Vị Giáo Hoàng anh hùng và một chuyến đi thật đúng lúc
Đặng Tự Do5/1/2017
Quá thường
là khi một biến cố xảy ra, chúng ta khó biết được liệu biến cố ấy có phải là một
sự kiện lịch sử đang thay đổi vận mệnh của một quốc gia, một dân tộc hay của cả
thế giới hay không.
Tuy nhiên,
có thể không sợ sai lầm để nói rằng chuyến tông du 27 tiếng đồng hồ của Đức
Thánh Cha tại Ai Cập trong tuần qua có nhiều khả năng đi vào lịch sử nhân loại
như là một trong những khoảnh khắc “lớn lao”.
Cộng đoàn
Kitô hữu Coptic
Chữ
“Coptic” là tiếng Hy Lạp xưa có nghĩa là “Ai Cập”.
Trong các
bài đọc lễ Vọng Phục sinh, chúng ta nghe bài trích sách Xuất Hành, đoạn nói về
việc con cái Israel đi vào giữa lòng biển khô cạn.
Trong những
ngày ấy, Chúa phán cùng Môsê rằng: “Có gì mà kêu đến Ta? Hãy bảo con cái Israel
cứ lên đường. Còn ngươi, đưa gậy lên, và giơ tay trên biển, hãy phân rẽ biển
ra, cho con cái Israel đi vào giữa lòng biển khô cạn. Còn Ta, Ta sẽ làm cho
lòng người Ai Cập ra chai đá, chúng sẽ rượt theo sau các ngươi. Bấy giờ Ta sẽ tỏ
vinh quang cho Pharaon, toàn thể quân lực, chiến xa và kỵ binh của vua ấy biết.
Người Ai Cập sẽ biết Ta là Chúa khi Ta tỏ vinh quang cho Pharaon, chiến xa và kỵ
binh của vua ấy biết”.
Những người
Coptic ngày nay là dòng dõi người Ai Cập đã được đề cập trong bài trích sách Xuất
Hành này, nghĩa là dòng dõi của dân tộc do các vua Pharaon lãnh đạo. Trong tổng
số 95 triệu dân Ai Cập ngày nay, họ chiếm 10%. 90% còn lại là những người ngoại
bang, là những người Ả rập tràn vào Ai Cập theo cơn lũ của những cuộc thánh chiến
Hồi Giáo do Muhammad gây ra.
Năm 1952,
theo sau cuộc cách mạng Ai Cập nhằm xóa bỏ chế độ thực dân của Anh, người
Coptic, đa số theo Chính Thống Giáo và Công Giáo bị coi là công dân hạng hai,
và ở nhiều vùng nông thôn, họ bị đuổi tận giết tuyệt. Hàng mấy thập niên sau cuộc
cách mạng 1952, người ta vẫn còn phải chứng kiến những cuộc di cư khổng lồ của
người Coptic ra nước ngoài để tránh bị diệt chủng. Bên cạnh hơn 9 triệu người
Coptic vẫn còn sống bên trong lãnh thổ Ai Cập còn có khoảng 2 triệu người
Coptic sinh sống tại hải ngoại.
Các Kitô hữu
Coptic vẫn còn sống bên trong lãnh thổ Ai Cập thường bị công khai phân biệt đối
xử và chính phủ nước này chủ yếu là do người Hồi giáo nắm giữ thường xuyên bị
chỉ trích vì đã làm ngơ trước cảnh ngộ của họ. Vì thế, từ thời Đức Giáo Hoàng
Piô thứ 12, tình cảnh của các Kitô hữu Coptic luôn là một mối âu lo của các triều
Giáo Hoàng.
Đức
Bênêđíctô thứ 16 lên tiếng bênh vực các Kitô hữu Coptic và phản ứng từ Ai Cập
Chỉ sáu năm
trước, vào ngày 1 tháng Giêng năm 2011, một quả bom đã phát nổ bên trong một
nhà thờ Chính Thống Coptic ở Alexandria, khiến 23 người chết. Một ngày sau đó,
tại Rôma, Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI lên án hành động tàn bạo này trong buổi
đọc Kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật 2 tháng Giêng.
Ngài nói:
“Tôi rất buồn khi hay tin về vụ tấn công nghiêm trọng chống lại cộng đồng Kitô
giáo Coptic ở Alexandria, Ai Cập. Những hành động hèn nhát gieo rắc chết chóc
như thế, cũng như vụ ném bom vào nhà các tín hữu Kitô tại Iraq nhằm buộc họ phải
ra đi, xúc phạm đến Thiên Chúa và toàn thể nhân loại, là những người chỉ mới
hôm qua đã cầu nguyện cho hòa bình và bắt đầu một năm mới với đầy hy vọng…Với
các thành viên trong gia đình của họ, và nhân dân Ai Cập, tôi bày tỏ lời chia
buồn chân thành của tôi và bảo đảm với anh chị em những lời cầu nguyện của tôi
xin Chúa ban ơn chữa lành cho những người phải đau khổ vì biến cố này.”
Một tuần
sau đó, hôm 10 tháng Giêng, 2011, trong cuộc gặp gỡ với ngoại giao đoàn cạnh
Tòa Thánh, Đức Thánh Cha Bênêđíctô thứ 16 nói:
“Đối với những
nhà cầm quyền và các nhà lãnh đạo Hồi giáo, tôi lặp lại lời kêu gọi chân thành
của tôi rằng các đồng bào Kitô hữu của họ phải được sống an ninh, trong khi tiếp
tục đóng góp cho xã hội mà họ là những thành viên đầy đủ… Có cần tôi lặp lại điều
này không? Ở Trung Đông, các Kitô hữu là những công dân bản địa và chân chính,
trung thành với tổ quốc của họ và đảm nhận những nhiệm vụ của họ đối với đất nước
họ. Đương nhiên là họ đáng được hưởng tất cả các quyền công dân, tự do lương
tâm, tự do tín ngưỡng và tự do trong việc giáo dục, giảng dạy và sử dụng các
phương tiện thông tin đại chúng”.
Giáo sĩ
Ahmad al-Tayeb, vốn dĩ đã bất mãn với Đức Bênêđíctô thứ 16 sau diễn từ của ngài
tại Đại học Regenburgs hôm 12 tháng Chín, 2006 lập tức lên tiếng chỉ trích Đức
Bênêđíctô là “có thành kiến với Hồi Giáo” và “xen vào nội bộ Ai Cập”. Một ngày
sau đó, chính phủ Ai Cập của tổng thống Hosni Mubarak triệu hồi đại sứ cạnh Tòa
Thánh về nước.
Đức
Phanxicô lên tiếng và phản ứng của Ai Cập
Những gì đã
xảy ra sáu năm trước đây, tức là vào tháng Giêng, 2011, đã lặp lại tương tự như
vậy trước chuyến tông du của Đức Phanxicô. Bom đã nổ trong hai vụ tấn công khủng
bố nhắm vào các tín hữu Kitô Coptic. 45 người chết và 125 người khác bị thương
trong ngày Chúa Nhật Lễ Lá đẫm máu.
Và khi đến
Cairo, Đức Thánh Cha Phanxicô, cũng lặp lại tương tự những gì Đức Bênêđíctô thứ
16 đã từng nói:
“Tôi cũng
nghĩ đến nạn nhân các vụ tấn công vào các nhà thờ Coptic, trong tháng Mười Hai
vừa qua và mới gần đây thôi ở Tanta và Alexandria. Với các thành viên của gia
đình họ, và với mọi người dân Ai Cập, Tôi xin gửi lời chia buồn và lời cầu nguyện
tận đáy lòng tôi xin Chúa ban cho họ được mau chóng chữa lành các vết thương.”
Lần này,
người ta không rút đại sứ về nước, nhưng đứng dậy vỗ tay!
Ahmad
al-Tayeb, Đại Imam của Đại Học Al-Azhar, trường thần học quan trọng bậc nhất
trong thế giới Hồi Giáo Sunni, không những đã vỗ tay mà chính ông còn phụ họa với
Đức Giáo Hoàng trong việc lên án những hành vi bạo lực tôn giáo.
Ông Tayeb
thậm chí đã mở đầu diễn từ của mình bằng cách kêu gọi tất cả mọi người trong hội
trường đứng dậy và yên lặng trong một phút để tưởng niệm các nạn nhân khủng bố
và như một cử chỉ liên đới và an ủi gia đình họ!
Hôm thứ Sáu
28 tháng Tư, các kênh truyền hình toàn thế giới truyền đi hình ảnh Đức Giáo
Hoàng và ông Tayeb ôm nhau thắm thiết, và ông ta lộ một vẻ xúc động mạnh khi Đức
Thánh Cha Phanxicô gọi ông là “người anh em của tôi”.
Những gì đã
thay đổi trong sáu năm qua?
Trước hết,
bối cảnh chính trị ở Ai Cập đã thay đổi. Vào năm 2011, chính phủ của Tổng thống
Hosni Mubarak đang phải đối mặt với cuộc phản kháng rộng rãi, và cuối cùng đã bị
cuốn trôi khỏi quyền lực chưa đầy một tháng sau đó. Một số nhà phê bình Mubarak
vào lúc đó thậm chí còn tố cáo rằng ông ta thực sự đã đứng đằng sau vụ tấn công
khủng bố vào cộng đoàn Kitô hữu Coptic ở Alexandria, trong một nỗ lực tuyệt vọng
nhằm biện minh cho một cuộc đàn áp quân sự lan rộng có khả năng ngăn chặn phong
trào phản kháng.
Trong bối cảnh
đối phó với tình hình trong nước còn không xong, chính phủ Hosni Mubarak còn
đâu tâm trí để quan tâm đến những lời chỉ trích bên ngoài, kể cả những chỉ
trích đến từ Đức Giáo Hoàng.
Lần này thì
khác, chính quyền của Tổng thống Abdel Fattah al-Sisi tỏ ra vững chắc hơn, được
sự ủng hộ khá rộng rãi của nhân dân trong nước, và chính Sisi là người đã lên
tiếng mạnh nhất trong thế giới Hồi Giáo về sự cần thiết của một cuộc chiến chống
chủ nghĩa khủng bố và chủ nghĩa cực đoan tôn giáo.
Tiếp đón Đức
Giáo Hoàng, tổng thống cười thật rạng rỡ. Sự ủng hộ mạnh mẽ của Đức Giáo Hoàng
cho chương trình chống khủng bố của ông ta được diễn dịch như một sự công nhận
quyền bính hợp hiến của ông sau vụ lật đổ Mohammed Morsi, từ một thẩm quyền
luân lý cao nhất thế giới, và như thế, nó còn có thêm một tác dụng to lớn là
làm mờ nhạt đi những lời chỉ trích về hồ sơ nhân quyền của ông trong việc đàn
áp các thành phần đối lập chính trị.
Hơn nữa, Đức
Phanxicô là một hình ảnh được ưa thích trong thế giới Hồi giáo. Sự khăng khăng
lặp đi lặp lại của ngài rằng Hồi giáo là một tôn giáo hòa bình, và không gắn kết
Hồi Giáo với khủng bố và bạo lực đã khiến ngài trở thành một nhân vật rất được
người Hồi Giáo ưa chuộng. Chẳng vậy, Al Jazeera đã không cho chạy hàng tít lớn:
“Pope Francis in Egypt: A voice of reason”, nghĩa là “Đức Giáo Hoàng Phanxicô tại
Ai Cập: Một tiếng nói của lý trí”.
Đức
Phanxicô còn có một đặc sủng là đôi khi những cử chỉ rất nhỏ của ngài lại có một
tác động rất lớn - chẳng hạn như ngài mở đầu tất cả mọi bài diễn văn ở Ai Cập,
kể cả bài giảng của ngài trong Thánh Lễ Công Giáo hôm thứ Bẩy 29 tháng Tư, với
cụm từ As-Salaam-Alaikum, nghĩa là “Bình an ở cùng các bạn”, mà người Hồi giáo
nghe như một dấu chỉ của một sự kính trọng. Nhiều lần, người ta đã vỗ tay nhiệt
liệt chỉ đơn giản là vì ngài đã dùng cụm từ này.
Khi ngài
nói tại Đại Học Al Azhar: “Trong tư cách là các nhà lãnh đạo tôn giáo, chúng ta
được kêu gọi để vạch trần bạo lực núp dưới mặt nạ của sự thánh thiêng… Chúng ta
có nghĩa vụ tố cáo những vi phạm nhân phẩm và nhân quyền, vạch trần những nỗ lực
nhằm biện minh cho mọi hình thức hận thù nhân danh tôn giáo, và lên án những nỗ
lực đó như những bức biếm hoạ bôi bác Thiên Chúa: Tên Ngài là Đấng Thánh, là
Thiên Chúa của Hòa bình, Thiên Chúa của salaam. Vì thế hòa bình là điều thánh
khiết và không có hành vi bạo lực nào có thể biện minh nhân danh Thiên Chúa, vì
đó là sự xúc phạm đến Danh Người”, các nhà lãnh đạo Hồi Giáo đã vỗ tay nhiệt liệt,
đón nhận như một chính nghĩa chung.
Gió, thực sự,
đã đổi chiều.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét