Giáo Hội Công Giáo Dưới Cái Nhìn của Một Ký Giả Hoa Kỳ (tiếp
theo)
Vũ Văn An6/3/2017
Đâu là những điều căn
bản trong niềm tin Công Giáo?
Kitô Giáo
thường được mô tả như một tôn giáo “tuyên tín” (creedal) nghĩa là chủ yếu không
dựa vào một số luật lệ, như Do Thái Giáo, hay các thực hành thiêng liêng, như Hồi
Giáo, mà dựa vào một số niềm tin được tổng hợp thành các kinh tin kính. Mỗi
Chúa Nhật trong Thánh Lễ, người Công Giáo khắp thế giới khẳng định các niềm tin
cốt lõi trong đức tin của họ bằng cách đọc lời kinh có tên là Kinh Tin Kính
Nixêa, tức bản tuyên xưng đức tin đã được chấp thuận năm 325 CN bởi toàn thể
các giám mục tại Công Đồng Nixêa tọa lạc tại Thổ Nhĩ Kỳ hiện nay. Bản kinh này
như sau:
“Tôi tin
kính một Thiên Chúa là Cha toàn năng,
Đấng tạo
thành trời đất, muôn vật hữu hình và vô hình.
Tôi tin
kính một Chúa Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa,
sinh bởi Đức
Chúa Cha từ trước muôn đời:
Người là
Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, Ánh Sáng bởi Ánh Sáng,
Thiên Chúa
thật bởi Thiên Chúa thật;
được sinh
ra mà không phải được tạo thành, đồng bản thể với Đức Chúa Cha;
nhờ Người
mà muôn vật được tạo thành.
Vì loài người
chúng ta và để cứu độ chúng ta,
Người đã từ
trời xuống thế;
bởi phép Đức
Chúa Thánh Thần, Người đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria,
và đã làm
người.
Người chịu
đóng đinh vào thập giá vì chúng ta, thời quan Phongxiô Philatô,
Người chịu
khổ hình và mai táng.
Ngày thứ
ba, Người sống lại như lời Thánh Kinh,
Người lên
trời, ngự bên hữu Đức Chúa Cha,
và Người sẽ
lại đến trong vinh quang,
để phán xét
kẻ sống và kẻ chết,
Nước Người
sẽ không bao giờ cùng.
Tôi tin
kính Đức Chúa Thánh Thần,
là Thiên
Chúa và là Đấng ban sự sống;
Người bởi Đức
Chúa Cha và Đức Chúa Con mà ra.
Người được
phụng thờ và tôn vinh cùng với Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con;
Người đã
dùng các tiên tri mà phán dạy.
Tôi tin Hội
Thánh duy nhất, thánh thiện, Công Giáo và tông truyền.
Tôi tuyên
xưng có một Phép Rửa để tha tội.
Tôi trông đợi
kẻ chết sống lại và sự sống đời sau. Amen.
Mọi xác tín
cốt lõi của đức tin đều ở đó, từ ý niệm Thiên Chúa có Ba Ngôi (Cha, Con, Thánh
Thần), tới việc Nhập Thể (Con Thiên Chúa trở thành phàm nhân trong Chúa Giêsu
Kitô), tới việc Chuộc Tội (Chúa Kitô chết trên Thập Giá vì tội lỗi thế giới), tới
sự Phục Sinh (Chúa Kitô sống lại từ cõi chết). Cũng bao gồm trong đó là các niềm
tin cốt lõi của Đạo Công Giáo về chính Giáo Hội, tin rằng Giáo Hội “duy nhất”
(hợp nhất), “thánh thiện”, “Công Giáo” (phổ quát) và “tông truyền” (do các vị kế
nhiệm các tông đồ hướng dẫn, tức các giám mục).
Muốn có một
trình bày trọn vẹn về giáo huấn Công Giáo, nguồn tài liệu tốt nhất là Sách Giáo
Lý Của Giáo Hội Công Giáo, do Tòa Thánh xuất bản năm 1992. Cuốn này trình bày
chi tiết các giáo huấn chính thức về đủ mọi vấn đề, được tổ chức thành 4 chủ đề,
đôi khi được gọi là 4 “cột trụ” của đức tin:
• Tuyên xưng đức tin (giải thích các chủ đề
nền tảng trong kinh tin kính)
• Cử hành mầu nhiệm Kitô Giáo (việc thờ
phượng và các bí tích)
• Sự sống trong Chúa Kitô (Mười Điều Răn
và giáo huấn luân lý)
• Cầu nguyện trong Kitô Giáo
Đâu là những điểm khác
nhau chính giữa người Công Giáo và các Kitô hữu khác?
Qua nhiều
thế kỷ, khi Kitô Giáo bắt đầu rạn nứt, với sự ly khai của Đông Phương khỏi Tây
Phương mà truyền thống cho là từ thế kỷ 11 trở đi, hay Phong Trào Thệ Phản thế
kỷ 16, một số dị biệt thần học có tính đặc trưng giữa người Công Giáo và các
chi khác của Kitô giáo đã được chú ý.
Thí dụ,
trong khi người Thệ Phản có xu hướng nhấn mạnh tới một mình Thánh Kinh như là
tiêu chuẩn cho đức tin của họ, thì người Công Giáo nhấn mạnh tới cả Thánh Kinh
lẫn Thánh Truyền, nghĩa là lời giảng dạy liên tục của Giáo Hội qua các thời đại,
nhất là được phát biểu trong “huấn quyền”, hay chức vụ giảng dạy chính thức của
Đức Giáo Hoàng và các giám mục. Ngoài ra, trong khi người Thệ Phản có xu hướng
nhấn mạnh tới một mình đức tin mà thôi như là chìa khóa để được cứu rỗi, thì người
Công Giáo quả quyết rằng người ta bị phán xét cả về đức tin lẫn việc làm, nghĩa
là cách sống chứ không duy bởi những điều mình tin.
Một dị biệt
cổ điển nữa liên quan tới Phép Thánh Thể hay Lễ Tạ Ơn, trong đó, có bánh và rượu.
Trong khi một số ngành của Kitô Giáo coi bánh và rượu như biểu tượng hay nhắc
nhớ tới mình và máu Chúa Kitô, thì Đạo Công Giáo quả quyết rằng: bánh và rượu,
dù vẫn giữ bề ngoài của chúng, nhưng thực ra, chúng đã trở thành thịt và máu
Chúa Kitô (tiếng chuyên môn chỉ việc này là “biến thể”). Thành thử, đối với người
Công Giáo, phạm thánh đối với bánh đã truyền phép là một trong những tội phạm
kinh sợ nhất và đây cũng là lý do, trong nhiều thế kỷ qua, nhiều vị tử đạo đã
hy sinh mạng sống mình để bảo vệ Bánh Thánh đã truyền phép.
Cũng còn một
dị biệt nữa trong đức tin Công Giáo đó là truyền thống nhấn mạnh tới việc Đức
Maria là Mẹ Thiên Chúa và là tiêu mẫu của Giáo Hội. Các Kitô hữu khác thường tố
cáo người Công Giáo nâng Đức Maria lên địa vị thiên tính, và do đó phạm tội đa
thần, nhưng về phương diện chính thức, Đạo Công Giáo vốn phân biệt giữa việc
“tôn kính” Đức Maria và việc “tôn thờ” một mình Thiên Chúa.
Cũng thế, Đạo
Công Giáo cổ vũ việc tôn kính các thánh, tức những con người nam nữ thánh thiện
trong các thế kỷ qua từng được Giáo Hội thừa nhận trong một nghi lễ gọi là
“phong thánh”. Dù người Công Giáo không thờ phượng các thánh, nhưng Giáo Hội dạy
rằng các thánh có thể cầu bầu cùng Thiên Chúa cho ta được các ơn đặc biệt, nên
người Công Giáo được khuyến khích ngỏ các lời cầu nguyện lên các ngài. Nhiều vị
thánh tương đối ít ai biết đến, nhưng nhiều vị nổi tiếng khắp hoàn cầu. Thí dụ,
những người mộ mến Cha Piô, một nhà huyền nhiệm và là một vị hiển tu người Ý thế
kỷ 20 được cho là mang 5 dấu thánh nghĩa là 5 vết thương của Chúa Kitô trên Thập
Giá, hiện nay đã tạo nên một mạng lưới gồm 3,348 nhóm cầu nguyện tại 60 quốc
gia trên thế giới.
Đôi khi,
các dị biệt gây hậu quả nhiều nhất giữa người Công Giáo và các Kitô hữu khác
không thuộc phạm vi thần học đúng nghĩa, nhưng thuộc một phạm vi đặc thù gọi là
“Giáo Hội học” hay các học lý về Giáo Hội. Nói chung, Đạo Công Giáo có điều thường
được gọi là Giáo Hội học “cao”, nghĩa là gán cho Giáo Hội một bản chất và một
vai trò có tính thần thánh mạnh mẽ, hơn là chỉ coi nó như một sản phẩm của khế
ước xã hội giữa các tín hữu với nhau. Đạo Công Giáo dạy rằng Giáo Hội được mời
gọi bước vào hiện hữu bởi chính Chúa Kitô và Người ban cho Giáo Hội cả cơ cấu lẫn
sứ mệnh, “Hãy ra đi và làm cho mọi dân tộc thành môn đệ của Thầy, rửa tội cho họ
nhân danh Cha, Con và Thánh Thần”.
Một cách đặc
biệt, ba phạm vi của Giáo Hội học có xu hướng tạo nên tranh cãi hơn cả giữa người
Công Giáo và các Kitô hữu khác là:
1. Các thừa tác vụ
Đạo Công
Giáo chủ trương rằng linh mục không phải chỉ là một nhà lãnh đạo cộng đồng hay
một đại diện hay được Chúa Kitô ủy quyền, nhưng trong những thời khắc chủ yếu,
ngài còn thực sự đứng in persona Christi, trong ngôi vị của Chúa Kitô và hành động
nhân danh Người, như khi tha tội trong tòa giải tội, và trong lúc truyền phép
bánh và rượu khi cử hành Thánh Lễ. Thần học truyền thống của Công Giáo nói đến
sự “thay đổi hữu thể học” (ontological shift) diễn ra trong bí tích Truyền Chức
Thánh, lúc một linh mục được “đồng hình dạng” (configured) với Chúa Kitô không
chỉ theo nghĩa biểu tượng mà là theo nghĩa sâu xa trên bình diện hữu thể của
chính Người. Vì lý do này, các nhà phê bình trong nhiều thế kỷ đôi khi cho rằng
Đạo Công Giáo tôn vinh chức linh mục thái quá, có hại cho hàng giáo dân.
2. Phẩm trật
Phẩm trật
(hierarchy) là hạn từ tập thể chỉ các giám mục của Giáo Hội hợp nhất với Đức
Giáo Hoàng, và thông thường người ta vốn nói: Đạo Công Giáo là bộ phận tôn giáo
có tính phẩm trật một cách độc đáo. Đạo Công Giáo quả quyết rằng cơ cấu phẩm trật
của Giáo Hội không đơn giản là sản phẩm của lịch sử, mà là cơ cấu do chính Chúa
Kitô ban cho Giáo Hội. Hơn nữa, Đạo Công Giáo còn dạy rằng Chúa Kitô trao cho
các tông đồ và các vị kế nhiệm các ngài trọn vẹn thẩm quyền giảng dạy, cai quản,
và thánh hóa nhân danh Người. Trong thực hành, các xác tín này được diễn dịch
thành việc nhấn mạnh tới thẩm quyền của cả vị giám mục cá thể lẫn toàn thể các
giám mục hợp lại.
3. Ngôi vị giáo hoàng
Dĩ nhiên,
điều khác biệt nhất của Giáo Hội Công Giáo là chức vụ của ngôi vị giáo hoàng. Đạo
Công Giáo dạy rằng Đức Giáo Hoàng là vị kế nhiệm Thánh Phêrô và, do đó, là “vị
đại diện của Chúa Kitô” trên trần gian như một trong các tước hiệu truyền thống
của ngài. Như đã thấy trên đây, luật Giáo Hội nói rõ ràng rằng Đức Giáo Hoàng
có thẩm quyền “tối cao, trọn vẹn, tức khắc, và phổ quát” đối với mọi vụ việc
trong Giáo Hội Công Giáo. Trên thực tế, Đức Giáo Hoàng ủy phần lớn thẩm quyền
này cho các phụ tá và cộng sự viên ở Vatican, những vị được giáo luật cấp phép
đưa ra các quyết định có tính trói buộc nhân danh Đức Giáo Hoàng. Quan niệm cao
qúy về chức vụ giáo hoàng này vừa là một vốn qúy lớn lao của Đạo Công Giáo theo
nghĩa một Giáo Hội có tới 1 tỷ 200 triệu thành viên rải rác khắp thế giới tất
nhiên cần có một trung tâm thẩm quyền mạnh mẽ, vừa là một nguyên nhân gây tranh
chấp, theo nghĩa các nhà phê bình vốn cho rằng Giáo Hội quá tập trung quyền
hành và quá nhiều quyền lực đã bị tập trung vào Rôma.
Có sự bất đồng nào
trong Giáo Hội Công Giáo về một số các giáo huấn trên không? Và bất đồng như thế
nào?
Những gì
phác thảo trên đây đều là các giáo huấn chính thức của Giáo Hội Công Giáo,
nhưng sẽ là một thiếu sót đáng kể khi ngụ ý rằng tất cả khối 1 tỷ 200 triệu người
Công Giáo khắp thế giới đều nhất thiết chia sẻ các niềm tin ấy hệt như chúng đã
được tuyên bố. Cuộc tranh chấp về học lý gần như cũng quen thuộc trong Đạo Công
Giáo y như Thánh Lễ hàng ngày vậy, và điều này, về căn bản, khó lòng tránh được
đối với một tôn giáo nặng tuyên tín vốn nhấn mạnh rất nhiều tới sự tương tác giữa
lý lẽ và đức tin. Đôi khi, sự bất đồng được tổ chức và công khai, nhưng thường
có tính tư riêng và không được công bố, một vấn đề của những người Công Giáo cá
thể ấp ủ những quan điểm không hoàn toàn phù hợp với đường lối chính thức.
Thực vậy,
khó tìm được một người Công Giáo công khai bác bỏ các yếu tố cốt lõi của kinh
tin kính, như Thiên Chúa có Ba Ngôi, chẳng hạn, hoặc, Chúa Kitô chết vì tội lỗi
thế gian, hay Người sẽ trở lại để phán xét người sống và người chết. Bất kể một
người Công Giáo nào đó có cảm thấy chắc chắn trăm phần trăm hay không về những
vấn đề ấy, nói chung, họ không thách thức chúng, nhưng chấp nhận chúng như là
thành phần đã được giải quyết của truyền thống Giáo Hội.
Tuy nhiên,
khi ta đào sâu các giáo huấn khác, cuộc tranh luận và sự bất đồng trở nên thông
thường hơn. Thí dụ, rất nhiều người Công Giáo công khai bác bỏ, và nhiều người
hơn nữa, ít nhất, cũng thắc mắc về chủ trương chính thức chỉ tấn phong chức
linh mục cho đàn ông mà thôi. Nhiều người khác thách thức các khía cạnh khác
thuộc nền luân lý tính dục chính thức của Giáo Hội, như việc Giáo Hội ngăn cấm
ngừa thai, triệt sản, và hôn nhân đồng tính, thậm chí một số người còn bất đồng
cả chủ trương về phá thai nữa, nếu không phải để bênh vực luân lý tính của
chính việc phá thai, thì ít nhất, cũng để chất vấn xem liệu có nên nghiêm cấm
nó một cách hợp lệ hay không. Về phía ngược lại của cán cân, một số người Công
Giáo cho rằng Giáo Hội đã đi quá xa trong những thời điểm gần đây trong việc ủng
hộ chủ nghĩa đa nguyên tôn giáo, như thể không còn sự thật trong các vấn đề tôn
giáo nữa, hay trong việc Công Giáo chống đối án tử hình hoặc ủng hộ việc cải tổ
chính sách di dân.
Một trong
các căng thẳng kinh niên trong Giáo Hội Công Giáo là phải nhất trí bao nhiêu với
giáo huấn chính thức mới đủ để được coi là còn đứng trong hàng ngũ và, dĩ
nhiên, ai là người quyết định việc này. Đây là những điểm được bàn cãi sôi nổi
trong phần lớn lịch sử của Giáo Hội, và trong thế kỷ 21 này, chưa có điều gì
cho thấy các căng thẳng này được giải quyết.
Còn tiếp
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét