18/12/2016
Chúa Nhật tuần 4 mùa vọng năm A.
(phần I)
Bài Ðọc I: Is 7, 10-14
"Này trinh nữ sẽ thụ
thai".
Bài trích sách Tiên tri Isaia.
Ngày ấy, Chúa phán bảo vua Achaz
rằng: "Hãy xin Thiên Chúa, Chúa ngươi, một dấu ở dưới lòng đất hay ở trên
trời cao!" Nhưng vua Achaz thưa: "Tôi sẽ không xin, vì tôi không dám
thử thách Chúa".
Và Isaia nói: "Vậy hãy nghe
đây, hỡi nhà Ðavít, làm phiền lòng người ta chưa đủ ư, mà còn muốn làm phiền
lòng Thiên Chúa nữa? Vì thế, chính Chúa sẽ cho các ngươi một dấu: này đây một
trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai, và tên con trẻ sẽ gọi là Emmanuel,
nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 23, 1-2. 3-4ab. 5-6
Ðáp: Chúa ngự qua, chính Ngài là Hoàng Ðế hiển vinh (x.
c. 7c và 10b).
Xướng: 1) Chúa là chủ trái đất
và mọi vật làm sung mãn nó, chủ địa cầu và muôn loài cư trú ở trong. Vì chính
Ngài xây dựng nó trên biển cả, và Ngài giữ vững nó trên chỗ nước nguồn. - Ðáp.
2) Ai khá trèo lên cao sơn của
Chúa, ai được đứng trong nơi thánh của Ngài? Người tay vô tội và lòng thanh khiết,
người không để lòng xu hướng bả phù hoa. - Ðáp.
3) Người đó sẽ được Chúa chúc
phúc cho, và được Thiên Chúa là Ðấng cứu độ ban ân thưởng. Ðó là dòng dõi người
tìm kiếm Chúa, người tìm long nhan Thiên Chúa nhà Giacóp. - Ðáp.
Bài Ðọc II: Rm 1, 1-7
"Ðức Giêsu, thuộc dòng
dõi vua Ðavít, là Con Thiên Chúa".
Bài trích thơ Thánh Phaolô Tông
đồ gởi tín hữu Rôma.
Phaolô, tôi tớ Chúa Giêsu Kitô,
đã được kêu gọi làm Tông đồ và đã được tuyển chọn để rao giảng tin mừng Thiên
Chúa. Tin mừng ấy Thiên Chúa đã hứa trước bằng lời các tiên tri trong Kinh
Thánh về Con của Người; Người đã sinh ra theo huyết nhục bởi dòng dõi Ðavít, đã
được tiền định là Con Thiên Chúa quyền năng theo Thánh Thần, đã sống lại từ cõi
chết. Ðó chính là Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, nhờ Người, chúng tôi đã nhận
ân sủng và chức vụ tông đồ, để nhân danh Người, chúng tôi quy phục mọi dân tộc
về Ðức Tin, trong đó có cả anh em là những người mà Chúa Giêsu đã kêu gọi.
Tôi chúc tất cả mọi người trong
thành Rôma được Thiên Chúa yêu mến và kêu gọi nên thánh, được ân sủng và bình
an của Thiên Chúa là Cha chúng ta, và của Ðức Giêsu Kitô là Chúa chúng ta.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Mt 1, 21
Alleluia, alleluia! - Này đây
trinh nữ sẽ mang thai, hạ sinh một con trai, và người ta sẽ gọi tên Người là
Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa-ở-cùng-chúng ta. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 1, 18-24
"Chúa Giêsu sinh ra bởi
Ðức Maria, đính hôn với Thánh Giuse con vua Ðavít".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Matthêu.
Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn
cảnh sau đây: Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với
nhau, đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse, bạn của bà, là người công
chính, không muốn tố cáo bà, định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo.
Nhưng đang khi định tâm như vậy
thì thiên thần Chúa hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo: "Hỡi Giuse,
con vua Ðavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai là
bởi phép Chúa Thánh Thần: bà sẽ hạ sinh một con trai mà ông sẽ đặt tên là
Giêsu: vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội".
Tất cả sự kiện này đã được thực
hiện để làm trọn lời Chúa dùng miệng Tiên tri phán xưa rằng: "Này đây một
trinh nữ sẽ mang thai và hạ sinh một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là
Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta".
Khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện
như lời thiên thần Chúa truyền: ông tiếp nhận bạn mình, nhưng không ăn ở với
nhau cho đến khi Maria sinh con trai đầu lòng, thì Giuse đặt tên con trẻ là
Giêsu.
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Ðức
Maria Ban Chúa Cứu Thế
Truyền thống vẫn gọi Chúa nhật
này là Chúa nhật của Ðức Mẹ. Bài sách tiên tri Isaia nói về một Trinh nữ sẽ
sinh con trai. Và bài Tin Mừng kể chuyện về việc Ðức Maria mang thai. Như vậy,
Phụng vụ muốn ta suy nghĩ về việc Ðức Mẹ ban Chúa Cứu Thế cho chúng ta và chúng
ta hãy đón nhận Người.
A. Ðức Maria Ban Chúa Cứu Thế
Thật ra, bài tiên tri Isaia
không trực tiếp nói về Ðức Mẹ và Chúa Cứu Thế. Các học giả bàn nhiều về đoạn
văn vắn tắt này. Ðại khái bối cảnh của đoạn văn như sau: Akkaz bấy giờ là vua xứ
Yuđa. Mấy vua phía Bắc lăm le xâm lăng xứ sở của ông. Ông sợ hãi. Thay vì trông
cậy vào Chúa, ông lại chỉ nghĩ đến việc xin viện trợ nước ngoài. Isaia đến can
gián ông, khuyên ông tin tưởng vào Chúa. Ông vẫn không nghe và sai sứ ra ngoại
quốc xin viện binh. Ðồng thời ông tiếp tục đường lối tội lỗi, lập các đền thờ
quấy, đến nỗi thiêu sinh cả con mình để làm lễ tế. Isaia đến can thiệp lần nữa.
Và để bảo đảm lời khuyên của mình, nhà Tiên tri giục vua cứ xin một dấu chỉ, dù
ở trên trời hay ở dưới đất: tức là nhà vua xin dấu chỉ nào, Chúa cũng sẽ cho để
làm chứng rằng lời tiên tri nói là thật. Nhưng nhà vua vốn không tin Chúa. Vua
lại sợ xin được dấu chỉ sẽ phải tin lời tiên tri và phải từ bỏ tà thần để sống
trung thành với Chúa. Ông giở giọng đạo đức, nói rằng loài người không nên thử
thách Thiên Chúa, cốt ý để ông khỏi phải nghe Lời Chúa dạy. Isaia bực mình, coi
nhà vua như dân ngoại rồi. Ông nói: làm loài người khó chịu thôi chưa đủ sao mà
còn làm cực lòng Chúa tôi? Chúa tôi, chứ không phải là Chúa của các ông nữa,
Isaia muốn nói như thế. Tuy nhiên, chẳng ai cưỡng lại được lệnh Chúa: Này, Chúa
sẽ cho nhà Ðavít một dấu chỉ: Cô Nương sẽ sinh con trai và Danh Người là Chúa-ở-cùng-chúng-ta.
Ðây là một sự vô cùng bất ngờ.
Người ta cứ tưởng dấu chỉ mà Chúa sẽ cho là một điềm dữ vì thái độ của Akkaz
như vậy. Nhưng ngược lại đây là một điềm lành, một dấu chỉ vô cùng quý hóa. Nhà
Ðavít sẽ có thái tử kế vị và vị hoàng đế này sẽ đẹp lòng Chúa, đến nỗi Chúa sẽ ở
giữa dân. Như vậy không phải lo gì chiến tranh. Tương lai của Yuđa còn đó vì
sau nhà vua này vẫn còn hoàng tử kế vị. Hơn nữa vị Vua tương lai sẽ được Chúa ở
cùng và dân chúng sẽ được hạnh phúc.
Mà quả thật, các vua phương Bắc
đã phải rút quân. Akhaz có hoàng tử kế vị là Ezêkia. Thoạt đầu nhà vua này rất
đạo đức, khiến cả nước đều vui mừng. Nhưng về sau, ông đã tội lỗi, sa ngã...
Như vậy ông chưa ứng dụng hết lời tiên tri. Có lẽ ngay từ cuối đời Isaia, người
ta đã nghĩ lời tiên tri kia còn phải đi xa hơn nữa và phải đưa về Ðấng Cứu Thế.
Do đó lời Isaia đã trở thành lời tiên báo về Ðấng Thiên Sai, mặc dầu gần thì
đưa về E�zêkia. Và truyền thống Tân Ước đã mau mắn dùng bản dịch
HyLạp để đọc chữ "Cô Nương" trong lời tiên tri trên là "Trinh Nữ".
Và từ đó ta có câu: "Một Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh một Con Trai, được gọi
tên là Emmanuel".
Ðặt trong bối cảnh của lịch sử,
lời tiên tri này nói lên lòng Chúa tốt lành nhường bao! Ðang khi loài người,
(như Akkaz vua Yuđa) tội lỗi và khước từ mọi cố gắng yêu thương cứu giúp của
Chúa, Chúa đã không giận dữ, nhưng vẫn dự tính chương trình cứu chuộc đầy tình
thương, không thể ngờ được.
B. Chúng Ta Ðón Nhận Thế Nào?
Chắc chắn không ai muốn bắt chước
Akkaz. Nhưng trong thực tế nhiều người đã theo đường lối của ông. Thiên Chúa đã
ban cho ta một Hài Nhi. Nhiều người không nhận, vì sợ phải bỏ nếp sống cũ. Lễ
Giáng sinh sắp đến nhắc lại Ân ban của Chúa. Chúng ta sẽ đón nhận thế nào? Bài
Tin Mừng hôm nay nêu cho chúng ta một gương mẫu. Chúa dạy Yuse hãy nhận lấy
Maria và Con Trẻ. Câu truyện xem ra có nhiều điều khó hiểu. Chúng ta hãy nhớ lại
bối cảnh và ý của thánh Matthêô khi viết bài này.
Ai cũng biết, các tín hữu thời
Giáo hội sơ khai không quan tâm nhiều lắm đến cuộc đời thơ ấu của Ðức Kitô. Họ
tin Ngài đã sống lại sau khi chết. Việc này làm chứng Ngài là Người Thiên Chúa
Cha gửi tới, và là Thiên Chúa. Do đó phải nghe Lời Ngài, giữ lệnh Ngài và chờ đợi
Ngài và chờ đợi Ngày Ngài trở lại. Thánh Matthêô, khi viết quyển Tin Mừng, cũng
chỉ quan tâm trình bày những điều ấy. Và để cho người Dothái hiểu: Ðức Kitô thực
sự là Ðấng Thiên Sai do Chúa Cha gởi tới, ngài phải làm chứng Ðức Kitô là con
vua Ðavít. Thế mà ngài lại biết Ðức Kitô đã không sinh bởi ý muốn nam nhân,
nhưng do tự Thiên Chúa Cha. Ðức Kitô chỉ có một người mẹ đồng trinh như lời
Isaia đã tiên báo. Làm thế nào để có thể nói Ngài là Con Vua Ðavít? Thánh
Matthêô đã phải tìm hiểu. Và bài Tin Mừng hôm nay là kết quả. Yuse, thuộc dòng
dõi Ðavít đã đính hôn với Maria. Maria được chọn, được truyền tin. Yuse thắc mắc.
Sứ thần Chúa hiện ra báo tin cho Yuse. Một người công chính chờ đợi Ðấng Thiên
Sai như ông lập tức chỉ còn một thái độ: hân hoan đón nhận tin mừng; được tin
này là được tất cả: không gì ở trần gian này còn đáng kể nữa; từ nay chỉ còn sống
cho Tin Mừng, vì như lời Ðức Kitô nói sau này: Ai tìm được Nước Trời rồi sẽ bán
tất cả, cho đi tất cả để nhận lấy Tin Mừng, sống với Tin Mừng, hy sinh cho Tin
Mừng. Thế nên thánh Matthêô đã không cần kể chuyện dài dòng. Những thắc mắc của
ta, của những con người ít đạo đức, có thể nói là tiểu nhân thích để ý đến những
chi tiết nhỏ mọn và bỏ rơi điều chính yếu, những thắc mắc của ta liên quan tới
liên hệ giữa Maria và Yuse đã không được Matthêô gợi đến. Ta hãy theo gương
thánh nhân: nhìn vào điểm chính yếu và Tin Mừng Chúa gởi đến cho ta. Qua miện sứ
thần, Chúa báo tin: "Một Trinh Nữ sẽ sinh cho ta một Con Trai". Nghe
tin ấy, Yuse đã đón nhận ơn cứu độ hằng chờ mong. Và nhờ việc ông đón nhận, và
lãnh trách nhiệm đặt tên cho Con Trẻ, nhận Con Trẻ là con của mình, Ðức Kitô trở
thành Con vua Ðavít như lời các tiên tri đã loan báo. Yuse thấy mình gần Maria
hơn, hiệp nhất với nhau hơn cả những đôi bạn uyên ương, vì cả hai đã đồng thân
đồng phận, trở thành dụng cụ cho chương trình của Thiên Chúa, được là những người
đầu tiên lãnh nhận Lời Hứa từ bao ngàn năm để đem lại cho loài người. Chỉ những
ai không hiểu giá trị ơn cứu chuộc và không đánh giá đúng mức tinh thần của
Yuse và Maria, mới còn nêu ra những câu hỏi vụn vặt. Ngược lại, ai coi việc
Chúa ban Ơn Cứu Ðộ là lớn, là hạnh phúc vượt quá mọi hạnh phúc và bao gồm hết
thảy mọi phúc lộc, sẽ bắt chước Maria và Yuse, từ bỏ mọi sự, hy sinh mọi sự để
đón nhận Ơn Chúa và cho đến chết sẽ chỉ còn biết sống cho Ơn đó.
C. Thái Ðộ Thực Tế
Lễ Chúa Giáng sinh đã gần đến.
Chúng ta muốn đón nhận Chúa sâu xa ư? Hãy theo gương Ðức Maria và thánh Yuse. Lấy
Chúa làm đủ và sẵn sàng hy sinh mọi sự vì Chúa. Và như Ðức Maria góp máu thịt với
Ngôi Lời, như Yuse giúp Chúa trở thành Con vua Ðavít, chúng ta phải làm gì để
đưa Chúa vào thế gian, vào xã hội? Mà thế gian, xã hội trước hết là con người
và đời sống của ta. Nếu Chúa ngự trị trong con người của ta hơn, khi ta xua đuổi
mọi tâm tư, cảm nghĩ, khuynh hướng xác thịt và thế gian đi, Chúa sẽ nhập thế
nơi ta vì ta đã trở thành Kitô hữu nhiều hơn. Và nếu thái độ, hành vi của ta
nơi xã hội chiếu tỏa tinh thần của Chúa, xã hội sẽ thấy Ơn Chúa hiện đến với mọi
người và ta sẽ như Yuse đưa Chúa vào dòng dõi loài người.
Chúng ta không cần đợi đến lễ
Giáng sinh để đón nhận Chúa và sống cho Chúa như vậy. Thánh lễ cử hành bây giờ
cũng ban cho chúng ta một Hài Nhi. Nếu ta đón nhận như Ðức Maria và thánh Yuse,
ra khỏi nhà thờ hôm nay ta có thể coi mình như một Phaolô: tôi đã được chọn làm
Tông đồ của Ðức Yêsu Kitô. Ngài là Lời Hứa từ ngàn xưa, đã nhập thế trong lòng
Ðức Maria và đã sinh ra là Con vua Ðavít nhờ thánh Yuse. Nay Ngài dùng tôi và đời
sống của tôi đem Tin Mừng của Ngài đến cho mọi người, để tất cả chúng ta đều trở
nên thánh thiện và chứa chan ơn lành và bình an.
(Trích dẫn từ tập sách Giải
Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục
Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Chúa Nhật IV Mùa Vọng, Năm
A
Bài đọc: Isa
7:10-14; Rom 1:1-7; Mt 1:18-24.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Đừng
nghi ngờ hay bất tuân lệnh của Thiên Chúa.
Con người có khuynh hướng làm
theo những gì mình suy nghĩ, và áp dụng những gì mình suy nghĩ vào cho Thiên
Chúa. Nếu họ nghĩ chuyện đó không thể làm được, họ kết luận Thiên Chúa cũng
không thể làm được. Khi suy nghĩ như thế, con người đã hạ Thiên Chúa xuống
ngang hàng với con người; và như một hậu quả, con người bất tuân lệnh của Ngài,
và dần dần, họ cũng chẳng cần đến Thiên Chúa.
Các Bài Đọc hôm nay dẫn chứng những
mẫu gương vâng lời và bất tuân lệnh của Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, vua Ahaz của
Judah bất tuân lệnh Thiên Chúa đi cầu cứu với vua Assyria để xin sự bảo vệ; vì
Vua không tin Thiên Chúa có sức mạnh đủ để bảo vệ Judah khỏi tay Ai-cập.
Trong Bài Đọc II, Phaolô, sau
khi được Đức Kitô mặc khải trên đường đi Damascus, đã nhận ra Kế Hoạch Cứu Độ của
Thiên Chúa qua Đức Kitô và cho mọi dân tộc. Kể từ đó, ông không ngừng rao giảng
Tin Mừng cho Dân Ngoại. Trong Phúc Âm, thánh Giuse không hiểu nổi cuộc thụ thai
kỳ lạ của Đức Trinh Nữ Maria, nên toan lìa bỏ Đức Mẹ cách kín đáo; nhưng thiên
thần hiện đến với Giuse trong giấc mộng, và cho ông biết sự thụ thai là do quyền
năng của Chúa Thánh Thần. Thiên thần lặp lại lời tiên-tri của ngôn sứ Isaiah
trong Bài Đọc I để soi sáng cho Giuse hiểu cuộc mang thai cách mầu nhiệm này.
Khi tỉnh dậy ông làm theo ý định của Thiên Chúa và nhận Maria về nhà làm bạn
mình.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Đừng bất tuân lệnh của Thiên Chúa.
1.1/ Vua Ahaz bất tuân lệnh Thiên
Chúa: Chúng ta phải hiểu hoàn cảnh lịch sử
thì mới hiểu trình thuật của Isaiah hôm nay: Ahaz là vua Judah. Sau khi vương
quốc miền Bắc bị rơi vào tay quân thù Assyria, ông sợ hãi và muốn sai sứ giả
sang triều cống và cầu cứu với vua Assyria để được bảo vệ. Thiên Chúa sai
tiên-tri Isaiah đến khuyên nhà vua không được làm như thế; Vua chỉ cần tin vào
Thiên Chúa, Ngài có thể bảo vệ vương quốc Judah khỏi tay mọi quân thù. Vua
không tin Thiên Chúa có thể bảo vệ, nên cứ sai sứ giả sang cầu cứu với vua
Assyria. Khi biết Vua bất tuân lệnh Thiên Chúa, tiên-tri Isaiah vào hoàng cung
để đối chất với vua Ahaz, và chúng ta có trình thuật của Isaiah hôm nay.
Một lần nữa Đức Chúa phán với
vua Ahaz rằng: "Ngươi cứ xin Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi ban cho
ngươi một dấu dưới đáy âm phủ hoặc trên chốn cao xanh." Vua Ahaz trả lời:
"Tôi sẽ không xin, tôi không dám thử thách Đức Chúa." Đây là sự khiêm
nhường giả tạo: Nếu muốn biết Thiên Chúa uy quyền thế nào, tại sao vua Ahaz
không dám mở miệng xin. Lời của vua Ahaz chứng tỏ ông không kính sợ và làm theo
ý Thiên Chúa; nhưng chỉ nhát đảm để rồi làm theo ý riêng mình. Hậu quả là toàn
vương quốc miền Nam bị rơi vào tay quân đội của vua Babylon. Chúng phá hủy Đền
Thờ và đem tất cả vua quan và dân chúng đi lưu đày.
1.2/ Lời tiên báo về hoàn cảnh của
Đấng Thiên Sai ra đời: Tuy Ahaz không xin
nhưng Thiên Chúa vẫn cho. Ông Isaiah bèn nói: "Nghe đây, hỡi nhà David!
Các ngươi làm phiền thiên hạ chưa đủ sao, mà còn muốn làm phiền cả Thiên Chúa của
tôi nữa? Vì vậy, chính Chúa Thượng sẽ ban cho các ngươi một dấu: Này đây người
thiếu nữ mang thai, sinh hạ con trai, và đặt tên là Immanuel." Động từ
"làm phiền" đồng nghĩa với bất tuân lệnh của Thiên Chúa. Dấu lạ vĩ đại
của Thiên Chúa là Ngài sẽ ban cho nhân loại Đấng Thiên Sai qua sự mang thai mà
vẫn còn đồng trinh của một trinh nữ (parthenos trong bản Hy-lạp,
LXX, và almah trong bản Do-thái, MT).
+ Các học giả tranh luận: Từ almah chỉ
được dùng ba lần trong Cựu Ước vừa có nghĩa tổng quát là một thiếu nữ, vừa có
nghĩa là một trinh nữ; nếu muốn chỉ sự đồng trinh, người ta sẽ dùng danh từ betulah,
xảy ra 14 lần trong Cựu Ước. Isaiah cũng dùng 3 lần danh từ betulah (Isa
23:12, 27:32, 47:1).
+ Ý kiến chúng tôi: Tiên-tri
Isaiah muốn ám chỉ một trinh-nữ, vì ba lý do sau:
(1) Kinh Thánh: Hai lần khi bản
MT dùng almah (Gen 24:43 và Isa 7:14), bản LXX đều dùng parthenos.
Chỉ có một lần bản LXX dùng từ neanis để dịch almah là
trong (Exo 2:8), khi chị của Moses được công chúa của vua Pharao sai đi mời mẹ
của Moses đến. Chị của Moses trong trường hợp này cũng có thể là một trinh nữ,
vì theo văn mạch là người vẫn còn nhỏ tuổi. Như thế, Isaiah có thể dùng từ đồng
nghĩa ở đây, almah, để chỉ một trinh nữ.
(2) Văn mạch: Hơn nữa, theo văn
mạch, Thiên Chúa muốn cho con người một dấu lạ vĩ đại - nếu một thiếu nữ có chồng
mà sinh con là chuyện thường tình xảy ra, đâu còn gọi là dấu lạ nữa.
(3) Truyền thống: Khi thánh sử
Matthew trích dẫn lời ngôn sứ Isaiah, ông dùng từ parthenos, có ý
muốn nói một trinh nữ.
2/ Bài đọc II: Tin Mừng ấy, xưa Người đã dùng các ngôn sứ của Người mà hứa
trước trong Kinh Thánh.
Để hiểu bắt đầu trình thuật của
Thư Rôma hôm nay, một người phải nhớ lại biến cố ngã ngựa của Phaolô trên đường
đi Damascus. Trước đó, Phaolô không tin Đức Kitô cần thiết trong Kế Hoạch Cứu Độ
của Thiên Chúa, và ông cũng không tin Dân Ngoại có thể được cứu độ. Như phần
đông người Do-thái, ông tin chỉ cần giữ Lề Luật là đủ để được cứu độ, và ơn cứu
độ chỉ dành cho người Do-thái. Nhưng sau khi được Đức Kitô mặc khải, Phaolô
thay đổi niềm tin hoàn toàn: ông tin và được chọn để rao giảng Đức Kitô cho Dân
Ngoại. Đây là hai điều mà Phaolô đề cập tới trong trình thuật hôm nay.
2.1/ Phaolô được kêu gọi để rao giảng
Tin Mừng của Đức Kitô: Ông xác tín niềm tin
vào Đức Kitô, vào Tin Mừng Đức Kitô rao giảng, và vào sứ vụ rao giảng Tin Mừng
của ông: "Tôi là Phaolô, tôi tớ của Đức Giêsu Kitô; tôi được gọi làm Tông
Đồ, và dành riêng để loan báo Tin Mừng của Thiên Chúa. Tin Mừng ấy, xưa Người
đã dùng các ngôn sứ của Người mà hứa trước trong Kinh Thánh. Đó là Tin Mừng về
Con của Người là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Nhưng xét như Đấng đã từ cõi chết
sống lại nhờ Thánh Thần, Người đã được đặt làm Con Thiên Chúa với tất cả quyền
năng."
2.2/ Tin Mừng được loan truyền cho
tất cả Dân Ngoại: Phaolô tin Kế Hoạch Cứu Độ
của Thiên Chúa có hai giai đoạn: (1) Thiên Chúa chọn dân tộc Do-thái để chuẩn bị
cho Đức Kitô ra đời, và (2) khi Đức Kitô đến, Tin Mừng Cứu Độ được mở rộng đến
các Dân Ngoại. Phaolô được tuyển chọn bởi chính Đức Kitô để loan báo Tin Mừng
cho Dân Ngoại: "Nhờ Người, chúng tôi đã nhận được đặc ân và chức vụ Tông Đồ,
làm cho hết thảy các Dân Ngoại vâng phục Tin Mừng hầu danh Người được rạng rỡ.
Trong số đó, có cả anh em, là những người đã được kêu gọi để thuộc về Đức Giêsu
Kitô. Kính gửi tất cả anh em ở Rôma, những người được Thiên Chúa yêu thương, được
kêu gọi làm dân thánh. Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, và xin Chúa Giêsu Kitô
ban cho anh em ân sủng và bình an."
3/ Phúc Âm: Tất cả sự việc này đã xảy ra, là để ứng nghiệm lời xưa kia
Chúa phán qua miệng ngôn sứ.
3.1/ Cuộc thụ thai khó hiểu của Maria:
Thánh-sử Matthew tường thuật cuộc thụ thai của
Maria: "Sau đây là gốc tích Đức Giêsu Kitô: bà Maria, mẹ Người, đã thành
hôn với ông Giuse. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do
quyền năng Chúa Thánh Thần. Ông Giuse, chồng bà, là người công chính và không
muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo."
Theo trình thuật này, một người
có thể nhận ra ngay hai điều quan trọng:
(1) Maria mang thai không phải bởi
Giuse: Khi Giuse định tâm lìa bỏ Maria cách kín đáo, ông xác nhận điều này, vì
Giuse là người công chính.
(2) Maria mang thai do quyền
năng Chúa Thánh Thần: Hai lần trong trình thuật hôm nay, thánh sử Matthew đề cập
đến sự thụ thai là do bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần. Lần đầu bởi chính
thánh-sử, và lần thứ hai bởi sứ thần của Thiên Chúa.
3.2/ Sự việc xảy ra để ứng nghiệm lời
ngôn sứ Isaiah: Khi Giuse đang toan tính như
vậy, thì sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng: "Này ông Giuse, con
cháu David, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do
quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ
là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ." Trình thuật
nhấn mạnh: "Tất cả sự việc này đã xảy ra, là để ứng nghiệm lời xưa kia
Chúa phán qua miệng ngôn sứ: "Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một
con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Immanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta.""
Mặc dù là trong giấc mơ, nhưng sứ thần Thiên Chúa muốn Giuse được củng cố bởi lời
của ngôn sứ Isaiah, đã được loan báo hơn 600 năm trước. Vì thế, khi tỉnh giấc,
ông Giuse làm như sứ thần Chúa dạy và đón Maria về nhà.
3.3/ Tranh luận về vấn đề đồng
trinh của Đức Mẹ: Từ thời Giáo Hội sơ khai đến
nay, thời nào cũng có những người không tin vào tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm. Đối với
họ, một phụ nữ không thể sinh con mà còn đồng trinh. Chúng ta có thể căn cứ vào
5 lý chứng sau đây để xác tín vào sự đồng trinh của Đức Mẹ:
(1) Lời ngôn sứ Isaiah đã tiên
báo gần 600 năm trước khi Đức Kitô sinh ra. Chúng ta đã phân tích từ ngữ và văn
mạch trong Bài Đọc I.
(2) Trình thuật của Tin Mừng
Matthew hôm nay hai lần nói tới việc thụ thai của Chúa Giêsu là do ý định của
Thiên Chúa và do quyền năng của Chúa Thánh Thần.
(3) Chính Giuse, chồng của Maria
cũng xác nhận việc thụ thai là không do ông; vì thế, ông toan tính lìa bỏ Maria
cách kín đáo.
(4) Thiên Chúa có uy quyền làm mọi
sự: không điều gì Ngài không thể làm được.
(5) Việc thụ thai như thế nên
làm; vì Đức Kitô là Thiên Chúa thánh thiện, không thể vương vấn tội nhơ.
Ai tiếp tục chất vấn sự đồng
trinh của Đức Mẹ, người ấy cũng chẳng khác gì vua Ahaz, luôn nghi ngờ uy quyền
của Thiên Chúa. Những người này chỉ tin vào sự lý luận khôn ngoan của mình và
tiếp tục "làm phiền" Thiên Chúa.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Con người chúng ta bị giới hạn
rất nhiều trong sự hiểu biết; vì thế, chúng ta đừng bao giờ ngoan cố trong sự cố
chấp của mình, nhưng phải biết mở lòng để đón nhận mặc khải của Thiên Chúa.
- Chúng ta cũng đừng bao giờ áp
dụng những gì chúng ta suy luận vào cho Thiên Chúa, vì Ngài rất khác và uy quyền
hơn chúng ta gấp bội. Khi không hiểu mặc khải của Thiên Chúa, chúng ta hãy
khiêm nhường xin Thánh Thần soi sáng, thay vì kiêu ngạo cho là chuyện không thể
xảy ra.
Linh mục Anthony Đinh Minh
Tiên, OP
18/12/16 CHÚA NHẬT TUẦN 4 MV – A
Mt 1,18-24
Mt 1,18-24
Suy niệm: Theo thánh sử Mát-thêu, Thiên Chúa thông truyền ý muốn của Ngài cho thánh cả Giu-se qua những giấc mộng: báo tin Ma-ri-a thụ thai cách huyền nhiệm, lệnh lên đường ngay trong đêm sang Ai cập, và cả chuyến hồi hương về Na-gia-rét. Trong mọi trường hợp, thánh Giu-se vâng lời cách mau mắn, vô điều kiện trong đức tin, không cần những phép lạ ngoạn mục, những cuộc hiện ra phi thường. Cũng như Đức Ma-ri-a nhận ra được ý định của Thiên Chúa trong lúc cầu nguyện, thánh Giu-se Giu-se nhận thức rõ ràng sự can thiệp của Thiên Chúa ngay cả trong giấc ngủ. Phải có một cuộc sống hết sức thân mật với Thiên Chúa mới có thể sẵn sàng nhận ra chấp nhận để Thiên Chúa hướng dẫn, sắp đặt cuộc đời mình theo thánh ý Người.
Mời Bạn: Thiên Chúa vẫn tiếp tục mời gọi bạn qua những biến cố bất ngờ xảy đến trong đời bạn. Bạn thắc mắc, chất vấn, kêu trách, chống đối Chúa, hay là bạn khiêm tốn vâng phục thánh ý Người?
Chia sẻ: Bạn hãy chia sẻ một kinh nghiệm về một cuộc viếng thăm của Thiên Chúa trong đời bạn qua một lời nói, một dấu chỉ, và ngay cả một giấc mơ.
Sống Lời Chúa: Thinh lặng, cầu nguyện, sống thân mật với Chúa để có thể nhận ra thánh ý Ngài qua mọi biến cố to nhỏ của đời sống.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin dạy con biết sống thinh lặng, khiêm tốn, phó thác vào Chúa như thánh cả Giu-se để chúng con cũng có thể nhận ra và mau mắn thực hành thánh ý Chúa.
ĐỪNG NGẠI (18.12.2016 – Chúa nhật 4 Mùa Vọng, năm A)
Ðể Con Thiên
Chúa làm người, cần tiếng Xin Vâng của Maria, nhưng cũng cần tiếng Xin Vâng khiêm tốn của Giuse.
Suy niệm:
Tin Mừng Luca nói đến
việc truyền tin cho Ðức Mẹ,
còn Tin Mừng Mátthêu lại
nói đến việc truyền tin cho Giuse.
Sứ thần Chúa giải tỏa nỗi
lúng túng và bối rối của ông,
khi báo cho ông hay
thai nhi nơi người vợ
chưa cùng ông chung sống
là do quyền năng Thánh
Thần.
Sứ thần mời gọi ông cứ
đón nhận Maria làm vợ,
và chấp nhận thai nhi như
con mình.
Giuse đã nói tiếng Xin
Vâng.
Ông đón lấy những mầu
nhiệm mà ông không hiểu hết.
Maria là một mầu nhiệm.
Người con sắp sinh ra bởi
Thánh Thần cũng là mầu nhiệm.
Giuse đã để cho các mầu
nhiệm vây bọc mình.
Cả cuộc đời Giuse là
chiêm ngắm các mầu nhiệm
diễn ra một cách bình
thường, sát bên ông.
Và chính cuộc đời của ông
cũng là một mầu nhiệm.
Giuse chấp nhận ý định
của Thiên Chúa
dù nó phá vỡ ước mơ ông
ấp ủ từ lâu.
Ông muốn làm chồng cô
Maria, người ông yêu mến,
nhưng Thiên Chúa lại muốn
ông làm bạn của cô thôi.
Ông muốn là cha của một
đàn con đông đúc,
nhưng ông chỉ là cha nuôi
của Ðức Giêsu.
Bề ngoài, Giuse vẫn gánh
trách nhiệm làm chồng, làm cha,
nhưng căn tính sâu xa của
ông, ít ai biết.
Ông sống một mình mầu
nhiệm đời ông trước Thiên Chúa.
Giuse đã mau mắn nói
tiếng Xin Vâng.
Ông luôn bị đánh thức vào
lúc đang an nghỉ.
Sứ thần Chúa bảo ông trỗi
dậy để làm điều gì đó.
Ông bỏ dở giấc ngủ và lên
đường giữa đêm khuya.
Từ Nadarét lên Bêlem, từ
Bêlem đi Ai cập, rồi lại trở về.
Giuse chịu trách nhiệm về
những kho báu Chúa giao.
Vâng phục một cách đơn
sơ: đó là thái độ của Giuse.
Hôm nay có thể Chúa không
nói với tôi qua giấc mơ,
nhưng qua bao con đường
khác,
rất riêng tư, mà chỉ mình
tôi cảm nhận được.
Nếu tôi mau mắn nói tiếng
Xin Vâng như Giuse,
tôi sẽ góp phần vào việc
cứu độ cả thế giới.
Ðể Con Thiên Chúa làm
người, cần tiếng Xin Vâng của Maria,
nhưng cũng cần tiếng Xin
Vâng khiêm tốn của Giuse.
Nhận Maria đang mang thai
về nhà mình,
và đặt tên cho Hài Nhi
trong tư cách một người cha:
những hành động ấy đã cho
Giuse một chỗ đứng đặc biệt
trong lịch sử cứu độ.
Chúng ta không thể đoán
được điều gì sẽ xảy ra,
nếu như Giuse cứ cương
quyết bỏ Ðức Maria.
Nhờ Giuse, Ðức Giêsu đã
là người thuộc nhà Ðavít.
Những lời hứa của Thiên
Chúa đã ứng nghiệm (x. 2Sm 7,13).
Cùng với Giuse, xin được
gọi tên Con Thiên Chúa là Giêsu.
Cùng với cả vũ hoàn, xin
gọi tên Ngài là Emmanuel.
Giêsu là
Thiên-Chúa-ở-với-ta cho đến tận thế.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
sống cho Chúa thật là điều khó.
Thuộc về Chúa thật là một thách đố cho con.
Chúa đòi con cho Chúa tất cả
để chẳng có gì trong con lại không là của Chúa.
Chúa thích lấy đi những gì con cậy dựa
để con thực sự tựa nương vào một mình Chúa.
Chúa thích cắt tỉa con khỏi những cái rườm rà
để cây đời con sinh thêm hoa trái.
Chúa cương quyết chinh phục con
cho đến khi con thuộc trọn về Chúa.
Xin cho con dám ra khỏi mình,
ra khỏi những bận tâm và tính toán khôn ngoan
để sống theo những đòi hỏi bất ngờ của Chúa,
dù phải chịu mất mát và thua thiệt.
Ước gì con cảm nghiệm được rằng
trước khi con tập sống cho Chúa
và thuộc về Chúa
thì Chúa đã sống cho con
và thuộc về con từ lâu. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
18 THÁNG MƯỜI HAI
Con Người Góp Phần Hoàn Thành
Việc Thiên Chúa Đến
Trong biến cố thăm viếng, trước
hết Êlizabét ca ngợi lòng tin của Đức Ma-ri-a: “Em thật có phúc vì đã tin rằng
mọi điều Chúa phán cùng em sẽ được thực hiện” (Lc 1,45).
Thật vậy, khi được truyền tin, Đức
Maria đã ưng thuận và bày tỏ lòng vâng phục trong đức tin. Sự ưng thuận này –
tiếng ‘fiat’ này của Mẹ – là khoảnh khắc có tầm quyết định. Mầu nhiệm Nhập Thể
là một mầu nhiệm thần linh, song đồng thời đó cũng là một mầu nhiệm của con người.
Quả vậy, Đấng mặc lấy xác phàm ấy chính là Con Thiên Chúa, là Ngôi Lời Thiên
Chúa. Tuy nhiên, đồng thời, thân xác của Người cũng hoàn toàn là thân xác nhân
loại : Đây là điều kỳ diệu trong nhiệm cục cứu độ của Thiên Chúa.
Vào chính khoảnh khắc mà Đức
Ma-ri-a nói lên lời ‘fiat’ (xin vâng): “Xin thực hiện cho tôi như lời sứ thần
nói,” thì Chúa Con có thể thưa lên với Chúa Cha: “Cha đã chuẩn bị cho con một
thân thể.” Như vậy, việc Thiên Chúa đến cũng đã được hoàn tất xuyên qua hành động
của con người, xuyên qua niềm vâng phục trong đức tin.
- suy tư 366 ngày của Đức
Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope
John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 18-12
Chúa Nhật IV Mùa Vọng
Is 7,10-14; Rm 1,1-7; Mt
1,18-24.
Lời suy niệm: “Khi tỉnh giấc,
ông Giuse làm như sứ thần Chúa truyền dạy và đón vợ về nhà.”
Thánh Giuse là người công chính.
Trước sự mang thai của Đức Mẹ, làm cho Giuse bối rối, Giuse đang toan tính cách
tốt nhất để không làm xúc phạm đến Đức Mẹ, người mà ông hằng yêu thương với sự
tôn trọng. Giữa những toan tính đó, thì Thiên Chúa đã cử sứ thần của Ngài đến
giải thích cho Giuse biết rõ sự việc và bổn phận phải thực hiện. Giuse đã vâng
nghe và làm theo lời sứ thần.
Lạy Chúa Giêsu. Trước mọi suy
tính của chúng con. Xin Chúa cho chúng con nghe được tiếng Chúa can thiệp, để
chúng con thực thi theo thánh ý Chúa.
Mạnh Phương
18 Tháng Mười Hai
Cái Nhìn Của Một Tướng Lãnh
Ðại tướng Marbot, trong tập
ký sự, có kể lại một hôm, khi còn là thiếu úy, vua Nã Phá Luân sai ông làm một
việc cực kỳ nguy hiểm. Ðó là giữa đêm khuya, luồn qua bọn lính tuần tiễu đối
phương, bắt một người lính Áo đứng canh bên kia bờ sông Danube, tra khảo để xem
tình thế của địch quân. Sau bao nhiêu cố gắng không thể tưởng tượng được, toán
quân của thiếu úy vượt qua được khúc sông và bắt được ba người lính Áo. Sau khi
đã hoàn thành công tác, họ đẩy thuyền ra xa, chèo về. Bỗng dòng nước cuốn mạnh
đẩy một gốc cây lớn xô mạnh vào thuyền. Tiếng động đó đã báo động bọn lính tuần
tiễu Áo. Họ vùng lên bắn xối xả.
Trong cơn nguy biến cùng cực ấy,
viên thiếu úy bỗng nhìn thấy một ánh lửa tỏa ra từ sườn núi chỗ đóng quân bên
kia bờ. Viên thiếu úy đã hiểu rằng, Nã Phá Luân đã theo dõi cuộc xô xát và đang
chăm chú nhìn từ cửa sổ của ông.
Ðôi mắt phượng hoàng của Nã
Phá Luân đã xé tan bóng tối để gửi đến cho những người lính trẻ sự cổ vũ khuyến
khích. Viên thiếu úy có cảm tưởng như nhà vua đã quên hết cả một đạo binh để chỉ
nhìn về phía anh. Sự chăm chú theo dõi của nhà vua đã đem lại cho những người
lính trẻ sự phấn khởi để giúp họ vượt qua được khó khăn và trở về an toàn.
Một cái nhìn của một vị tướng
lãnh đã có sức nâng đỡ người lính chiến giữa trận địa như thế, cũng vậy, Chúa
cũng đã chăm chú theo dõi và nhìn mỗi người chúng ta như thể chỉ có mỗi người
chúng ta là đáng được chú ý. Thiên Chúa không chăm sóc chúng ta như chăm sóc một
đàn cừu trong đó mỗi con vật chỉ là một con số. Thiên Chúa yêu thương chúng ta
bằng một tình yêu biệt loại. Người gọi tên từng người trong chúng ta. Người đối
xử với chúng ta như thể chỉ có ta là người duy nhất hiện hữu trên trần gian
này.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét