Tóm lược phần đầu của Thông điệp Populorum progressio
Cách đây 50 năm ngày 26 tháng 3 năm 1967 ĐGH Phaolô VI đã
công bố Thông điệp “Populorum progressio – Tiến bộ các dân tộc”, đề ra các đường
hướng mới cho xã hội, trong đó có tình liên đới như dụng cụ cai trị các dân nước.
Thông điệp đã ghi dấu một cuộc cách mạng thường được gọi là “cuộc cách mạng
Montini”. Ngay từ năm 1963 Đức Phaolô VI đã bắt đầu thu thập các tài liệu rộng
rãi liên quan tới “Sự phát triển kinh tế, xã hội, luân lý. Chất liệu nghiên cứu
cho một thông điệp về các nguyên tắc luân lý của sự phát triển”. Việc soạn thảo
Thông điệp như thế đã kéo dài nhiều năm, và sử dụng tất cả các bản tường trình
của các vị Sứ Thần Tòa Thánh, các thư từ và tài liệu của các Giám Mục, phần
đóng góp của các thần học gia, kinh tế gia và chính trị gia. Tài liệu đã
được soạn thảo 7 lần liên tiếp, lần đầu tiên vào tháng 9 năm 1964 cho tới văn bản
chung kết vào tháng 2 năm 1967, và được công bố ngày 26 tháng 3 cùng năm.
Thông điệp gồm 87 số từ phần dẫn nhập cho tới lời kêu gọi kết
thúc. Phần nhập đề khẳng định rằng “vấn đề xã hội là vấn đề luân lý”. Phần I của
Thông điệp đề cập tới mục đích thông điệp nhắm tới là thăng tiến một sự phát
triển toàn diện cho con người, tại khắp nơi trên thế giới này. Nó duyệt qua một
số các dữ kiện giải thích tại sao lại cần phát triển con người toàn diện. Tiếp
đến là tương quan giữa Giáo Hội và sự phát triển, và công việc cần thực hiện
trong các lãnh vực cụ thể của cuộc sống cá nhân, gia đình và xã hội. Sau đây là
một vài nét chính yếu.
Trong phần dẫn nhập Đức Phaolô VI ghi nhận rằng sau Công Đồng
Chung Vatican II Giáo Hội ý thức rõ ràng hơn về các đòi buộc của Tin Mừng trong
việc phục vụ con người, đặc biệt các dân tộc từ bao lâu nay đang phải sống dưới
gánh nặng của nghèo đói, bần cùng, tật bệnh và dốt nát mà không được hưởng các
hoa trái của nền văn minh nhân loại. Vấn đề xã hội có chiều kích luân lý sâu rộng,
và các dân tộc nghèo đói gọi hỏi các dân tộc sung túc. Đây đã là lý do khiến
cho Tòa Thánh thành lập Hội Đồng Công Lý và Hòa bình để thăng tiến sự phát triển
của các dân tộc nghèo nhất. Dưới ánh sáng Tin Mừng Giáo Hội đề xướng một sự
phát triển toàn diện cho con người, cho mọi người tại khắp nơi trên trái đất
này. Thật thế, con người sống tại bất cứ đâu trên trái đất này cũng đều khát
khao có được một cuộc sống bảo đảm, có công ăn việc làm ổn định, được giáo dục,
được săn sóc sức khỏe, có các quyền tự do phát biểu, tự do tín ngưỡng, được góp
phần tràn đầy vào các trách nhiệm lo cho công ích, thoát khỏi mọi hoàn cảnh bần
cùng, bị áp bức bất công và có được các điều kiện sống xứng đáng với con người
hơn. Một số các tình trạng này đã có thể là hậu quả của các chế độ thực dân,
hay của các cơ cấu xã hội thối nát.
** Tuy chúng có các hậu quả xấu xa, nhưng một số các cơ cấu
các chế độ thực dân để lại cũng hữu ích cho các dân tộc địa phương, nhất là việc
chống lại mù chữ dốt nát, bệnh tật, cũng như trong lãnh vực thông thương và cải
tiến các điều kiện sống. Tuy nhiên, thực tại kinh tế tân tiến cũng tạo ra tình
trạng mất quân bình, và hố sâu cách biệt giữa người giầu và người nghèo ngày
càng gia tăng. Tại các quốc gia nghèo, giới nông dân ngày càng ý thức được các
bất công họ phải gánh chịu. Tiến trình độc lập quốc gia khiến cho dân chúng muốn
sống kinh nghiệm các quyền từ do cá nhân, chính trị, xã hội, kinh tế.
Ngoài ra còn có sự va chạm giữa các nền văn minh truyền thống
và nền văn minh kỹ nghệ tân tiến. Các thế hệ già vẫn bám víu vào các giá trị
truyền thống, trong khi các thế hệ trẻ hướng tới các mới mẻ và coi chúng là chướng
ngại vô ích cần loại bỏ. Nguy cơ chạy theo các chủ trương cứu thế hứa hẹn ảo tưởng,
các phản ứng bạo động và nổi dậy có thể đẩy đưa các dân tộc rơi vào các ý thức
hệ độc tài là một vấn đề nghiêm trọng.
Thật ra, ngay từ lúc khởi đầu Giáo Hội đã luôn luôn
lưu tâm tới việc phát triển toàn diện cho con người, noi gương Chúa Giêsu Kitô,
là Đấng đến để phục vụ. Đó cũng là điều được hàng hàng lớp lớp các thế hệ thừa
sai thực thi khắp nơi trên thế giới, đặc biệt trong lãnh vực phát triển văn
hóa. Tuy hai lãnh vực đạo đời khác nhau, nhưng Giáo Hội ước mong trợ giúp con
người và mọi dân tộc đáp ứng các khát vọng chính đáng của họ bằng cách cống hiến
cho các dân tộc một quan niệm toàn cầu về con người và về nhân loại. Vì thế sự
phát triển phải bao gồm mọi chiều kích cuộc sống con người, chứ không phải chỉ
trên bình diện kinh tế. Thiên Chúa tạo dựng con người có trí thông minh và sự tự
do, vì thế con người có trách nhiệm đối với sự phát triển cũng như ơn cứu rỗi
và sự thành công hay thất bại của chính mình. Con người có bổn phận phát triển
mọi tài năng và khả thể của mình để là người hơn theo ý định của Đấng Tạo Hoá.
Tuy nhiên, toàn cộng đoàn xã hội và nhân loại trong đó con người sống cũng có bổn
phận tạo mọi thuận tiện cho sự phát triển này với các cơ cấu cần thiết thích hợp.
Tình liên đới đại đồng cũng là một bổn phận. Tuy nhiên, việc chiếm hữu các của
cải có thể dẫn đưa con người tới sự ham hố, bị cám dỗ ngày càng muốn có nhiều của
cải và quyền lực hơn. Tính hà tiện của các cá nhân và các quốc gia có thể lây
sang các người có ít của cải cũng như người giầu, và dấy lên một chủ trương duy
vật bóp nghẹt con người. Khi đó tâm trí con người trở thành chai cứng, khép kín
và con người không còn gặp nhau trong tình bạn nữa, nhưng chia rẽ và chống đối
nhau vì lợi lộc. Hà tiện là hình thái hiển nhiên nhất của tình trạng kém mở
mang luân lý.
Việc phát triển đòi buộc phải có thêm nhiều chuyên viên kỹ
thuật, nhưng cũng cần có nhiều tư tưởng gia có khả năng suy tư để tìm ra một nền
nhân bản mới, cho phép con người tìm lại chính mình và tiếp nhận các gia trị
cao hơn của tình yêu thương, tình bạn, của lời cầu nguyện và việc chiêm niệm,
là những giá trị giúp con người đạt các điều kiện nhân bản hơn. Do đó cần làm
sao để loại bỏ tất cả những gì khiến cho con người ít là người hơn như: sự thiếu
thốn các điều kiện vật chất tối thiểu cho cuộc sống, các cơ cấu đàn áp, lạm dụng
quyền bính, khai thác bóc lột nhân công, và mọi hình thức bất công xã hội khác.
Phải thăng tiến các điều kiện giúp cuộc sống con người được nhân bản hơn như
chiến thắng các tai ương xã hội, thăng tiến sự hiểu biết, văn hóa giáo dục và
tôn trọng nhân phẩm, cộng tác lo cho công ích, phát huy hoà bình và thừa nhận
các giá trị siêu việt, Thiên Chúa và niềm tin.
** Trong số các công tác phải làm để thực hiện việc phát triển
toàn diện cho con người có ý thức tài nguyên thiên nhiên được ban cho tất cả mọi
người. Cần sử dụng chúng thế nào để cung cấp cho mọi người các phương tiện sinh
sống. Mọi nguời và mọi dân tộc đều phải được hưởng các lợi ích của chúng theo
các luật lệ công bằng. Tư sản là một quyền, nhưng nó không được gây thiệt hại
cho công ích. Công ích đôi khi cũng đòi buộc việc truất hữu, cấm chuyển vốn ra
ngoài từ những người có lợi tức cao phát xuất từ các nguồn lợi và sinh hoạt quốc
gia, vì chuyển vốn như thế là gây thiệt hại cho đất nước.
Việc kỹ nghệ hoá cần thiết cho sức tăng trưởng kinh tế là dấu
chỉ của sự phát triển. Nó thúc đẩy con người khám phá, tìm tòi, sáng chế. Nhưng
các điều kiện mới của xã hội làm nảy sinh ra một hệ thống coi lợi nhuận như động
lực nòng cốt của việc phát triển kinh tế, dẫn đưa tới chủ thuyết tự do không
kìm hãm và chế độ độc tài, mà Đức Piô XI gọi là “đế quốc quốc tế của tiền bạc”,
là nguồn gốc của biết bao nhiêu khổ đau và bất công, cũng như các cuộc chiến
huynh đệ tương tàn trên thế giới này.
Công việc làm trong mọi hình thái khác nhau của nó khiến cho
con người cộng tác vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa, hiệp nhất các ý chí,
và làm cho các tâm hồn xích lại gần nhau. Nhưng nó cũng có thể biến con người
thành nô lệ, vì hứa bẹn tiền bạc, thụ hưởng và quyền lực mời gọi ích kỷ hay nổi
loạn. Vì thế cần cấp bách trả lại phẩm giá cho người lao động, và tái lập thế
quân bình giữa các tầng lớp xã hội với các cuộc cải cách nông nghiệp và kỹ nghệ
được chuẩn bị kỹ lưỡng để đừng tạo ra các đau khổ và bần cùng mới.
Trong những trường hợp bất công, trong đó toàn dân phải sống
trong các điều kiện tuỳ thuộc không thể thăng tiến văn hoá và tham gia vào đời
sống xã hội chính trị, thì cám dỗ dùng bạo lực để thay đổi rất lớn. Ngoại trừ
trường hợp của một chế độ độc tài hiển nhiên kéo dài chà đạp các quyền nền tảng
của con người và gây thiệt hại cho đất nước, cách mạnh bạo lực là nguồn gốc của
các bất công, các mất quân bình và các đổ vỡ mới. Cần phải can đảm dẹp bỏ
và chiến thắng các bất công. Việc phát triển đòi hỏi các thay đổi bạo dạn,
các canh tân sâu rộng và các chương trình khích lệ, kích thích, phối hợp, trợ
giúp, và hội nhập hoạt động của các cá nhân và các tổ chức trung gian làm sao để
tránh nguy cơ của việc tập thể hoá toàn diện chối bỏ các quyền tự do của con
người. Mọi chương trình đều phải nhắm phục vụ con người, giảm bất công, chống lại
kỳ thị, giải thoát con người khỏi cảnh nô lệ, và thăng tiến vật chất, tinh thần,
luân lý, tiến bộ xã hội và tăng trưởng kinh tế. Phát triển kinh tế và kỹ thuật
chỉ có ý nghĩa khi chúng phục vụ và thăng tiến con người toàn diện. Cần phải
tránh các sai lầm của chủ thuyết tự do và của các nước kỹ nghệ phát triển trong
quá khứ.
** Vì sư tăng trưởng kinh tế gắn liền với sự phát triển xã hội
nên cần phát huy giáo dục, chống nạn mù chữ dốt nát, đào tạo các chuyên viên
cho mọi ngành nghề và lãnh vực cuộc sống xã hội. Tiếp đến phải thăng tiến gia
đình là môi trường xã hội đầu tiên giúp con người phát triển toàn diện và quân
bình. Cần cải tổ các cơ cấu xã hội cũ rích và cứng nhắc tại các quốc gia nghèo
đang trên đường phát triển. Gia đình tự nhiên một vợ một chồng ổn định theo
chương trình của Thiên Chúa và được Kitô giáo thánh hóa phải là nơi gặp gỡ của
các thế hệ trợ giúp nhau có được sự khôn ngoan lớn hơn và hài hoà các quyền
của các bản vị với các đòi buộc của cuộc sống xã hội.
Việc dân số gia tăng nhanh chóng tạo ra các khó khăn mới cho
sự phát triển, vì thế người ta bị cám dỗ ngăn chặn dân số gia tăng với các biện
pháp triệt để. Các giới hữu trách xã hội phải lựa chọn các biện pháp phù hợp với
các đòi hỏi luân lý, và các cha mẹ là những người có quyền quyết định số con họ
muốn cho chào đời, theo lương tâm của họ.
Bên cạnh cơ cấu gia đình việc phát triển cũng cần tới các tổ
chức chuyên môn giúp giáo dục, đào tạo, gia tăng ý thức về công ích và các bổn
phận của từng thành phần xã hội. Một đa nguyên tổ chức hoạt động xã hội chuyên
nghiệp và nghiệp đoàn có thể chấp nhận được, khi nó bảo vệ tự do và các quyền
con người, Kitô hữu không thể chấp nhận triết thuyết duy vật vô thần không tôn
trọng tôn giáo, tự do và phẩm giá con người.
Ngoài các tổ chức nghề nghiệp cũng cần có các cơ cấu văn
hoá. Tương lai thế giới sẽ gặp nguy hiểm, nếu xã hội không có các người khôn
ngoan. Các tổ chức văn hoá bảo đảm cho cuộc sống con người có các biểu lộ
cao hơn trong các lãnh vực nghệ thuật , trí thức và tôn giáo của cuộc sống tinh
thần.
Các dân tộc nghèo phải đề phòng kiểu mẫu phát triển mà các
nước kỹ nghệ giầu đề nghị chỉ nhằm chiếm hữu sự sung túc vật chất. Cần biết lựa
chọn các thiện ích đích thật. Để có thể phát triển đích thực cần thăng tiến một
nền nhân bản toàn cầu giúp phát triển con người toàn vẹn và thăng tiến tất cả mọi
người, rộng mở cho Đấng Tuyệt Đối. Vì con người chỉ thực hiện chính mình, khi
siêu thăng chính mình.
Linh Tiến Khải
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét