Những Khuôn Mặt Phụ Nữ Trong Gia Phả Đức Giêsu Kitô (Mt
1,1-16)
Trong bài trước, “Ông phải đặt
tên…”, về chương I của sách Tin Mừng Matthêu, tôi chưa nói đến
những khuôn mặt phụ nữ trong gia phả của Đức Giêsu Kitô. Trong bản văn, mỗi
khuôn mặt phụ nữ đều xuất hiện với một “dấu láy” trong giọng văn (dịch sát):
3. Giuđa sinh Pe-ret và De-rac do
bà Ta-ma
5. San-môn sinh Bô-át do
bà Ra-kháp
5. Bô-át sinh Ô-vết do
bà Rút
6. Vua Đa-vit sinh Sa-lô-môn do
vợ của U-ri-gia
16. Gia-cop sinh Giu-se chồng
của bà Maria, do bà này mà Đức Giêsu được sinh ra, Đấng được gọi là Kitô.
I. Những người phụ
nữ này là ai?
1/ Ta-ma
Người phụ nữ thứ nhất là Ta-ma,
người phụ nữ công chính. Sách Sáng Thế kể về
Bà trong chương 38, như một khoảng nghỉ khi đang kể chuyện dài về ông Giuse.
Câu chuyện của bà này thật éo le. Ông Giu-đa lấy vợ người Ca-na-an, sinh được
ba đứa con trai. Ông cưới cho con trai đầu lòng một nguời vợ tên là Ta-ma (dĩ
nhiên cũng là người Ca-na-an như vợ ông). Con cả chết mà không có con, theo luật
thừa kế, người con trai thứ hai phải “chu toàn nhiệm vụ của một người em chồng
và làm cho anh có người nối dõi”. Cậu này nhận nhiệm vụ một nửa thôi, ăn ở
với chị dâu nhưng cố tình không cho chị cơ may sinh con. Cậu bị Chúa phạt chết.
Ông Giu-đa bảo con dâu tạm về nhà cha mẹ, đợi thằng em út lớn lên sẽ tính tiếp.
Đến lượt ông Giu-đa tìm cách “đánh bài lờ”, vì thấy Ta-ma có “số sát chồng”,
ông sợ cho tính mạng con trai út.
Nhưng Ta-ma không phải là người
phụ nữ chịu để người ta cho “ăn thịt lừa”. Bà quyết dành kỳ được quyền lợi cho
chồng: có con nối dõi từ dòng giống nhà chồng. Thừa lúc ông Giu-đa mới mãn tang
vợ (mẹ chồng của bà), bà đón đường và che mặt giả làm gái điềm. Bà dụ dược ông
Giu-đa. Ông mặc cả, nàng chịu cho “trả tiền sau” bằng “một con dê con”. Ta-ma
đòi “có chút gì giữ làm tin”. Giu-đa chịu đưa “chiếc ấn, sợi dây đeo ấn và
cây gậy ông cầm ở tay”. Nên nhớ chiếc ấn liên quan tới quyền thừa kế, [người
cha cho lại đứa con hoang đàng chiếc nhẫn, tức là cho lại quyền thừa kế (x. Lc
15,22)]. Khi Giu-đa cho người dẫn con dê con tới chuộc tín vật thì người đẹp đã
biến mất cùng với tín vật. Ông Giu-đa tự trấn an: “Miễn sao đừng bị chê cười
vì không giữ lời hứa…”
Nhưng ba tháng sau, người
ta báo tin cho ông : “Ta-ma, con dâu ông đã đi làm điếm, nó còn mang bầu vì
đi làm điếm nữa”. Ông Giu-đa phán quyết ngay: “Lôi nó ra mà thiêu sống!”
Người ta làm thiệt! nhưng khi bị
lôi ra thì bà ôm theo các tín vật và yêu cầu bố chồng nhận lại. Bà tự lột khăn
che mặt và phơi mặt luôn ông bố chồng. Ông đành phải thú nhận: “Nó công
chính hơn tôi; quả thật tôi đã không cho nó làm vợ Sê-la con trai tôi”. Bà
đã thành công trong việc bảo vệ quyền lợi cho chồng, Bà đã bảo đảm được cho chồng
có con nối dòng chính hiệu, lại còn sinh đôi nữa!
Câu chuyện quả là éo le đối với
người đọc hôm nay. Nhưng Sách Thánh kết thúc với phán quyết của ông Giu-đa: “nó
công chính hơn tôi”. Ông sòng phẳng với cô gái điếm để khỏi bị chê cười,
nhưng lại không giữ lời hứa với con dâu và con trai mình. Cô là người công
chính và làm cho ông bố chồng trở thành công chính.
2/ Người phụ nữ thứ
hai: Ra-kháp (Gs 2; 6,22-23).
Nếu Ta-ma giả làm gái điếm, thì
Ra-kháp là gái điếm thứ thiệt, “quốc tế” như trong những phim gián điệp hiện đại!
Bà đã đón hai “điệp viên” do ông Gio-su-ê phái “đi xem vùng đất và thành
Giê-ri-khô”. Nhờ mưu trí, bà đã cứu mạng và giúp cho hai gián điệp này thoát
đi. Bà nhận được lời hứa “đền ơn cứu mạng” và một tín hiệu để bảo đảm cho bà và
mọi người trong gia đình được an toàn khi Giêri-khô thất thủ. Ra-kháp cứu mạng
hai gián điệp của Giosuê, nhờ đó bà cứu mạng cả gia đình dòng họ nhà bà: hai
gián điệp được sai vào “đem cô ra khỏi đó cùng với cha mẹ, anh em cô và mọi
người thân thuộc của cô: họ đem tất cả thị tộc của cô ra khòỉ đó, và cho họ ở
bên ngoài trại It-ra-en”.
3/ Người phụ nữ thứ ba:
Rút (sách Rút).
Rút là một khuôn mặt khác hẳn:
người con dâu trẻ gốc Mô-áp, đơn sơ chất phác. Góa chồng sớm, nhưng quyết theo
mẹ chồng, cũng là góa phụ, về quê chồng, dù không còn hy vọng có con nối dõi
cho chồng: “Mẹ đi đâu, con đi đó, mẹ ở đâu, con ở đó, dân của mẹ là
dân của con, Thiên Chúa của mẹ là Thiên Chúa của con. Mẹ chết ở đâu con chết ở
đó, và nơi đó con sẽ được chôn cất” (Rút 1,16).
Với lòng hiếu thảo đó nàng đã đi
mót lúa để nuôi mẹ chồng. Lòng hiếu thảo và sự cần cù của nàng đã làm rung động
tâm hồn môt người họ hàng bên chồng là ông Bô-át. Ông đã đứng ra thi hành bổn
phận môt người trong họ hàng, chuộc gia sản và gầy dựng người nối dõi
cho người trong dòng họ. Ông đã chuộc lại ruộng đất của chồng con bà
Nô-ê-mi và cưới Rút làm vợ. Rút sinh con trai. Mọi người chúc mừng bà Nô-ê-mi
và hết lời ca tụng nàng dâu: “Nó [đứa trẻ] sẽ giúp bà lấy lại
sức sống, và sẽ là người nâng đỡ bà trong tuổi già, vì người con dâu yêu quý bà
đã sinh ra nó, nàng quý giá hơn bảy đứa con trai”. Con dâu hiếu thảo như thế
quả là hiếm có!
4/ Người phụ nữ thứ tư:
Bát Sê-va, vợ ông U-ri-gia người Khết (2 Sm 11-12; 1 Vua 1)
Nếu ba người phụ nữ trước làm
cho dòng sông được chảy tiếp mỗi khi bế tắc, thì bà Bat Sê-va là người khai
sông: Đa-vit có gần chục bà vợ, hàng tá con trai, ví như nước nguồn chảy vào biển
hồ Galilê, nước có nguy cơ ngừng chảy và thành nước ao tù. Từ bồn tắm trên sân
thượng nhà bà, bà nhảy vô biển hồ của vua Đa-vit và làm sạp lở một mảng bờ hồ,
thành cửa cho nước biển hồ lại chảy thành sông. Bản văn láy vô chỗ “vợ
U-ri-gia người Khết” (không phải người It-ra-en!).
Đọc sách 2 Sa-mu-en
chương 11-12 chúng ta có cảm tưởng như tất cả tội lỗi đổ lên đầu vua
Đavit, bà chỉ là nạn nhân. Nhưng đọc kỹ một chút thì sẽ thấy “coi vậy mà không
phải vậy”. Trước hết không nên tách câu chuyện này ra khỏi toàn bộ chuyện “nhà
Đavit” với những mưu mô chốn cung đình, cá tính của cha con nhà Đavit, nhất
là Đavit và người kế vị. Cả một bộ “chuyện dài nhiều tập” liên quan tới việc kế
vị Đavit.
Trước hết cần nhìn “toàn cảnh”
cá tính tài tử đa tình, anh hùng đẹp trai mà Sách Thánh mô tả Đavit từ khi xuất
hiện lần đầu trên “sân khấu”:
– đẹp trai : “cậu
có mái tóc hung, đôi mắt đẹp và khuôn mặt xinh xắn” (1 Sm 16,12);
– một nghệ sĩ với
tiếng đàn có sức như liều thuốc an thần cho vua Sa-un (1Sm 16,14-23);
– một cậu bé anh hùng,
tuổi trẻ tài cao, hạ được tên khổng lồ Goliat để cất nỗi nhục cho
It-ra-en (1 Sm 17), khiến vua Sa-un phải ghen tị,
– và sớm trở thành một danh
tướng (1 Sm 18, 6-16);
– sẵn sàng liều mạng vì
người đẹp Mi-khan công chúa, lấy mạng hai trăm người đàn ông Phi-li-tinh để
làm đồ thách cưới theo yêu cầu của nhà vua (1 Sm 18,17-27).
– Đavit đa tình đa
cảm, đa thê, đa tử: thời gian lưu lạc như một tên thảo khấu trong hoang
địa, cảm kích vì sự đảm đang của bà góa A-vi-ga-gin,
ông đã cưới bà làm vợ, rồi lại cưới thêm bà A-khi-nô-am. Bản tổng kết thứ nhất
về gia đình vua Đavit khi ở Khép-rôn đã cho tên sáu người con trai do sáu bà vợ,
không kể công chúa Mi-khan vô sinh (2 Sm 3,2-5). Bản tổng kết thứ hai tại
Giêrusalem cho tên mười một người con trai nữa (2 Sm 5,13-14).
Đến khi Ap-sa-lon làm phản,
chúng ta lại thấy nói đến mười tỳ thiếp mà khi Đavit chạy trốn đã để lại giữ
nhà, bị Ap-sa-lon bắt tất cả làm vợ của mình để chứng tỏ mình đã làm vua
(x. 2 Sm 16,20-22 và 20,3), đúng như lời ngôn sứ Na-than (2 Sm
12,11-12). Có vẻ như đó là phong tục, vì lời ngôn sứ Na-than cho thấy Đavit
cũng đã làm như thế với những người vợ của Sa-un khi chiếm được ngôi vua (2
Sm 12,8).
Trở lại chuyện “mùa xuân”
trong hai chương 11-12. Nghệ thuật kể chuyện tuyệt vời, ngọt xớt đến nỗi người
nghe bị cuốn theo mà không ngờ là người kể đã khéo dùng ngón tay ảo thuật che
đi một góc bức tranh. Chúng ta chỉ đọc ra hết khi đọc cho hết câu chuyện Bat
Sê-va. Câu chuyện được lồng trong hai chuyện khác: cuộc chiến ở ngoài
biên giới và cuộc chiến trong cung điện nhà vua về việc kế vị Đavit. Câu chuyện
kế vị chỉ kết thúc với việc bà Bat Sê-va dành được ngai vua cho con là
Sa-lô-môn, qua đó định hướng cho dòng chảy của dòng dõi Đavit. Cuộc chiến ngoài
biên thùy là bối cảnh và cơ hội cho việc Bat Sê-va thành vợ của Đavit và sinh
ra người thừa kế, với cái chết của chồng bà là tướng U-ri-gia, dưới chân thành
Rabba.
Ba câu chuyện thật lồng vào
nhau, lại còn một dụ ngôn ở giữa để giải nghĩa. Dụ ngôn của Na-than để mở mắt
cho Đa-vit nhận ra tội giết người cướp vợ, mang ý nghĩa sâu và dài hơn ta tưởng
lúc đầu. Khi theo dõi số phận“con chiên cái” Bat Sê-va cho tới lần xuất
hiện cuối cùng để đưa Sa-lô-môn lên ngai của Đavit (1 Vua 1), ta thấy nạn
nhân đích thật là U-ri-gia bị mất mạng, Đavit thế chỗ của U-ri-gia, “con chiên
cái” từ nay thành “duy nhất” trong lòng Đavit. Kể từ lúc này các bà vợ khác
của Đavit không còn được nhắc đến nữa. Nàng A-vi-sac sẽ hầu hạ Đavit khi những
cái mền len không còn đủ sức giữ ấm cho Đavit, nhưng không phải là vợ của
Đavit. Bat Sê-va là người vợ cuối cùng trong cuộc đời đa tình đa thê của Đavit.
Các đứa con khác của Đavit giết lẫn nhau và đe dọa cả tính mạng của Đavit. Sau
khi hoàng tử A-đô-ni-gia đã tự lên ngôi, Na-than bảo bà Bat Sê-va: “Tôi xin
góp ý với bà để bà tự cứu lấy mạng mình và mạng Sa-lô-môn…” Bà vào nhắc vua
Đavit nhớ lại lời hứa cho Sa-lô-môn kế vị (1 Vua 1,17-21), rồi Na-than
vào bồi thêm. Kết quả Đavit ra lệnh cấp tốc đặt Sa-lô-môn lên ngai, cũng như
ngày trước vua đã cấp tốc cho đi mời bà vào cung, rồi cấp tốc cưới bà làm vợ.
Câu chuyện mở đầu thế này: “Lúc
xuân về, thời mà các vua ra quân, vua Đavit sai ông Gio-áp đi… giết hại con cái
Am-môn và vây hãm Rap-ba… Còn vua Đa-vit thì ở lại Giêrusalem.” Nghe cứ
như là mùa săn bắn vậy! Trong khi cuộc chiến do tướng Giô-áp chỉ huy ở bên kia
sông Gio-đan được tóm trong hai chữ “giết hại” và “vây hãm”, thì chuyện xảy ra
với vua Đavit ở nhà cũng sẽ được ngôn sứ Na-than ví như một cuộc cướp bóc và giết
hại. Hai cuộc săn bắn mùa xuân! Cuộc săn bắn trực tiếp của Đavit diễn ra giữa
hai sân thượng, cuộc săn bắn do Giô-ap chỉ huy diễn ra ở thành Rabba (Am-man
ngày nay), nhưng kẻ bị giết hại chung cho cả hai cuộc săn bắn là U-ri-gia, chồng
của Bat Sê-va: Giô-ap sẽ mời Đavit kéo quân còn ở nhà qua mà kết thúc con mồi
Rabba, sau khi cuộc săn bắn trên sân thượng đã kết thúc với việc Đavit “đưa
nàng về dinh” và nàng cho ông có đứa con nối ngôi.
Ôi mùa xuân của Đavit tuyệt vời:
một lần ra quân mà bắt được “vợ của U-ri-gia” và bắt được cả thành Rabba nữa.
Khi nhận báo cáo quân sự thứ nhất
của tướng Giô-áp về tổn thất nhân mạng, Đavit giả bộ coi cái chết của U-ri-gia,
chồng bà Bát Sê-va như một hậu quả may rủi đương nhiên phải xảy ra: “việc
binh đao là thế, khi thì người này khi thì người kia”, nhưng sự thật là
chính vua đã trao cái thư phong tặng “anh dũng bội tinh và bảo quốc huân
chương” cho ông U-ri-gia cầm theo mà lãnh từ tay tướng Giô-áp, sau khi ông
không chịu làm theo ý Đavit là về nhà “đánh véc-ni” giùm cho tác phẩm mùa xuân
của Đavit. “Rượu mời không uống thì uống rượu phạt”!
Đavit nóng lòng chờ bản báo cáo
này để “đưa nàng về dinh”.
Báo cáo quân sự thứ hai của
Giô-áp để xin Đavit dẫn quân tới kết thúc cuộc săn bắn ở ngoại biên nói: “Tôi
đã tấn công Rabba, tôi còn hạ được cả thành dưới, chỗ có nhiều nước”.
Nếu vẽ thành hai bức tranh: “cuộc
vây hãm thành Rabba” và “bồn tắm mùa xuân” của Bat Sê-va, đặt
song song với nhau như nghệ thuật kể chuyện của tác giả gợi ý, rồi nhìn cả hai
củng một lúc, ta sẽ thấy “bồn tắm của Bat Sê-va” ở cái sân thượng (dĩ nhiên) thấp
hơn, có vẻ là nơi nàng thành nạn nhân của Đavit, nhưng thực ra đó là lúc nàng
“hạ” thành của Đavit, sau khi đã vây hãm bằng những màn tấn công khác từ sân
thượng nhà nàng, vốn chẳng xa dinh của Đavit, và cũng đã chiếm được ưu thế đến
nổi dám đặt bồn tắm trên sân thượng mà tắm trước mặt Đavit đang ở sân thượng
cao hơn. Ông không cần ống nhòm mà ngắm nhìn được tất cả vẻ đẹp của nàng phơi
ra trước mắt ông. Bà quả là đẹp “nghiêng thành nghiêng nước” [nhất cố khuynh
nhơn thành, tái cố khuynh nhơn quốc: nhìn một cái làm nghiêng thành, nhìn cái nữa
làm nghiêng nước]. Người đẹp trong sách Diễm Ca chắc cũng đến thế là cùng! Từ
trên sân thượng nhìn ngắm người đẹp “oai hùng như đạo binh chỉnh tề hàng
ngũ”(Dc 6,4), Đavit đã choáng váng: “Thôi đi, nàng đừng đưa mắt nhìn anh
nữa, đôi mắt làm anh choáng váng rồi” (Dc 6,5)… và đầu hàng vô điều
kiện, mở toang cổng rước nàng vào. Bat Sê-va hạ được thành và dành được cả nước
của Đavit cho con bà.
II. Ý nghĩa sự hiện
diện của bốn người phụ nữ này trong gia phả Đức Giêsu Kitô.
Điều hiện ra ngay truớc mắt khi
đọc bản văn là mỗi lần nêu tên một người phụ nữ là có cái gì trục trặc trong
dòng “sinh”, và mỗi người phụ nữ xuất hiện đều là người giúp cho sự sống được
tiếp tục.
Yếu tố thứ hai cũng dễ nhận ra
là: Tama, Ra-khap, Rút đều là người ngoài dân It-ra-en, người thứ tư mang tên
là “vợ của U-ri-gia, một người Khết” (Mt không nêu tên thời con gái của
bà!). Vậy thì các bà đã chuyền cho Đức Giêsu dòng máu ‘dân ngọai”. Mang hai
dòng máu, Đức Giêsu Kitô là Đấng Cứu Độ của muôn dân: “Hãy đi và àm cho muôn
dân trở thành môn đệ” (Mt 28,19).
Sự hiện diện của các bà cũng tô
đậm sự quan phòng của Thiên Chúa mà bản tổng kết gia phả diễn tả qua ba chuỗi
14.
Thiên Chúa điều khiển lịch sử để
thực hiện kế hoạch cứu độ theo đúng lời hứa, trong đó người phụ nữ là người đem
lại sự sống và bảo vệ sự sống, làm cho sự sống được tiếp tục, đảm nhận sứ mạng
“mẹ của chúng sinh”.
III. Người phụ nữ thứ
năm: hài nhi và mẹ.
Cái gãy khúc trong lời văn ở câu
16 dài hơn, lại phải chờ “ông thu thuế” tổng kết xong rồi mới kể tiếp để giải
thích. Hình như ông thu thuế đếm lộn, từ thời lưu đầy đến Đức Giêsu chỉ có 13 đời,
kể cả Chúa Giêsu. Cái khoảng cách giữa ông Giuse và Chúa Giêsu xa hơn ngay
trong câu văn:
Gia-cop sinh Giuse, chồng của
bà Maria –
do bà này mà Đức Giêsu được
sinh ra gọi là KITÔ.
So sánh với chuyện Đavit Bat
Sê-va:
Đavit sinh Sa-lô-môn do vợ của
U-ri-gia:
vợ của U-ri-gia, nhưng con lại
là của Đavit!
Giuse là chồng của bà Maria
Đức Giêsu được sinh ra từ người mẹ là Maria,
nhưng lại không thể nói Giuse
sinh Đức Giêsu do bà Maria. Tại sao?
Mt giải thích khúc mắc này:
Bà Maria và ông Giuse là vợ chồng
nhưng chưa rước dâu nên chưa về sống chung. Bà đã có thai do quyền năng
Thánh Thần.
Nếu vậy làm sao Đức Giêsu là “con
của Đavit” được?
Trong bản văn thì đây là điểm thắc
mắc chứ không phải việc bà có thai do quyền năng Thánh Thần. Sau này Đức Giêsu
sẽ ra câu đố ngược lại: “Nếu Vua Đavit gọi Đấng Kitô là Chúa Thượng, thì làm
sao Đấng Kitô lại là con vua ấy được?” và “Không ai đáp lại Người được một
tiếng” (Mt 22,45-46).
Bản văn còn kể về phản ứng dứt
khoát của Giuse để cho thấy bào thai bà đang mang đó không phải là con của ông.
Sứ thần của Chúa cũng khẳng định
cái bào thai trong lòng bà Maria là do quyền năng Thánh Thần. Chỉ cần ông Giuse
rước vợ về nhà để bà sinh con trong nhà ông, và ông, với tư cách “con của
Đavit” phải đặt tên cho đứa con, để đứa con cũng thành “con của Đavit”. Mt còn
bồi thêm một câu: ông làm theo lời sứ thần: cấp tốc rước vợ về nhà, “nhưng
ông không ăn ở với bà, cho đến khi bà sinh một con trai, và ông đặt tên cho con
trẻ là Giêsu”. Ông Giuse không tham dự vào việc “do bà mà Đức Giêsu được
sinh ra”. Cách nói thụ động “được sinh ra” mà không phải do ông Giuse hay một
người đàn ông thì chỉ có “do Thiên Chúa”. Mt giải thích “do quyền năng Thánh
Thần”.
Kể từ lúc này thì cụm từ “hài
nhi và mẹ” sẽ được lặp đi lặp lại. “Hài nhi và mẹ” như gắn chặt với
nhau. Ông Giuse thành người bảo vệ mạng sống cho “hài nhi và mẹ”, nhưng
Thiên Chúa sai sứ thần trực tiếp truyền lệnh cho ông. Ông là người tôi tớ trung
thành, luôn mau mắn thi hành lệnh của Thiên Chúa để bảo vệ “hài nhi và mẹ”.
Khỏang cách giữa ông Giuse và Đức
Giêsu được diễn tả rõ ràng, vì bản văn kể Đức Giêsu là đời thứ 14, nhưng đếm kỹ
thì ông Giuse là đời thứ mười hai. Bỏ trống một đời giữa ông Giuse với Chúa
Giêsu, không phải Mt đếm lộn hay bỏ sót! Cái khoảng trống ấy
khiến chúng ta thắc mắc và chú ý tới lời giải thích theo sau để biết sự thật về
Đức Giêsu. Khoảng trống một đời cũng là để cho thấy có một sự sống mới đột nhập
vào lịch sử sự sống của loài người. Chúa Giêsu sẽ mời gọi đánh đổi tất cả để giữ
được sự sống mới này (Mt 18,5-9).
Bà Maria Mẹ của hài nhi Giêsu
chính là người phụ nữ đem lại cho chúng ta sự sống mới này, sự sống đến thẳng từ
Thiên Chúa, do quyền năng Thánh Thần.
Bà quả là Evà mới, Mẹ của chúng
sinh:
Mẹ nhân lành, làm cho chúng con được sống, được vui, được cậy…
Mẹ nhân lành, làm cho chúng con được sống, được vui, được cậy…
Giêrusalem, lễ Giáng Sinh
2013.
L.M. Giuse Nguyễn Công
Đoan, S.J.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét