23/06/2017
Thứ Sáu tuần 11 thường niên
THÁNH TÂM CHÚA GIÊSU.
Lễ TRỌNG.
Ngày thế giới xin ơn thánh hoá các linh mục.
Bài Ðọc I: Ðnl 7, 6-11
"Chúa đã yêu thương và tuyển chọn các ngươi".
Trích sách Ðệ Nhị Luật.
Môsê nói cùng dân
chúng rằng: "Các ngươi là một dân hiến thánh cho Chúa là Thiên Chúa các
ngươi. Chúa là Thiên Chúa các ngươi đã chọn các ngươi để làm dân riêng của Người
giữa mọi dân tộc trên mặt đất. Không phải vì các ngươi đông số hơn mọi dân tộc
khác mà Thiên Chúa gắn bó với các ngươi và tuyển chọn các ngươi, vì thực ra,
các ngươi ít số hơn mọi dân tộc khác; nhưng vì Chúa đã yêu thương các ngươi và
giữ lời đã thề hứa với tổ phụ các ngươi rằng: Người dùng tay mạnh mẽ mà dẫn đưa
và cứu chuộc các ngươi khỏi cảnh nô lệ, khỏi tay Pharaon vua Ai-cập. Các ngươi
sẽ biết rằng Chúa là Thiên Chúa các ngươi, chính Người là Thiên Chúa hùng mạnh,
trung thành giữ lời giao ước và lòng thương xót với những kẻ yêu mến Người, và
những kẻ tuân giữ lề luật Người cho đến muôn thế hệ. Người báo oán ngay những kẻ
thù ghét Người, bằng cách tiêu diệt chúng không trì hoãn, trả báo tức khắc như
chúng đã đáng tội. Vì vậy các ngươi hãy tuân giữ điều răn, nghi lễ và lề luật
mà ta truyền cho các ngươi hôm nay, để các ngươi thi hành".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 102, 1-2.
3-4. 6-7. 8 và 10
Ðáp: Lòng yêu thương của Chúa vẫn tồn tại, từ thuở này tới
thuở kia cho những ai kính sợ Người (c. 17).
Xướng: 1) Linh hồn tôi
ơi, hãy chúc tụng Chúa! Toàn thể con người tôi, hãy chúc tụng thánh danh Người.
Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, và chớ khá quên mọi ân huệ của Người. -
Ðáp.
2) Người đã thứ tha
cho (ngươi) mọi điều sai lỗi, và chữa ngươi khỏi mọi tật nguyền. Người chuộc mạng
ngươi khỏi chỗ vong thân, Người đội đầu ngươi bằng mão từ bi, ân sủng. - Ðáp.
3) Chúa thi hành những
việc công minh, và trả lại quyền lợi cho những người bị ức. Người tỏ cho Môsê
được hay đường lối, tỏ công cuộc Người cho con cái Israel. - Ðáp.
4) Chúa là Ðấng từ bi
và hay thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan nhân. Người không xử với
chúng tôi như chúng tôi đắc tội, và không trả đũa theo điều oan trái chúng tôi.
- Ðáp.
Bài Ðọc II: 1 Ga 4,
7-16
"Thiên Chúa thương yêu chúng ta trước".
Trích thư thứ nhất của
Thánh Gioan Tông đồ.
Các con thân mến,
chúng ta phải thương yêu nhau, vì tình yêu bởi Thiên Chúa mà ra. Vì lẽ hễ ai
thương yêu, thì đã sinh bởi Thiên Chúa, và nhận biết Thiên Chúa. Còn ai không
yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Tình Yêu.
Ðiều này biểu lộ tình
yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta: là Thiên Chúa chúng ta đã sai Con Một Người
đến trong thế gian, để nhờ Ngài mà chúng ta được sống. Tình yêu ấy là thế này:
Không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã thương yêu
chúng ta trước, và đã sai Con Một Người đến hy sinh, đền thay vì tội lỗi chúng
ta.
Các con thân mến, nếu
Thiên Chúa thương yêu chúng ta dường ấy, thì chúng ta cũng phải thương yêu
nhau. Chẳng ai thấy Thiên Chúa bao giờ, nếu chúng ta thương yêu nhau, thì Thiên
Chúa ở trong chúng ta, và tình yêu của Người nơi chúng ta đã được tuyệt hảo. Do
điều này mà chúng ta biết chúng ta ở trong Người và Người ở trong chúng ta: là
Người đã ban Thánh Thần cho chúng ta. Và chúng ta đã thấy và chứng nhận rằng
Chúa Cha đã sai Con mình làm Ðấng Cứu Thế.
Ai tuyên xưng Ðức
Giêsu là Con Thiên Chúa, thì Thiên Chúa ở trong người ấy, và người ấy ở trong
Thiên Chúa. Còn chúng ta, chúng ta đã biết và tin vào tình yêu của Thiên Chúa đối
với chúng ta. Thiên Chúa là Tình Yêu, và ai ở trong tình yêu, thì ở trong Thiên
Chúa, và Thiên Chúa ở trong người ấy.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Mt 11, 29ab
Alleluia, alleluia! -
Các ngươi hãy mang lấy ách của Ta, và hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm
nhượng trong lòng. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 11, 25-30
"Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng".
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu cất
tiếng nói rằng: "Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha đã giấu
không cho những người hiền triết và khôn ngoan biết những điều ấy, mà lại mạc
khải cho những kẻ bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì ý Cha muốn như vậy. Mọi sự đã được
Cha Ta trao phó cho Ta. Và không ai biết Con, trừ ra Cha. Và cũng không ai biết
Cha, trừ ra Con và kẻ mà Con muốn mạc khải cho.
"Tất cả hãy đến
cùng Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các
ngươi. Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhượng
trong lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an. Vì ách của Ta thì êm ái
và gánh của Ta thì nhẹ nhàng".
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm : Lòng
mến của Thiên Chúa muôn đời tín nghĩa
Ngày lễ Thánh Tâm Chúa
Yêsu mà cả trong ba bài đọc không có một lời nào trực tiếp nói đến Trái Tim Người!
Ðiều đó không làm chúng ta buồn, vì tuy không có lời nhưng lại đầy ý; không có
danh từ nhưng nội dung lại chan chứa. Và điều đó cho chúng ta hiểu lễ Thánh Tâm
tuy rất mới, vì chỉ buộc trong cả Giáo hội từ năm 1856 và gần 200 năm sau những
cuộc thị kiến và vận động của thánh Magarita Maria Alacoque, nhưng lại có nền tảng
xa xưa và xa xưa đến nỗi thoạt đầu Giáo hội không thấy cần phải lập ra lễ này
vì ý của nó vẫn được Giáo hội cử hành từ buổi đầu. Do đó việc lập ra lễ Thánh
Tâm Chúa Yêsu chỉ có ý làm nổi bật lên một mầu nhiệm hằng tiềm ẩn trong Phụng vụ.
Và chúng ta phải suy niệm về mầu nhiệm ấy trong ngày lễ hôm nay.
Ðó là mầu nhiệm về
lòng Thiên Chúa yêu thương loài người, biểu lộ nơi lòng Chúa Yêsu yêu thương
chúng ta, để chúng ta cũng có một trái tim giống như Người, tức là chia sẻ lòng
Người yêu thương hết thảy.
A. Lòng Chúa Yêu
Thương Loài Người
Tác giả sách Thứ luật
là người thứ nhất có thể giúp đỡ chúng ta suy nghĩ về lòng Chúa yêu thương nhân
loại nói chung và cá nhân nói riêng. Ông thuộc thời Cựu Ước. Nhưng tư tưởng của
ông rất mới mẻ. Nhiều tác giả trước ông đã nói đến lòng Chúa thương dân. Ông
đào sâu những tư tưởng ấy và viết nên đoạn văn chúng ta đọc hôm nay một cách
sâu sắc.
Ta nên nhớ đây là thời
gian sau Lưu đày. Lối nhìn của tác giả đã chịu ảnh hưởng của thời cuộc. Trước
kia dân Dothái nhiều khi cho mình là lớn. Vào thời hoàng đế Salomon chẳng hạn,
nữ hoàng phương Nam nghe tiếng đã phải đến thăm. Thành ra người ta tự phụ, coi
mình là dân đông đảo. Nhưng sau Lưu đày, ai còn có những tư tưởng như vậy?
Assyria đã đè bẹp dân cứng đầu cứng cổ như hòn đá đè trên trái trứng. Tuy nhiên
chính lúc nhục nhã ấy, tác giả sách Thứ luật mới thấy tình Chúa đối với dân thật
là thắm thiết.
Ông dùng những từ ngữ
gợi lên những tương giao phu phụ mà Kinh Thánh vẫn dùng để nói về tương quan giữa
Chúa với Dân Người. Ông viết: Người đã đem lòng quyến luyến các ngươi và đã chọn
các ngươi... Người yêu mến các ngươi và giữ lời thề... Người trung tín, tín
nghĩa với các ngươi... Những từ ngữ đó, đọc trong tương quan phu phụ, sẽ ý
nghĩa biết bao và làm chứng Thiên Chúa là người hôn phu lý tưởng, tha thiết gắn
bó với người mình thương.
Và như vậy, không phải
Dothái là dân tộc to lớn. Ngược lại là dân ít người hơn mọi dân, là dân không
ai để ý đến, giống như Ðavít khi còn là đứa trẻ nhỏ nhất, đang phải chăn cừu,
không đáng cha sai người đi gọi về khi trong nhà có khách quý là Samuel đến xức
dầu cho người Chúa chọn. Nhưng chính đứa bé tóc hoe đó mới là kẻ mà Chúa bảo
Samuel: Hãy đứng lên xức dầu cho nó. Chúng ta gợi lại câu chuyện này là vì khi
nói Chúa "chọn" Israel, tác giả sách Thứ luật hôm nay dùng chính từ
ngữ trong câu chuyện Ðavít. Ông muốn nói lên lòng bao dung quảng đại chiếu cố của
Thiên Chúa đối với một dân thật là bé nhỏ. Thế mà Người đã nâng lên bậc công
nương và trở nên sản nghiệp hay "kho tàng" của Người, như viết trong
giao ước: các ngươi sẽ là dân sở hữu của Ta.
Sách Xuất hành
(20,5-6) cũng có đoạn nói đến giao ước giữa Chúa và dân với những lời lẽ như
sau: Ta là Thiên Chúa hay ghen tương, phạt tội trên con cháu đến ba bốn đời đối
với những ai ghét Ta, và giữ nghĩa dư ngàn với những ai yêu mến Ta và giữ các lệnh
truyền của Ta.
Còn ở đây trong đoạn
văn Thứ luật này, sau khi nói Thiên Chúa đã gắn bó với dân bằng giao ước, mặc dầu
nhỏ bé, tác giả viết: Ta là Thần trung tín, tín nghĩa với những ai yêu mến cho
đến ngàn đời, Ðấng oán trả cho mỗi ai thù ghét Người nơi chính thân mình nó.
Thoạt nghe chúng ta
không thấy khác bao nhiêu. Nhưng đọc kỹ lại, chúng ta sẽ thấy tác giả sách Thứ
luật như đã biến đổi Dung Nhan của Thiên Chúa trong sách Xuất hành. Trước kia
chúng ta thấy ngay Người là Ðấng hay ghen tuông phạt tội trên con cháu đến ba bốn
đời; còn nơi sách Thứ luật trước hết Người là Thần trung tín, tín nghĩa đến
ngàn đời và chỉ phạt tội chính người lỗi phạm.
Như vậy bài sách Thứ
luật đã đưa chúng ta gần đến Tân Ước. Và nó cho chúng ta thấy lòng Chúa chan chứa
tình thương. Người quyến luyến chiếu cố đến thân phận yếu hèn của chúng ta.
Nâng chúng ta lên bậc nghĩa thiết. Trung tín thi thố tình thương cho đến ngàn đời
và bất đắc dĩ mới phải phạt tội những ai thù ghét Người. Lời khuyên của sách Thứ
luật dĩ nhiên là chúng ta hãy giữ lệnh truyền của Người để lưu lại mãi trong
tình Người thương mến. Nhưng điều mà tác giả chưa thấy được là Người vẫn thương
tội nhân nơi lòng Chúa Yêsu.
B. Tình Thương Biểu Lộ
Nơi Lòng Chúa Yêsu
Ðiều này theo lời Chúa
Yêsu nói trong bài Tin Mừng hôm nay, hạng khôn ngoan thông thái không hiểu được,
vì Chúa Cha chỉ mạc khải cho những kẻ bé mọn. Thời Tân Ước cũng như Cựu Ước,
tình thương của Chúa vẫn tìm đối tượng nơi những kẻ bé nhỏ. Hơn nữa, như
Matthêô viết hôm nay, đối tượng ưu việt lại là những người lao đao vác nặng. Chắc
chắn, Matthêô không nghĩ nguyên đến những người lam lũ vất vả về phần xác. Chữ
"vác nặng" trong Kinh Thánh thường gợi đến gánh nặng của Luật pháp
Dothái, của những sức mạnh gò bó con người. Ðó là hạng người được Chúa ưu đãi đến
nỗi Người đã sai Con Một của Người xuống thế, để hôm nay tiếng người Con gióng
lên: hết thảy hãy đến với Ta và Ta sẽ cho nghỉ ngơi lại sức, tức là được cảm thấy
nhẹ nhàng, tự do.
Người làm thế nào?
Matthêô đã viết: Người mạc khải cho họ mọi sự đã được Chúa Cha trao phó cho Người,
để họ biết Cha như Con biết Cha. Những lời tuy trừu tượng nhưng rất thâm sâu.
Chính chữ mạc khải đã có nghĩa là vén màn, vén lòng mình ra cho người ta có thể
thấy. Phải, ai đến với Chúa Yêsu sẽ được Người mạc khải cho, tức là vén lòng,
vén trái tim Người ra cho người ấy được xem. Và xem gì? Người nói: xem tất cả mọi
sự mà Chúa Cha đã trao phó cho Người. Và thử hỏi có gì mà Chúa Cha đã không
trao phó cho Người? Với lại chúng ta đừng nghĩ ngay đến những sự tầm thường của
thế giới chúng ta. Những sự mà Chúa Cha đã trao phó cho Chúa Yêsu để Người vén
lòng cho chúng ta được thấy và được nhận lãnh, trước hết phải là những sự mà
Phaolô nói: mắt chưa từng thấy, tai chưa từng nghe, lòng trí loài người chưa
bao giờ mường tượng được. Ðó chính là Trái tim của Chúa Cha, tình yêu của Người,
sự sống và hạnh phúc vô biên của Thượng Ðế, là chính bản tính của Thiên Chúa.
Ðó là những sự mà hạng khôn ngoan thông thái hết sức tìm mà chẳng bao giờ thấy.
Và chỉ những ai bé mọn mới được Cha trên trời mạc khải cho, để họ "biết"
Cha, như Con biết Cha, nghĩa là để họ mật thiết, thân cận, thắm thiết với Chúa
Cha như Chúa Con.
Chúng ta không thể nói
thêm, vì ai có thể nói được tình yêu mà chỉ một mình cảm thấy? Chúng ta có kinh
nghiệm về tình yêu loài người mà có viết bao nhiêu cuốn tiểu thuyết cũng hãy
còn khách quan, nhạt nhẽo. Huống nữa là khi các thánh viết về tình yêu Chúa!
Chúng ta chỉ biết rằng: Lời Chúa chân thật. Hôm nay chính Người nói: ai đến với
Người, sẽ được Người vén lòng Người lên để thấy tất cả tình yêu của Chúa Cha đã
trao phó cho Người, hầu "biết" Chúa Cha tức là hiểu và hiệp thông thắm
thiết với Ðấng đã lựa chọn mình vì mình bé nhỏ.
Những lời Phúc Âm ấy
thật hợp để suy nghĩ trong ngày lễ Thánh Tầm hôm nay. Và suy nghĩ phải dẫn đến
hành động, khi đó những lời thư Yoan sẽ rất quý hóa.
C. Chúng Ta Hãy Yêu
Thương Anh Em
Yoan là nhà thần học
thâm thúy. Nghe đọc bài thư của ông hôm nay, không dễ hiểu tí nào. Phải đọc đi
đọc lại, lượm ra những tư tưởng chủ yếu rồi xếp đặt lại, khi ấy ta sẽ thấy sung
sướng.
Tư tưởng của ông thế
này: Nếu Thiên Chúa yêu thương ta dường ấy, thì ta cũng phải yêu mến nhau
(c.11). Lời khuyên có vẻ quen thuộc. Nhưng xét theo luận lý, dường như không chỉnh;
vì nếu Thiên Chúa yêu ta dường ấy, thì ta phải đáp trả chứ sao lại phải yêu mến
nhau? Ðặt vấn đề như vậy bó buộc ta phải căn vặn Yoan. Và ông sẽ khai triển cho
ta lý luận của ông cũng là thần học về tình yêu.
Thiên Chúa là lòng mến
(c.8). Ta biết được như vậy là vì Người đã yêu thương ta. Và không phải đã yêu
thương ta bất cứ thế nào. Nhưng Người đã biểu lộ tình thương đặc biệt trong việc
sai Con Một Người đến trong thế gian để ta được sống nhờ Ngài. Có thể nói Thiên
Chúa đã gửi cả tấm lòng của Người xuống cho ta nơi Con Một Người nhập thể cứu đời.
Hơn nữa phải nói mạnh hơn, Người đã gửi cả sự sống và hạnh phúc của Người xuống
thế gian nơi Ðức Yêsu Kitô là Ðấng đã được Người "trao phó mọi sự"
như Phúc Âm đã nói. Vì yêu thương ta, Thiên Chúa đã đến lưu lại nơi con người Ðức
Yêsu Kitô.
Nhưng chưa hết, nơi Ðức
Yêsu Kitô, Thiên Chúa còn yêu thương ta đến nỗi đã phó nộp mình vì ta để đền
thay tội lỗi ta (c.10). Như vậy, tình yêu Thiên Chúa đã biểu lộ nơi thân hình tử
nạn thập giá của Ðức Yêsu Kitô.
Rồi từ nơi cạnh sườn của
Ðấng chịu đóng đinh, Nước Thánh Thần đã chảy đến thanh tẩy mọi tâm hồn khiến
tình mến của Thiên Chúa đã chuyển đến chúng ta. Chính nhờ được Ðức Yêsu Kitô
thông ban Thần Khí của Người cho ta (c.13) mà lòng mến của Thiên Chúa đã nên trọn
ở nơi ta (c.12). Lòng mến ấy đã từ Ngôi Cha dàn sang Ngôi Con, dàn sang lòng Ðức
Yêsu Kitô, dàn đến chúng ta khi Thần khí Ðức Kitô tràn ngập lòng ta qua cái chết
vì yêu thương của Ngài.
Bây giờ mang lòng mến
Chúa ở trong mình, chúng ta được ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa lưu lại ở nơi
chúng ta. Chúng ta có thể "biết" Người theo nghĩa vừa hiểu vừa mật
thiết kết hợp với Người, khiến Ðấng Thiên Chúa mà người thông thái khôn ngoan
không thấy được, những kẻ bé mọn như chúng ta lại biết được vì Thiên Chúa đang
lưu lại ở nơi chúng ta. Người là tình mến. Người hằng yêu mến. Ở trong ta Người
cũng thương yêu. Yêu ai nữa bây giờ? Yêu tha nhân, yêu mọi người. Thế nên kẻ
không yêu mến anh em, tất không có Thiên Chúa ở nơi mình, và không biết Người
(c.8). Thành ra, nếu Thiên Chúa yêu thương ta dường ấy thì ta cũng phải yêu mến
nhau.
Như vậy bài thư Yoan
đã đưa tư tưởng của hai bài Kinh Thánh khác trong thánh lễ hôm nay đến chỗ thực
hành. Bài sách Thứ luật cho chúng ta thấy lòng mến của Thiên Chúa muôn đời tín
nghĩa. Bài Tin Mừng biểu lộ lòng mến đó nơi Ðức Yêsu Kitô hầu thế gian thấy
Thiên Chúa yêu thương loài người lao đao vác nặng qua Trái Tim nồng nàn của
Chúa Cứu Thế. Thánh Yoan như trỏ cho chúng ta thấy lòng mến chan chứa của Thiên
Chúa đang trào ra từ Thánh Tâm Chúa Yêsu Tử nạn Phục Sinh, để chúng ta đón nhận
lấy hầu biết Thiên Chúa và biết yêu mến anh em.
Ngày lễ Thánh Tâm do
đó là ngày chạy đến với Chúa Yêsu để được nhiều tình mến hầu chỉ còn sống bằng
yêu mến. Cứ dấu này làm chứng ta biết Thiên Chúa là chúng ta yêu mến anh em. Vậy,
nếu chúng ta chưa yêu mến anh em đủ, thì này thánh lễ đưa chúng ta vào mầu nhiệm
Thánh giá, nơi chúng ta thấy Thiên Chúa yêu thương chúng ta đến nỗi đã sai Con
của Người đến làm hy sinh đền thay vì tội lỗi chúng ta. Chúng ta sẽ nhận được
thêm tình mến nếu dự lễ sốt sắng. Và đã dự lễ sốt sắng thì chúng ta cũng phải
ra về với nhiều tình mến hơn.
(Trích dẫn từ tập
sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục
Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu, Năm A
Bài đọc: Deut
7:6-11; 1 Jn 4:7-16; Mt 11:25-30.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Tình yêu Thiên Chúa được diễn tả tuyệt vời qua Đức Kitô.
Tình yêu có lẽ là một
đề tài được nói đến nhiều nhất trong cuộc sống con người. Điều này không lạ vì
tình yêu là động lực chi phối mọi hoạt động của con người. Nhưng khi phải định
nghĩa tình yêu là gì, thì mọi người đều lúng túng. Thi sĩ Xuân Diệu định nghĩa
“yêu là chết trong lòng một ít.” Định nghĩa này chắc chắn bị nhiều người bác bỏ,
nhất là những người đau đớn vì bị tình phụ. Văn sĩ Antoine de Saint-Exupéry định
nghĩa “yêu không phải là ngồi nhìn nhau, nhưng là cùng nhìn về một hướng.” Định
nghĩa này cũng không ổn, vì làm sao kiếm được người nhìn cùng một hướng như
mình trong hết mọi sự. Thánh Gioan trong Thư thứ nhất có lẽ cho một định nghĩa
sâu sắc và tuyệt vời nhất: “Thiên Chúa là tình yêu.” Tuy nhiên, định nghĩa này
có tính cách thần học và cần được diễn giảng cách rõ ràng hơn.
Các bài đọc trong ngày
Lễ Thánh Tâm giúp chúng ta hiểu tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người qua
những biểu lộ rất cụ thể trong lịch sử, và nhất là qua Đức Kitô. Trong bài đọc
I, tác giả Sách Thứ Luật nhấn mạnh đến sự kiện Thiên Chúa đã yêu và chọn lựa
dân tộc Israel làm dân riêng của Ngài trước khi họ biết và đáp trả lại. Ngài đã
làm giao ước với các tổ phụ để bảo vệ họ và Ngài đã trung thành với giao ước đó
suốt đời. Trong bài đọc II, thánh Gioan cũng nhấn mạnh đến sự kiện Thiên Chúa
đã yêu thương con người trước vì Ngài là tình yêu. Thiên Chúa yêu con người đến
độ Ngài sẵn sàng hy sinh Người Con Một để đền tội cho con người; hy sinh Người
Con Một là hy sinh chính Ngài. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu biết mọi con người đều
phải vất vả và gồng gánh nặng nề, nên Ngài kêu gọi tất cả hãy đến với Ngài để
được Ngài dạy dỗ và cho nghỉ ngơi bồi dưỡng.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Người vẫn giữ giao ước và tình thương đối với những ai yêu
mến Người.
1.1/ Thiên Chúa đã chọn
anh em từ giữa muôn dân trên mặt đất, làm một dân thuộc quyền sở hữu của Người. Để hiểu những lời này, chúng ta cần phải trở về với Sách
Sáng Thế, khi Thiên Chúa chọn Abraham và làm giao ước với ông (Gen 17:5-10).
Theo giao ước này, Ngài sẽ cho ông một dòng dõi và sẽ ban Đất Hứa là đất Canaan
cho dòng dõi của Abraham cư ngụ. Phần Abraham và dòng dõi của ông, họ phải cắt
bì và tuân giữ mọi điều Thiên Chúa truyền dạy. Tác giả Sách Thứ Luật xác quyết
lý do duy nhất Thiên Chúa làm những điều này là vì Ngài yêu thương anh em, chứ
không phải bất cứ một lý do nào khác: “Thật vậy, anh em là một dân thánh hiến
cho Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em. Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em đã chọn
anh em từ giữa muôn dân trên mặt đất, làm một dân thuộc quyền sở hữu của Người.
Đức Chúa đã đem lòng quyến luyến và chọn anh em, không phải vì anh em đông hơn
mọi dân, thật ra anh em là dân nhỏ nhất trong các dân.” Điều này hiển nhiên, vì
khi Thiên Chúa làm giao ước này, dân tộc Israel chưa có mặt trong cuộc đời, và
Abraham chưa có Isaac, người con sẽ sinh ra một dòng dõi.
Thế rồi theo thời
gian, dòng dõi Abraham được sinh ra và tăng trưởng qua Isaac và Israel cùng với
các con của ông. Vì Giuse, con của Israel, làm quan Tể Tướng bên Ai-cập, ông đã
đem cha và các anh em sang định cư bên Ai-cập. Họ đã gia tăng dân số rất nhanh,
nhưng bị người Ai-cập đối xử rất dã man và tìm đủ mọi cách để triệt sản. Họ kêu
cầu lên Thiên Chúa, và Thiên Chúa đã dùng ông Moses và Aaron để đưa dân ra khỏi
Ai-cập, vào sa mạc để được thanh luyện và gần gũi Thiên Chúa, trước khi tiến
vào Đất Hứa. Tác giả Sách Thứ Luật vắn tắt tiến trình này như sau: “Chính là vì
yêu thương anh em, và để giữ lời thề hứa với cha ông anh em, mà Đức Chúa đã ra
tay uy quyền đưa anh em ra và giải thoát anh em khỏi cảnh nô lệ, khỏi tay
Pharao, vua Ai-cập.”
1.2/ Thiên Chúa của anh
em là Thiên Chúa trung thành: Giao ước được
ký kết giữa Thiên Chúa và dân tộc Israel. Theo truyền thống con người, nếu một
bên vi phạm bất cứ điều nào đã ký kết, giao ước sẽ trở nên vô hiệu. Đọc lại lịch
sử của dân tộc Israel, một người sẽ nhận thấy Thiên Chúa luôn trung thành giữ
những gì Ngài đã hứa; phản bội luôn đến từ phía dân tộc Israel. Tác giả Sách Thứ
Luật cũng xác quyết điều này: “Thiên Chúa của anh em, thật là Thiên Chúa, là
Thiên Chúa trung thành: cho đến muôn ngàn thế hệ, Người vẫn giữ giao ước và
tình thương đối với những ai yêu mến Người và giữ các mệnh lệnh của Người.”
2/ Bài đọc II: Thiên Chúa là tình yêu.
2.1/ Thiên Chúa yêu
thương chúng ta trước: Tác giả Thư Gioan thứ
nhất dạy chúng ta nhiều điều quan trọng về tình yêu:
(1) Tình yêu bắt nguồn
từ Thiên Chúa: Thiên Chúa tạo dựng nên vũ trụ vì yêu thương con người, và nếu
Ngài ghét bỏ điều gì, điều đó sẽ không có mặt trong cuộc đời. Mọi tình yêu đều
bắt nguồn từ Thiên Chúa: tình yêu vợ chồng, tình yêu cha mẹ, anh em, bạn hữu...
(2) Ai yêu thương, người
ấy được Thiên Chúa sinh ra: Thiên Chúa dựng nên con người giống hình ảnh (selem)
và đức tính (demut) của Ngài (Gen 1:26; 5:1-3). Con người giống Thiên
Chúa nhất ở đức tính con người biết yêu thương. Thánh Gioan xác tín: “Phàm ai
yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa. Ai
không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu.”
(3) Cách biểu lộ tình
yêu của Thiên Chúa: Ngài đã biểu lộ bằng nhiều cách trong vũ trụ và trong lịch
sử; nhưng theo thánh Gioan, cách biểu lộ tuyệt vời nhất là Ngài đã hy sinh cho
chúng ta Người Con Một: “Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một
của Người mà chúng ta được sống.”
(4) Thiên Chúa yêu
thương chúng ta trước: Không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa trước, nhưng
chính Thiên Chúa là Người đi bước trước. Ngài yêu thương con người khi họ chẳng
có gì đáng yêu cả, khi họ vẫn còn là các tội nhân: “Chính Người đã yêu thương
chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta.”
2.2/ Chúng ta cũng phải
yêu thương nhau: Như đã nói trên, điều làm
cho con người giống Thiên Chúa nhất là họ biết yêu thương: họ biết yêu thương
đáp trả tình yêu Thiên Chúa và biết yêu thương nhau. Thánh Gioan truyền cho các
tín hữu của Ngài: “Anh em thân mến, nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như
thế, chúng ta cũng phải yêu thương nhau.” Tính hỗ tương của tình yêu còn được
nhấn mạnh hơn nữa trong Tin Mừng Gioan: “Như Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy
cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình yêu của Thầy” (Jn
15:9). “Như Thầy yêu mến anh em thế nào, anh em cũng phải yêu mến nhau như vậy”
(Jn 13:34).
Có nhiều loại tình yêu
khác nhau trong cuộc đời như tình yêu lãng mạn giữa trai gái, tình yêu chung thủy
giữa vợ chồng, tình yêu huynh đệ giữa anh em hay những người chung chí hướng,
tình yêu thương xót khi gặp người đau khổ... Đức Giáo Hoàng Benedict trong
Thông Điệp Deus Caritas Est, # 10-11, cho rằng tất cả tình yêu đều
bắt nguồn từ Thiên Chúa, nhưng tất cả tình yêu này đều bất toàn so với tình yêu
của chính Thiên Chúa, vì cách nào đó chúng vẫn còn tính vị kỷ. Tình yêu hoàn hảo
nhất mà con người cần đạt đến là tình yêu của Thiên Chúa, vì với tình yêu này,
con người có thể yêu thương tha nhân như chính Thiên Chúa đã yêu thương chúng
ta. Với tình yêu này, con người có thể đáp ứng những đòi hỏi của Chúa Giêsu
trong Tin Mừng Matthew, chương 5, là yêu thương ngay cả kẻ thù, làm ơn và cầu
nguyện cho những người bách hại chúng ta...
3/ Phúc Âm: Hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường.
Chúa Giêsu so sánh giữa
những người khôn ngoan và thông thái (sophos, sunetos) với kẻ bé mọn (nêpios),
để nói với khán giả: họ cần có thái độ của trẻ thơ là tin tưởng, khiêm nhường,
ham học hỏi, để Ngài chuyển thông cho họ những kiến thức về Thiên Chúa. Một
thái độ kiêu hãnh và nghi ngờ sẽ ngăn cản họ nhận ra những gì Ngài muốn mặc khải
cho họ.
3.1/ Kiến thức về Thiên
Chúa: "Cha tôi đã giao phó mọi sự cho
tôi. Và không ai biết rõ người Con, trừ Chúa Cha; cũng như không ai biết rõ
Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho."
(1) Chúa Giêsu là người
biết về Chúa Cha rõ ràng hơn ai hết: Động từ Hy-lạp dùng ở đây là "epiginôskô,"
biết như một con người hay sự vật là. Con người hiểu biết về Thiên Chúa với nhiều
cấp độ khác nhau; nhưng chỉ có Chúa Giêsu hiểu biết Thiên Chúa trong cấp độ
hoàn hảo nhất. Điều này không ngạc nhiên, vì Chúa Giêsu là chính Lời hay tư tưởng
của Thiên Chúa. Ngài và Cha Ngài là một.
(2) Con người biết
Thiên Chúa qua mặc khải của Chúa Giêsu: Nếu Thiên Chúa không chọn để mặc khải
cho con người, con người không bao giờ có thể biết Thiên Chúa. Đức Kitô chính
là mặc khải của Thiên Chúa; Ngài đến để mặc khải cho con người biết về Chúa
Cha, như Ngài đã tuyên bố với các môn đệ: “Ai thấy Thầy là thấy Cha.” Hơn nữa,
để con người có thể hiểu những mặc khải này, họ cần được Thánh Thần do Chúa Cha
sai tới để hướng dẫn và thúc đẩy từ bên trong.
3.2/ Hai điều quan trọng
chúng ta cần học hỏi cùng Chúa Giêsu: Người
môn đệ tuy vẫn phải mang ách và mang gánh nặng; nhưng họ không mang chúng theo
cách của thế gian, mà mang chúng theo cách của Đức Kitô. Để biết mang ách và
gánh đúng cách, họ cần phải học với Đức Kitô. Hai nhân đức quan trọng họ cần học
nơi Ngài:
(1) Hiền lành: Đây là
mối thứ hai trong Bài Giảng Trên Núi. Chúa Giêsu là Thiên Chúa, Ngài có quyền
tiêu diệt những ai nói những lời xúc phạm, đánh đòn, và giết chết Ngài; nhưng
Ngài đã không làm những chuyện đó. Ngài chọn con đường tha thứ: “Lạy Cha! Xin
tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm.” Ngài hòa giải con người với
nhau và với Thiên Chúa. Ngài dạy phải thương yêu, cầu nguyện và làm ơn cho kẻ
thù. Con người cũng thường có khuynh hướng yêu thích những ai hiền lành, nhã nhặn,
và tha thứ.
(2) Khiêm nhường: là
nhân đức diệt trừ tính kiêu ngạo, tội đầu tiên trong bảy mối tội đầu. Không ai
thích người kiêu ngạo và tâm lý chung chẳng ai thích người hay “nổ.” Khiêm nhường
là biết mình trong mối tương quan với Thiên Chúa và với tha nhân. Người khiêm
nhường biết mọi sự mình có được là do Thiên Chúa ban, nên họ không huyênh hoang
lên mặt với người khác; nhưng biết dùng tài năng để mở mang Nước Chúa và phục vụ
anh em. Người kiêu ngạo đánh cắp công ơn Thiên Chúa và luôn bất an vì sợ người
khác hơn họ. Họ bất an khi không nhận được những gì họ muốn và khó chịu với mọi
người.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải cảm
nghiệm được tình yêu Thiên Chúa trước khi chúng ta có thể đáp trả lại tình yêu
của Ngài.
- Tình yêu phải được
diễn tả bằng hành động. Chúa Cha biểu lộ tình yêu của Ngài bằng cách hy sinh
Người Con Một cho con người. Đức Kitô biểu lộ tình yêu bằng cách hy sinh chết
trên trên Thập Giá cho con người. Chúng ta cũng phải biểu lộ tình yêu bằng cách
hy sinh cho nhau.
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.
Thánh
Tâm Chúa Giê-su Mt 11,25-30
HỌC
HIỀN LÀNH VỚI THẦY GIÊ-SU
“Hãy học cùng tôi, vì
tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi
dưỡng.” (Mt 11,29)
Suy niệm: Một
cặp vợ chồng sống giang hồ, hành nghề móc túi chuyên nghiệp, được cảm hoá nhờ
một chàng trai hiền lành đến độ ngây ngô tin rằng trên thế gian này không ai là
người trộm cắp, đó là chủ đề bộ phim “Thiên hạ vô tặc” (2004). Phải chăng đạo
diễn Phùng Tiểu Cương muốn nói lên ước mơ dùng sự hiền lành để cải hoá thế giới
đầy bạo lực này? Ước mơ đó không còn là viễn tưởng mà là hiện thực nơi lời dạy
và hành động của Chúa Giê-su: “Hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu
và khiêm nhường.” Ngài “như con chiên hiền lành bị đem đi làm
thịt chẳng mở miệng kêu ca” (x. Is 53,7), đón nhận cái chết trên thập
giá để cứu độ nhân loại.
Mời Bạn: Trong
giao tế hằng ngày, người ta thường thích làm bạn với người hiền lành, thích gần
gũi với người khiêm tốn. Ở bên họ ta cảm thấy an tâm. Giữa một xã hội còn nhiều
dối trá, bất công, bạo lực, người sống hiền lành và khiêm nhường thường bị coi
là yếu đuối, nhát sợ. Thế nhưng hiền lành khiêm nhường lại là sức mạnh thâm
trầm, là bản lãnh sâu xa cho một nhân cách. Là Ki-tô hữu, học hiền lành khiêm
nhường Thầy Giê-su sẽ được tâm hồn an vui, không còn sợ hãi; sống hiền lành
khiêm nhường như Thầy Giê-su để trở nên chứng tá sống động, góp phần loại trừ
bạo lực, dối trá, bất công ra khỏi thế giới này.
Sống Lời Chúa: Mỗi
ngày dành ít phút xét mình xem trong cách cư xử, lời nói của bạn còn biểu hiện
sự nóng giận, hung dữ, kiêu căng không.
Cầu nguyện: “Lạy
Chúa Giê-su hiền lành và khiêm nhường trong lòng xin uốn nắn lòng con nên như
Rất Thánh Trái Tim Chúa.”
(5 phút Lời Chúa)
Ách của tôi êm ái (23.6.2017 – Thứ sáu: Thánh Tâm Chúa Giêsu)
Nếu ách của Ngài êm và gánh của Ngài nhẹ, thì là vì
chúng được đón nhận trong tình yêu. Tình yêu làm cho mọi sự trở nên êm nhẹ.
Suy
niệm:
Khi quy hoạch thành phố
tương lai,
người ta không quên dành một khu vui chơi giải trí.
Nghỉ ngơi thư giãn là một nhu cầu quan trọng
cho những ai sống trong nền kinh tế thị trường.
Nghỉ ngơi không chỉ cần cho thân xác hay trí óc.
Nghỉ ngơi còn cần cho tâm hồn.
Cái tâm của chúng ta cần được sống trong an tĩnh
giữa sóng gió dao động, giữa chợ đời bon chen.
Nhiều người bị suy nhược thần kinh, bị stress.
Có người tự tử vì không đủ sức để tiếp tục sống.
người ta không quên dành một khu vui chơi giải trí.
Nghỉ ngơi thư giãn là một nhu cầu quan trọng
cho những ai sống trong nền kinh tế thị trường.
Nghỉ ngơi không chỉ cần cho thân xác hay trí óc.
Nghỉ ngơi còn cần cho tâm hồn.
Cái tâm của chúng ta cần được sống trong an tĩnh
giữa sóng gió dao động, giữa chợ đời bon chen.
Nhiều người bị suy nhược thần kinh, bị stress.
Có người tự tử vì không đủ sức để tiếp tục sống.
Ðức Giêsu mời chúng ta
đến với Ngài,
tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề.
Gánh nặng của nỗi đau và vấp ngã trong quá khứ
Gánh nặng của trách nhiệm và yếu đuối hiện tại
Gánh nặng phải mang vì người khác...
Tất cả những ai bị căng thẳng và lo âu,
chán chường và mệt mỏi.
Tất cả những ai muốn tìm một chút nghỉ ngơi.
Hãy đến với Ngài, ta sẽ gặp được sự an tĩnh.
tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề.
Gánh nặng của nỗi đau và vấp ngã trong quá khứ
Gánh nặng của trách nhiệm và yếu đuối hiện tại
Gánh nặng phải mang vì người khác...
Tất cả những ai bị căng thẳng và lo âu,
chán chường và mệt mỏi.
Tất cả những ai muốn tìm một chút nghỉ ngơi.
Hãy đến với Ngài, ta sẽ gặp được sự an tĩnh.
Hãy mang lấy ách của tôi.
Ðức Giêsu không ngần ngại nói đến ách của Ngài
mà những kẻ đến với Ngài phải mang.
Ngài không giấu ta về những đòi hỏi nghiêm túc,
về con đường hẹp mà ít người muốn đi,
về thánh giá mà ta phải vác để theo Ngài.
Như thế sự an bình thư thái Ngài hứa ban
đâu phải là thứ bình an rẻ tiền, không cần từ bỏ.
Ðó là thứ bình an ngay giữa khổ đau và nước mắt,
vì biết mình được Thiên Chúa yêu thương,
vì xác tín là mình đang làm đúng ý Thiên Chúa.
Ðức Giêsu không ngần ngại nói đến ách của Ngài
mà những kẻ đến với Ngài phải mang.
Ngài không giấu ta về những đòi hỏi nghiêm túc,
về con đường hẹp mà ít người muốn đi,
về thánh giá mà ta phải vác để theo Ngài.
Như thế sự an bình thư thái Ngài hứa ban
đâu phải là thứ bình an rẻ tiền, không cần từ bỏ.
Ðó là thứ bình an ngay giữa khổ đau và nước mắt,
vì biết mình được Thiên Chúa yêu thương,
vì xác tín là mình đang làm đúng ý Thiên Chúa.
Nếu ách của Ngài êm và
gánh của Ngài nhẹ,
thì là vì chúng được đón nhận trong tình yêu.
Tình yêu làm cho mọi sự trở nên êm nhẹ.
“Chỗ nào có lòng yêu mến, thì không cảm thấy vất vả;
mà giả như có vất vả đi nữa
thì người ta cũng thích cái vất vả đó” (thánh Âutinh).
thì là vì chúng được đón nhận trong tình yêu.
Tình yêu làm cho mọi sự trở nên êm nhẹ.
“Chỗ nào có lòng yêu mến, thì không cảm thấy vất vả;
mà giả như có vất vả đi nữa
thì người ta cũng thích cái vất vả đó” (thánh Âutinh).
Hãy học với tôi.
Ðức Giêsu kêu gọi chúng ta làm học trò của Ngài.
Chúng ta học trường Giêsu, học Thầy Giêsu, học bài Giêsu.
Bài học nằm nơi chính trái tim Ngài:
“Vì tôi có trái tim hiền hậu và khiêm nhu.”
Khi mang trong mình những tâm tình của Thầy Giêsu
thì tâm hồn ta sẽ được bình an trở lại.
Chúng ta cần theo học Thầy Giêsu suốt đời,
cần lột bỏ những tự hào về khôn ngoan thông thái,
cần sống hồn nhiên khiêm tốn như trẻ thơ.
Chỉ như thế chúng ta mới được Thầy Giêsu mạc khải,
và đưa vào thế giới của Thiên Chúa.
Ðức Giêsu kêu gọi chúng ta làm học trò của Ngài.
Chúng ta học trường Giêsu, học Thầy Giêsu, học bài Giêsu.
Bài học nằm nơi chính trái tim Ngài:
“Vì tôi có trái tim hiền hậu và khiêm nhu.”
Khi mang trong mình những tâm tình của Thầy Giêsu
thì tâm hồn ta sẽ được bình an trở lại.
Chúng ta cần theo học Thầy Giêsu suốt đời,
cần lột bỏ những tự hào về khôn ngoan thông thái,
cần sống hồn nhiên khiêm tốn như trẻ thơ.
Chỉ như thế chúng ta mới được Thầy Giêsu mạc khải,
và đưa vào thế giới của Thiên Chúa.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con trở nên đơn sơ bé nhỏ,
nhờ đó con dễ nghe được tiếng Chúa nói,
dễ thấy Chúa hiện diện
và hoạt động trong đời con.
xin cho con trở nên đơn sơ bé nhỏ,
nhờ đó con dễ nghe được tiếng Chúa nói,
dễ thấy Chúa hiện diện
và hoạt động trong đời con.
Sống giữa một thế giới
đầy lọc lừa và đe dọa,
xin cho con đừng trở nên cứng cỏi,
khép kín và nghi ngờ.
xin cho con đừng trở nên cứng cỏi,
khép kín và nghi ngờ.
Xin dạy con sự hiền hậu
để con biết cảm thông và bao dung với tha nhân.
để con biết cảm thông và bao dung với tha nhân.
Xin dạy con sự khiêm nhu
để con dám buông đời con cho Chúa.
để con dám buông đời con cho Chúa.
Cuối cùng, xin cho con sự
bình an sâu thẳm,
vui tươi đi trên con đường hẹp với Ngài,
hạnh phúc và được cùng Ngài chịu khổ đau. Amen.
vui tươi đi trên con đường hẹp với Ngài,
hạnh phúc và được cùng Ngài chịu khổ đau. Amen.
Lm
Antôn Nguyễn
Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
23 THÁNG SÁU
Một Sự Soi Dẫn Từ
Trên
Sự quan phòng của
Thiên Chúa và sự tự do của con người không hề đối nghịch nhau. Đúng hơn,hai
đàng hỗ tương mật thiết cho nhau. Hai thực tại ấy bộc lộ một mối hiệp thông yêu
thương – trong đó Thiên Chúa tôn trọng và cùng làm việc với ý chí tự do của
chúng ta. Chẳng hạn, khi suy xét đến vận mệnh tương lai của mình, chúng ta tìm
thấy nơi mạc khải thần linh – nhất là nơi Đức Kitô – một sự soi sáng quan phòng
giúp chúng ta thấy đường lối cứu độ và ý muốn của Chúa Cha.
Chính Thiên Chúa thực
hiện sự soi sáng đó, tuy rằng Ngài vẫn giữ mầu nhiệm này hoàn toàn kín nhiệm đối
với chúng ta. Nhìn từ một viễn tượng như thế, ta thấy sự quan phòng của Thiên
Chúa không phủ nhận sự hiện diện của sự dữ và đau khổ trong cuộc sống con người.
Đúng hơn, sự quan phòng ấy trở thành một điểm tựa giúp ta có thể hy vọng cả
trong những nỗi khổ đau, và thậm chí nó cho phép chúng ta thoáng thấy được bằng
cách nào ta có thể rút điều tốt ra từ cái xấu.
Công Đồng Vatican II
đã nêu bật cho ta thấy sự quan phòng của Thiên Chúa khi Công Đồng qui chiếu đến
sự tiến triển của thế giới sẽ xảy ra khi vương quốc Thiên Chúa triển nở, khi
Công Đồng vén mở ra sự thường hằng và khôn ngoan của Thiên Chúa tình yêu. “Ai
khôn ngoan hãy hiểu những điều này; ai thận trọng thì hãy nhận biết. Đường lối
của Chúa thì ngay thẳng, trong đường lối đó người công chính bước đi, nhưng kẻ
tội lỗi thì vấp ngã” (Hs 14,10).
- suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
23 Tháng Sáu
Khối Ðá Cẩm Thạch
Một lần kia các phụ
nữ giàu có sinh sống tại thành phố Firenze, miền bắc nước Italia nảy ra sáng kiến
góp một khối đá cẩm thạch lớn và thuê một nhà điêu khắc tạc thành bức tượng nào
tùy ý, mà ông nghĩ là dân chúng sẽ ưa thích để làm quà cho thành phố.
Nhưng có lẽ đây
không phải là một nhà điêu khắc tượng có biệt tài hay vì khối đá bị sẻ không
đúng theo quy luật điêu khắc, nên sau khi nghiên cứu một thời gian, ông ta
không biết dùng khối đá để tạc tượng gì nên đành bỏ cuộc với lời quả quyết:
"Ðây là một khối đá vô dụng".
Kể từ ngày ấy, khối
đá cẩm thạch quý giá bị bỏ ngoài trời mặc cho mưa sa tuyết phủ. Một nhà điêu khắc
khác cũng được mời đến xem khối đá, nhưng sau khi nhìn ngắm và có người thử
phác họa vài nét nháp trên giấy, tất cả đều bỏ đi với cùng một ý kiến của nhà khắc
tượng đầu tiên.
Cho đến một ngày
kia, Michelangelo, nhà điêu khắc và kiến trúc thời danh có dịp ghé thăm thành
phố nhà. Không rõ có ai lưu ý ông về khối đá hay ông tình cờ khám phá ra, nhưng
ông cảm thấy muốn tạc một bức tượng được tạc từ khối đá mà ai cũng cho là vô dụng.
Ông đo mọi kích thước.
Ông bỏ hàng ngày để nhìn ngắm khối đá để tìm hứng. Bỗng chốc ông thấy thật rõ
ràng một bức tượng mà ông xác tín là dân chúng thành Firenze sẽ rất mến mộ. Ông
nhìn thấy hình chàng thanh niên David vai mang cái ná bắn đá, tay cầm những hòn
sỏi, trong tư thế sẵn sàng ra chiến đấu với tên khổng lồ Goliát.
Những nhà khắc tượng
khác đồng ý cho rằng: đây là một khối đá vô dụng.
Nhưng dưới cặp mắt
của Michelangelo khối đá ấy đã mang hình ảnh chàng thanh niên David, vị anh
hùng dân tộc Do Thái và lập tức ông lấy dụng cụ bắt tay vào việc, mặc cho những
người tạc tượng khác lắc đầu mỉm cười ngụ ý nói rằng: đây là thật công dã
tràng.
Nhưng Michelangelo
vẫn miệt mài làm việc, gác ngoài tai những tiếng thị phi. Rồi cuối cùng, mỗi
nhát búa, mỗi cái đục đẽo làm nổi hẳn một bức tượng chàng David hiên ngang,
oanh liệt, mà trải qua bao thế kỷ vẫn làm say mê hàng vạn du khách, trố mắt đứng
nhìn một kỳ công tuyệt tác của nghệ thuật điêu khắc.
Không ai trong chúng
ta là khối đá vô dụng khi được chọn để tạc thành những bức tượng tín hữu Kitô sống
động dưới những nhát búa, nét đục của Chúa Giêsu.
Lời Chúa và sự hiện diện
của Ngài muốn tạo chúng ta thành những Kitô hữu xứng với danh gọi, nghĩa là giống
Chúa Giêsu.
Lẽ Sống
Lectio Divina: Lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu (A)
Thứ Sáu, 23 Tháng 6, 2017
1) Lời nguyện mở đầu
Lạy Chúa Thánh Thần,
chúng con thường hướng
lòng mình
vào những căn nhà của
ngạo mạn và tham lam
thay vì vào những ngôi
nhà yêu thương và nhân lành
nơi mà chúng con có thể
cảm thấy tự nhiên,
Xin Chúa hãy phá hủy đền
thờ tội lỗi trong chúng con,
xin hãy xua trừ mọi sự
dữ trong tâm khảm chúng con
và khiến cho chúng con
là những viên đá sống động của cộng đoàn
trong đó Đấng có thể sống
và ngự trị là
Đức Giêsu Kitô, Con
Chúa,
là Chúa hằng sống của
chúng con, đến muôn thuở muôn đời.
2. Bài đọc Tin Mừng – Mátthêu 11:25-30
Vào lúc ấy, Đức Giêsu
cất tiếng nói: “Lạy Cha là Chúa Tể trời
đất, Con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái
biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha.
“Cha Ta đã giao phó mọi
sự cho Ta. Và không ai biết rõ người
Con, trừ Chúa Cha; cũng như không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà
người Con muốn mặc khải cho.
“Tất cả những ai đang
vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng Ta, Ta sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của Ta, và hãy học với
Ta, vì Ta có lòng hiền hậu và khiêm nhường.
Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách Ta êm ái, và gánh Ta nhẹ nhàng.”
3. Suy Niệm Lời Chúa
* Hôm nay chúng ta cử hành lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu. Trong bài Tin Mừng, chúng ta sẽ lắng nghe lời
mời gọi của Chúa Giêsu: “Hãy học với Ta,
vì Ta có lòng hiền hậu và khiêm nhường.”
Phúc Âm cho thấy sự dịu dàng mà Chúa Giêsu chào đón, tiếp nhận những kẻ
bé mọn. Người muốn kẻ nghèo khó tìm được
sự nghỉ ngơi và bình an nơi Người.
* Bối cảnh của các chương 11 và 12 của Tin Mừng
Mátthêu. Trong bối cảnh này nhấn mạnh và
cho thấy sự thực rằng chỉ có người nghèo mới là những người hiểu và chấp nhận sự
khôn ngoan của Nước Trời. Nhiều người đã
không hiểu được sự ưu ái của Chúa Giêsu dành cho người nghèo và kẻ bị loại trừ.
a) Ông Gioan Tẩy Giả, người nhìn Chúa Giêsu với
con mắt của quá khứ, đã nghi ngờ (Mt 11:1-15).
b) Dân chúng, những kẻ nhìn Chúa Giêsu với mục
đích lợi ích cho riêng họ, đã không thể hiểu được Người (Mt 11:16-19).
c) Những phố thị huy hoàng chung quanh biển hồ,
đã lắng nghe lời giảng của Chúa Giêsu và thấy những phép lạ, đã không muốn mở
mang sứ điệp cùa Ngài (Mt 11:20-24).
d) Những bậc khôn ngoan thông thái và các Luật
Sĩ, những kẻ đã phán xét mọi việc theo ý nghĩ riêng của mình, đã không thể hiểu
được lời rao giảng của Chúa Giêsu (Mt 11:25).
e) Ngay cả thân nhân của Người cũng không thể hiểu
Người (Mt 12:46-50).
f) Chỉ có những kẻ bé mọn đã hiểu Người và chấp
nhận Tin Mừng Nước Trời (Mt 11:25-30).
g) Những kẻ khác muốn hy lễ, nhưng Chúa Giêsu chỉ
muốn lòng thương xót (Mt 12:1-8).
h) Phản ứng chống lại Chúa Giêsu khiến cho người
Biệt Phái tìm cách giết hại Người (Mt 12:9-14).
i) Họ nói Chúa Giêsu thuộc về quỷ vương
Bê-en-dê-bun (Mt 12:22-32).
j) Nhưng Chúa Giêsu đã không chùn bước. Người tiếp tục lãnh nhận sứ vụ của Người Tôi
Tớ, như được mô tả trong lời các ngôn sứ.
Đây là lý do Người bị bách hại và bị lên án chết.
* Mátthêu 11:25-26: Chỉ có những kẻ bé mọn hiểu được và chấp nhận
Tin Mừng Nước Trời. Chúa Giêsu dâng lời
cầu nguyện lên cùng với Chúa Cha: “Lạy
Cha là Chúa Tể trời đất, Con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc
khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người
bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp
ý Cha.” Những bậc khôn ngoan, các luật
sĩ thời bấy giờ, đã tạo ra một loạt luật lệ rồi họ nhân danh Thiên Chúa mà áp đặt
lên người dân. Họ cho rằng Thiên Chúa
đòi hỏi dân chúng phải tuân giữ luật lệ này.
Nhưng Lề Luật yêu thương, được Chúa Giêsu mang đến, thì nói ngược lại. Điều quan trọng không phải là những gì chúng
ta làm cho Thiên Chúa, mà là những gì Thiên Chúa, trong tình yêu tuyệt vời của
Ngài, làm cho chúng ta! Dân chúng đã hiểu
được những lời của Chúa Giêsu và đã tràn đầy niềm vui. Những bậc khôn ngoan thông thái cho rằng Chúa
Giêsu đã sai. Họ không thể hiểu được lời
giảng dạy này làm thay đổi mối quan hệ của dân Chúa.
* Mátthêu 11:27: Nguồn gốc của Lề Luật Mới: Chúa Con biết Chúa Cha. Đức Giêsu, là Chúa Con, biết Chúa Cha. Người biết rõ Chúa Cha muốn những gì khi,
hàng thế kỷ trước, Ngài đã trao ban Lề Luật cho ông Môisen. Những gì Chúa Cha muốn nói với chúng ta, Ngài
đã giao phó cho Chúa Giêsu, và Chúa Giêsu mặc khải điều đó cho những kẻ bé mọn,
bởi vì họ mở lòng mình ra với sứ điệp của Người. Ngày nay cũng vậy, Chúa Giêsu tiếp tục giảng
dạy nhiều điều cho những người nghèo khó và cho những kẻ bé mọn. Những bậc thông thái và khôn ngoan sẽ có ích
nếu họ trở thành học trò của những kẻ bé mọn!
* Mátthêu 11:28-30: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề,
hãy đến cùng Ta, Ta sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng.” Chúa Giêsu mời gọi tất cả những ai mệt nhọc
hãy đến nghỉ ngơi trong Người. Đây là những
người mệt mỏi dưới gánh nặng của sự áp đặt và việc tuân thủ mà luật tinh khiết
đòi hòi. Và Người nói tiếp: “Hãy học với Ta, vì Ta có lòng hiền hậu và
khiêm nhường.” Nhiều lần câu nói này đã
được vận dụng để đòi hỏi người ta phải tự quy phục, phải khiêm nhu. Những gì mà Chúa Giêsu muốn nói thì ngược lại. Người đòi hỏi người ta tránh những bậc thông
thái tôn giáo thời đó, nghỉ ngơi và bắt đầu học từ Người, từ Chúa Giêsu, Đấng
“hiền hậu và khiêm nhường trong lòng.”
Chúa Giêsu khác với những Kinh Sư là những kẻ tự hào về kiến thức của họ,
nhưng Chúa lại giống như những kẻ sống mà bị chế giễu và lợi dụng. Chúa Giêsu, vị thày dạy mới, biết từ kinh ngiệm
của những gì xảy ra trong lòng dân chúng và biết dân chúng đã phải chịu đựng ra
sao.
* Lời mời gọi về sự khôn khoan của Thiên Chúa đối
với tất cả những ai tìm kiếm nó. Chúa
Giêsu mời gọi tất cả những ai bị áp bức dưới ách của sự tuân giữ lề luật hãy
tìm kiếm nghỉ ngơi trong Người, bởi vì Người hiền lành và khiên nhường trong
lòng, có khả năng xoa dịu và an ủi những người đau khổ, những người cảm thấy mệt
mỏi và chán nản (Mt 11:25-30). Trong lời
mời gọi này, vang vọng lại những lời lẽ ân sủng của ngôn sứ Isaia đã an ủi những
người sống lưu đày (Is 55:1-3). Lời mời
gọi này liên quan đến sự khôn ngoan Thiên Chúa, mời gọi mọi người tìm kiếm sự
khôn ngoan ấy (Kn 24:19) nói rằng: “Đường
khôn ngoan là đường thú vị; nẻo khôn ngoan là nẻo bình an” (Cn 3:17). Và Chúa nói thêm rằng: “Khôn ngoan làm cho con cái mình nên cao trọng,
và săn sóc những ai kiếm tìm mình. Ai
yêu khôn ngoan là yêu sự sống, ai sớm tìm kiếm khôn ngoan sẽ tràn trề hoan lạc.”
(Hc 4:11-12). Lời mời gọi này mặc khải một
đặc điểm rất quan trọng của khuôn mặt nữ tính của Thiên Chúa: sự dịu dàng và đón nhận an ủi, đem lại sự sống
cho người ta và giúp họ cảm thấy thoải mái.
Chúa Giêsu là Đấng Bảo Vệ, sự bảo vệ và chốn tựa nương mà Chúa Cha ban
cho những kẻ mệt mỏi (xem Is 66:10-13).
4. Một vài câu hỏi cá nhân
- Điều gì tạo ra sự căng thẳng trong bạn và điều
gì cho bạn sự bình an? Đối với bạn, sống
trong cộng đoàn, đó là nguồn gốc gây ra căng thẳng hay bình an?
- Làm thế nào mà những lời của Chúa Giêsu có thể
giúp cộng đoàn chúng ta trở thành nơi nghỉ ngơi cho cuộc đời chúng ta?
5. Lời Nguyện Kết
CHÚA là Đấng từ bi
nhân hậu,
Người chậm giận và
giàu tình thương,
chẳng trách cứ luôn
luôn,
không oán hờn mãi mãi.
(Tv 103:8-9)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét