh thánh.
Đức
Kitô đã đằm mình trong dòng lịch sử này.
Ngài
là người cuối của gia phả, nhưng lại là nhân vật trung tâm (c.16-17).
Tất
cả lịch sử của dân tộc Ítraen cũng là lịch sử cứu độ.
Dòng
lịch sử cứu độ này đã lên đến tuyệt đỉnh nơi Đức Giêsu Kitô.
Nơi
Ngài, Thiên Chúa đã đưa lịch sử nhân loại đến chỗ thành tựu.
Trong
gia phả Đức Giêsu có tên một số phụ nữ.
Đó
là chuyện lạ, vì người Do-thái thường chỉ để tên người cha.
Trừ
Đức Maria, bốn phụ nữ kia đều có gốc dân ngoại.
Ta-ma
và Ra-kháp gốc Canaan, Rút gốc Mô-áp, vợ Urigia người Hít-tít.
Các
phụ nữ này đều có hoàn cảnh khác thường.
Ta-ma
giả làm điếm để ngủ với cha chồng là Giu-đa,
hầu sinh con cho nhà
chồng (St 38).
Ra-kháp là một cô điếm ở
Giêricô, đã giúp Giosuê chiếm Canaan (Gs 2).
Bét-sa-bê, vợ của Urigia,
đã ngoại tình và lấy vua Đavít (2Sm 11-12).
Rút đã lấy ông Bô-át là
người bà con gần, để nối dõi cho chồng (R 1-4).
Đức Giêsu đã là con cháu
của các phụ nữ khác thường này.
Ngài cũng mang trong mình
chút dòng máu của dân ngoại.
Cuộc sinh hạ của Đức Kitô
cũng khác thường.
Mátthêu diễn tả một cách
tinh tế như sau:
“Gia-cóp sinh Giuse,
chồng của bà Maria,
từ bà Đức Giêsu được sinh
ra, cũng gọi là Đức Kitô” (c. 16).
Như thế Con Thiên Chúa đã
có một người mẹ để trọn vẹn là người.
Ngài có cha nuôi là thánh
Giuse để được thuộc về dòng Đavít.
Làm người cần được sống
trong bầu khí gia đình để lớn lên.
Gia phả của Đức Giêsu
nhắc tôi về gia phả của chính mình.
Cũng với những bóng tối
của lưu đày, với bao bất thường và vấp ngã.
Chỉ mong trong cuộc đời
tôi, gia đình tôi, dân tộc tôi, có mặt Giêsu.
Cầu nguyện:
Lạy Cha từ ái,
đây là niềm tin của con.
Con tin Cha là Tình yêu,
và mọi sự Cha làm đều vì
yêu chúng con.
Cả những khi Cha mạnh tay
cắt tỉa,
cả những khi Cha thinh
lặng hay vắng mặt,
cả những khi Cha như chịu
thua sức mạnh của ác nhân,
con vẫn tin Cha là Cha
toàn năng nhân ái.
Con tin Cha không chịu
thua con về lòng quảng đại,
chẳng để con thiệt thòi
khi dám sống cho Cha.
Con tin rằng nơi lòng
những người cứng cỏi nhất
cũng có một đốm lửa của
sự thiện,
được vùi sâu dưới những
lớp tro.
Chỉ một ngọn gió của tình
yêu chân thành
cũng đủ làm đốm lửa ấy
bừng lên rạng rỡ.
Con tin rằng chẳng có
giọt nước mắt nào vô ích,
thế giới vẫn tồn tại nhờ
hy sinh thầm lặng của bao người.
Con tin rằng chiến thắng
cuối cùng thuộc về Ánh sáng.
Sự Sống và Tình yêu sẽ chiếm
ngự địa cầu.
Con tin rằng dòng lịch sử
của loài người và vũ trụ
đang chuyển mình tiến về
với Cha,
qua trung gian tuyệt vời
của Chúa Giêsu
và sức tác động mãnh liệt
của Thánh Thần.
Con tin rằng dần dần mỗi
người sẽ gặp nhau,
vượt qua mọi tranh chấp,
bất đồng,
mọi dị biệt, thành kiến,
để cùng nắm tay nhau đi
qua sa mạc cuộc đời
mà về nhà Cha là nơi hạnh
phúc viên mãn.
Lạy Cha, đó là niềm tin
của con.
Xin Cha cho con dám sống
niềm tin ấy. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
17 THÁNG MƯỜI HAI
Ngôi Lời Trở Thành Xác Thịt
Mùa Vọng đến gần sự hoàn thành của
nó trong lịch sử loài người. Phụng vụ diễn tả cho chúng ta thấy điều đó.
Trong bài đọc trích Thư Do Thái,
chúng ta nghe những lời này của Con Thiên Chúa: “Hy sinh và lễ vật Ngài không
muốn, nhưng Ngài đã dọn cho con một thân thể … Thì lạy Chúa, này con xin đến để
thực thi ý Ngài” (Dt 10,5.7).
Theo những lời này, việc Thiên
Chúa đến giữa chúng ta mặc lấy dạng thức của mầu nhiệm Nhập Thể. Thiên Chúa đã
chuẩn bị cho mầu nhiệm này từ đời đời, và giờ đây, Ngài đang hoàn thành nó.
Chúa Cha sai Chúa Con đến, Chúa Con đáp trả tiếng gọi của Chúa Cha. Bởi quyền
năng Thánh Thần, Người đã trở thành con người trong cung lòng Đức Trinh Nữ ở
Na-da-rét. “Ngôi Lời trở thành xác thịt” (Ga 1,14). Ngôi Lời là người Con yêu dấu
từ đời đời. Yêu nghĩa là hợp nhất trong mục đích và trong ý muốn. Ý của Chúa
Cha và ý của Chúa Con trở thành nên một hoàn toàn. Hoa quả của sự hiệp nhất này
là chính ngôi vị tình yêu: là Chúa Thánh Thần. Và như vậy, hoa trái của ngôi vị
tình yêu là cuộc Nhập Thể: “Ngài đã chuẩn bị cho con một thân thể.”
- suy tư 366 ngày của Đức
Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope
John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 17-12
St 49,2.8-10; Mt 1,1-17.
Lời suy niệm: “Như thế,
tính chung lại: từ tổ phụ Ápraham đến vua Đavít, là mười bốn đời, từ vua Đavít
đến thời lưu đày ở Babylon, là mười bốn đời, và từ thời lưu đày ở Babylon đến Đức
Kitô, cũng là mười bốn đời.”
Trọng tâm Sách Tin Mừng của
Mátthêu là để hướng dẫn riêng cho dân Do-thái, nên thánh nhân đã đưa ra gia phả
của Chúa Giêsu với ba giai đoạn lịch sử, gợi cho dân Do thái nhớ lại lịch sử của
dân tộc mình. hầu dẫn đưa họ đi từ Kinh Thánh Cựu Ước để dẫn họ đi vào Tân Ước.
Giai đoạn từ Ápraham đến Đavít là giai đoạn hùng mạnh dưới sự trợ giúp của
Thiên Chúa. Giai đoạn từ Đavít đến lưu đày tại Babylon, giai đoạn sống trong khổ
nhục trong nô lệ. và giai đoạn cuối từ Babylon đến Đức Giêsu, là giai đoạn Chúa
Giêsu đến để giải phóng loài người khỏi vòng nô lệ tội lỗi.
Lạy Chúa Giêsu. Chúng con thật hạnh
phúc khi đang được ở trong vương quyền của Chúa. Xin cho chúng con luôn biết tạ
ơn và quyết tâm đổi mới đời sống của mình để được đẹp lòng Chúa.
Mạnh Phương
17 Tháng Mười Hai
Ðôi Vai Của Người Cha
Tháng 11 năm 1958, ngay chính
ngày đăng quang, khi nói chuyện với khách hành hương, Ðức cố Giáo Hoàng Gioan
23 đã kể lại một giai thoại trong cuộc đời của ngài như sau:
"Khi tôi lên 7, một hôm
cha tôi đưa tôi đến một làng bên cạnh, nơi đang tổ chức một buổi lễ của Công
Giáo tiến hành trong giáo phận. Phải đi bộ nhiều cây số, tôi cảm thấy mệt mỏi.
Cha tôi đã phải đặt tôi trên vai của người. Ðến nơi, tôi cảm thấy thất vọng, bởi
vì dân chúng qúa đông, mà tôi thì bé nhỏ. Mất hút trong chợ người, tôi không thể
nhìn đoàn người đang diễn hành... Thế là một lần nữa, cha tôi lại bồng tôi trên
vai của người. Từ trên cao, tôi có thể xem thấy tất cả mọi sự".
Và vị Giáo Hoàng được mệnh
danh "nhân lành" đã kết luận như sau: "70 năm qua, nhưng tôi vẫn
còn ghi nhớ trong tâm trí tôi cử chỉ của cha tôi. Nó đã trở thành một biểu
trưng kỳ diệu. Ngày nay, mỗi khi mệt mỏi, mỗi khi tôi không còn thấy gì nữa,
tôi nài xin vị Cha trên trời nâng tôi lên đôi cánh của Người".
Chỉ từ trên đỉnh cao, chúng ta mới
có thể thấy rõ mọi sự. Chính Chúa là đỉnh cao của chúng ta. Nơi Người, chúng ta
sẽ thấy được ý nghĩa của cuộc sống... Những lúc chán sống, những lúc hầu như
không còn thấy gì nữa, chúng ta hãy chạy đến với Người.
(Lẽ Sống)
Lectio Divina: Mátthêu 1:1-17
Thứ Bảy, 17 Tháng 12, 2016
Tuần thứ ba Mùa Vọng
1. Lời nguyện mở đầu
Lạy Chúa, là Cha của Đức Giêsu
Kitô, Chúa chúng con,
Con Một Chúa đã đến giữa chúng
con, đã làm người như chúng con,
Một con người trong số những
phàm nhân,
Thế nhưng dung nhan phàm nhân của
Chúa
Thật đơn sơ, gần gũi,
Và trong phạm vi về những gì của
một con người.
Lạy Chúa, xin cho chúng con khám
phá ra được chính mình trong hình ảnh của Chúa:
Rằng chúng con được sinh ra để
được tự do,
Để vị tha, sẵn lòng, tự nguyện dấn
thân.
Xin hãy giải thoát chúng con khỏi
sự ích kỷ của mình,
Khỏi sự hèn nhát và thái độ nhu
nhược của chúng con,
Để chúng con ít ra có thể trở
thành
Những gì Chúa muốn nơi chúng
con, nên giống như Con Chúa,
Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con.
2. Phúc Âm – Mátthêu
1:1-17
Sách gia phả của Chúa Giêsu
Kitô, con vua Đavít, con của Ábraham. Ábraham sinh Isaác; Isaác sinh
Giacóp; Giacóp sinh Giuđa và các anh em người. Giuđa sinh Pharét và
Giara; Pharét sinh Ésron; Ésron sinh Aram; Aram sinh Aminađáb; Aminađáb sinh
Naásson; Naásson sinh Salmôn; Salmôn sinh Bôát; Bôát sinh Ôbéd do bà Rút; Ôbéd
sinh Giêsê; Giêsê sinh vua Đavít.
Đavít sinh Salômôn do bà vợ của
Uria; Salômôn sinh Rôbôam; Rôbôam sinh Abia; Abia sinh Asáf; Asáf sinh
Giôsaphát; Giôsaphát sinh Giôram; Giôram sinh Ôgia; Ôgia sinh Giôátham;
Giôátham sinh Akhát; Akhát sinh Êgiêkia; Êgiêkia sinh Manássê; Manássê sinh Amốs;
Amốs sinh Giôsia; Giôsia sinh Giêcônia và các em trong thời lưu đày ở
Babylon. Sau thời kỳ lưu đày ở Babylon, Giêcônia sinh Saláthiel;
Saláthiel sinh Giôrôbabel; Giôrôbabel sinh Abiúb; Abiúb sinh Êliakim; Êliakim
sinh Azor. Azor sinh Sađốc; Sađốc sinh Máthan; Máthan sinh Giacóp. Giacóp
sinh Giuse là bạn của Maria, mẹ của Chúa Giêsu gọi là Đức Kitô.
Vậy từ Abraham đến Đavít, có tất
cả mười bốn đời. Từ Đavít đến cuộc lưu đầy ở Babylon có mười bốn đời;
và từ cuộc lưu đày ở Babylon cho đến Chúa Kitô, có mười bốn đời.
3. Suy Niệm
- Sách gia phả xác định danh tính của Chúa
Giêsu. Ngài là “Con vua Đavít và con của Abraham” (Mt 1:1; xem
1:17). Con của vua Đavít, là để đáp ứng sự mong đợi của dân Do Thái
(2Sm 7:12-16). Con của Abraham, là một nguồn ân phúc cho mọi dân tộc
(St 12:13). Cả người Do Thái lẫn dân ngoại đều nhìn thấy niềm hy vọng
của họ được thực hiện trong Chúa Giêsu.
- Trong xã hội phụ hệ của dân tộc Do Thái, sách
gia phả chỉ ghi lại tên các người đàn ông. Điều ngạc nhiên là Thánh
Sử Mátthêu cũng ghi lại tên năm người phụ nữ trong số những tổ tiên của Chúa
Giêsu: các bà Tamar, Raháb, Rút, Bátshêba (vợ của ông Uria) và Đức
Maria. Tại sao tác giả Mátthêu lại chọn đúng bốn người phụ nữ này
như là bạn đồng hội đồng thuyền của Đức Maria? Không có hoàng hậu,
không có bà chúa, không có cả tên trong số những người phụ nữ chiến sĩ của cuộc
Xuất Hành khỏi đất Ai Cập: Tại sao? Đây là câu hỏi mà
sách Phúc Âm của Mátthêu để cho chúng ta tìm câu trả lời.
- Trong cuộc đời của bốn người phụ nữ, bạn đồng
hội đồng thuyền của Đức Maria, có một điều gì đó bất thường. Bốn bà
là dân ngoại tộc, các bà đã sinh con của mình bên ngoài các quy luật bình thường
và không tương ứng với những Quy Luật của đức khiết tịnh vào thời của Chúa
Giêsu. Bà Tamar, người Canaan, một góa phụ, bà giả dạng thành một cô
gái mãi dâm để bắt buộc Tổ Phụ nhà Giuđa phải trung thành với Lề Luật, phải làm
nhiệm vụ của mình và cho bà một người con trai (St 28:1-30). Bà
Raháb, một người phụ nữ Canaan từ thành Giêricô, là một cô gái điếm, người đã
giúp cho dân Do Thái bước vào Miền Đất Hứa (Ys 2:1-21). Bà Rút, một
người phụ nữ Môáp, bá góa nghèo, đã chọn đi theo bà Naomi và tuân theo các lề
luật của Dân Chúa (Rt 1:16-18). Bà đã chủ động bắt chước bà Tamar và
đi nghỉ đêm bên cạnh đống lúa, cùng với ông Bôát, bắt buộc ông tuân giữ Lề Luật
và cho bà một đứa con. Từ mối quan hệ giữa hai người, ông Ôbéd đã được
sinh ra, là tổ phụ của vua Đavít (Rt 3:1-15; 4:13-17). Bà Bátshêba,
người Hêtít, vợ của ông Uria, đã bị du dỗ, bị cưỡng bức và bà đã mang thai với
vua Đavít, nhà vua lại còn ra lệnh cho chồng của người phụ nữ này phải chết
(2Sm 11:1-27). Phương cách hành xử của bốn người phụ nữ này không
phù hợp với quy tắc truyền thống. Trong khi đó, đây là những sáng kiến,
thực sự bất thường, đã làm liên tục dòng dõi của Chúa Giêsu và dẫn đưa tất cả mọi
người đến ơn cứu rỗi của Thiên Chúa. Tất cả điều này khiến cho chúng
ta suy nghĩ và thách đố chúng ta khi chúng ta đặt quá nhiều giá trị vào sự cứng
nhắc của các quy luật.
- Bài tính về ba lần của mười bốn thế hệ (Mt
1:17) có một ý nghĩa tượng trưng. Số ba là con số của Thiên
Chúa. Số mười bốn là số bảy nhân đôi. Số bảy là số hoàn hảo. Bằng
biểu tượng này, thánh Mátthêu thể hiện niềm tin của các Kitô hữu tiên khởi vào
Chúa Giêsu, Đấng xuất hiện theo tiến trình thời gian thành lập bởi Thiên
Chúa. Với lịch sử sắp đến của Ngài tiến tới sự phong phú và viên mãn
của nó.
4. Một vài câu hỏi
gợi ý cho việc suy gẫm cá nhân
- Sứ điệp mà bạn khám phá ra trong gia phả của
Chúa Giêsu là gì? Bạn đã tìm thấy câu trả lời mà Thánh sử Mátthêu đã
để lại cho chúng ta chưa?
- Các bạn đồng cảnh ngộ của Đức Maria, Thân Mẫu
của Chúa Giêsu, thì rất khác biệt với những gì mà chúng ta tưởng tượng về họ. Kết
luận mà bạn có thể rút ra về việc tôn kính Đức Trinh Nữ Maria là gì?
5. Lời nguyện kết
Danh thơm Người sẽ trường tồn vạn
kỷ,
Nức tiếng gần xa dưới ánh mặt trời.
Ước gì mọi sắc tộc trần gian, nhờ
Người được chúc lành,
Và muôn dân thiên hạ ngời khen
Người có phúc.
(Tv 72:17)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét