02/07/2017
Chúa Nhật 13 thường niên năm A
(phần II)
Phụng
Vụ Lời Chúa: Chúa Nhật XIII Thường Niên năm A
CHÚA NHẬT 13 THƯỜNG NIÊN A
(2V
4,8-11, 14-16a; Rm 6,3-4.8-11;
Mt
10,37-42)
***
CHỦ ĐỀ: ĐƯỢC VÀ MẤT KHI THEO CHÚA
“Ai
không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy” (Mt 10,38)
Theo Đức Kitô để làm môn đệ của Người
đòi hỏi người ta phải từ bỏ nhiều thứ, nhưng lại được nhiều điều khác quý giá
hơn. Làm môn đệ của Đức Giêsu là đặt Người trên hết mọi sự, qua việc sẵn sàng từ
bỏ nghề nghiệp, tài sản, nếp sống cũ, từ bỏ cả những người thân yêu, và đến mức
phải từ bỏ cả mạng sống mình vì Đức Giêsu và vì Tin Mừng. Tuy nhiên người môn đệ
lại được phần thưởng ngay cả ở đời này, và nhất là được sự sống đời đời làm gia
nghiệp.
I. CÁC
BÀI ĐỌC
1. Bài đọc
1 (2V 4,8-11, 14-16a)
Bài đọc I trích Sách Các Vua quyển thứ hai cho
thấy Ngôn Sứ Êlisa, trong khi đi thi hành sứ mạng Chúa trao phó, đã được gia
đình một phụ nữ sang trọng ở thành Sunam tiếp đón nồng hậu, vì bà nhận ra Êlisa
là một vị Ngôn Sứ và là vị thánh của Thiên Chúa. Bà đã quảng đại khi quyết định:
“Mình phải làm cho ông một căn phòng nhỏ trên sân thượng, rồi kê ở đó một cái
giường, đặt bàn ghế và để một cái đèn cho ông dùng. Như thế, khi nào đến nhà
mình, ông sẽ lui vào đó” (2V 4,9-10).
Vị Ngôn Sứ đã từ bỏ đời sống riêng của
mình để làm việc Chúa, lại được sống trong sự quan phòng của Thiên Chúa. Ông bỏ
gia đình bà con thân thuộc, nhưng đi đến đâu, ông lại được nhiều người coi như
người nhà của mình. Ông không mang theo gì, nhưng đi đến đâu, ông lại được tiếp
đón nồng hậu khi họ biết ông là người làm việc cho Chúa. Cái ông có thể đem cho
người khác là niềm vui xuất phát từ Thiên Chúa. Khi biết vợ chồng bà tủi nhục
vì đã già rồi mà chưa có con, Êlisa đã khẩn cầu cùng Chúa ban cho gia đình bà một
người con trai nối dòng: “vào thời kỳ này, vào độ này sang năm, bà sẽ có cháu
trai bồng” (2V 4,16).
Về phần người phụ nữ, bà đã đón tiếp vị
Ngôn Sứ vô vị lợi, nhưng qua đó bà đã góp phần vào sứ vụ của vị Ngôn Sứ, vì “kẻ
nào đón tiếp một Ngôn Sứ với danh nghĩa là Ngôn Sứ, thì sẽ lãnh phần thưởng của
Ngôn Sứ” (Mt 10,42). Ở đây, phần thưởng mà bà nhận được đó là niềm vui khi được
Chúa ban cho người con trai nối dòng, niềm vui được cất nỗi nhục khỏi ánh mắt
người đời.
2. Bài đọc
2 (Rm 6,3‒4. 8-11)
Bài đọc 2 trích thư gửi tín hữu Rôma diễn
tả việc đòi hỏi từ bỏ và hy sinh khi theo Chúa. Thánh Phaolô cho biết rằng nhờ
được chịu Phép Rửa, các Kitô hữu đã cùng chịu đau khổ với Đức Kitô: “Chúng ta
biết rằng: con người cũ nơi chúng ta đã bị đóng đinh vào thập giá với Ðức
Kitô”. Đây chính là một cuộc từ bỏ, là cái mất. Nhờ đó, các Kitô hữu đạt được hệ
quả thật to lớn: “con người do tội lỗi thống trị đã bị hủy diệt, để chúng ta
không còn làm nô lệ cho tội nữa. Quả thế, ai đã chết, thì thoát khỏi quyền của
tội lỗi”. Đó là cái được, cái lợi khi theo Đức Giêsu. Như vậy, chịu Phép Rửa để
trở thành Kitô hữu là chấp nhận bước vào một cuộc từ bỏ và sẵn sàng chịu đau khổ.
Tuy nhiên, nhờ liên kết với sự đau khổ và cái chết của Đức Giêsu Kitô, mà Đức
Kitô đã sống lại, nên các tín hữu đã đón nhận một phần thưởng xứng đáng, đó là
có được tình trạng mới và đời sống mới trong Đức Giêsu Kitô.
3. Bài
Tin Mừng (Mt 10,37-42)
Bài Tin Mừng hôm này được đặt trong bối
cảnh Đức Giêsu đã ban cho các môn đệ quyền trừ quỷ và chữa hết các bệnh hoạn tật
nguyền (Mt 10,1-4), rồi sai các ông đi rao giảng. Trước khi sai đi, Đức Giêsu
đã dạy các ông những điều cần thiết về tư cách người môn đệ (Mt 10,5b-15). Kế đến,
Đức Giêsu nói về những cuộc bách hại mà người môn đệ sẽ gặp phải, những khó khăn
từ nhiều phía, ngay cả từ trong gia đình, nhưng các ông phải đón nhận (Mt
10,16-23), vì cả Thầy lẫn trò đều bị như thế (Mt 10,24-25). Đó là những cái mất,
những thiệt thòi. Tuy nhiên, các ông cũng có nhiều cái được khi theo Chúa.
Về phía mất: Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy
ơn gọi làm môn đệ đòi hỏi những điều kiện khắt khe, đôi lúc phải trả giá đắt,
phải mất nhiều thứ. Có khi phải mất những tương quan nhân loại, ngay cả tương
quan cao quý nhất như gia đình ruột thịt. Nếu những điều đó ngăn cản sống đức
tin, cản trở ơn gọi làm môn đệ Chúa, thì cũng phải từ bỏ. Đức Giêsu đề cao sự từ
bỏ triệt để như thế nhằm nhấn mạnh đến tính cấp bách và ưu tiên cho Nước Trời
hơn những thứ khác.
Với bản thân, có một sự “đối nghịch
tương ứng” đáng kể theo cách của con người và cách Đức Giêsu đề nghị. Ai tự khẳng
định mình, tự tìm cách để vun quén cho cuộc sống hiện tại, đề cao bản thân với
bất cứ giá nào thì sẽ mất cuộc sống đời đời. Ngược lại, ai chịu mất mạng sống
mình ở đời này, dành cuộc sống mình để phục vụ Thiên Chúa, đặt Nước Trời làm ưu
tiên trên mọi thứ tương quan và giá trị khác, ngay cả bản thân mình, sẽ là những
người tìm được hay đạt được sự sống đời đời.
Về phía được: Ngoài việc đạt được sự sống
đời đời, Đức Giêsu cho biết nếu có mất bản thân mình, thì họ lại được tha nhân,
được Chúa, và được phần thưởng dành cho bậc Ngôn Sứ, hay dành cho người công
chính, cũng như dành cho người loan báo Tin Mừng vì đã đón tiếp và giúp đỡ họ,
dù chỉ là một chén nước lã thôi. Nếu triết gia hiện sinh Jean Paul Sartre nói:
“L’enfer c’est les autres - Tha nhân là hỏa ngục”, thì ở đây Đức Giêsu lại cho
thấy “Tha nhân là thiên đàng”, vì “tha nhân là hiện thân của Chúa”, nên qua tha
nhân chúng ta gặp được Chúa và nhờ tha nhân mà chúng ta được vào Nước Chúa.
Bài Tin Mừng hôm nay cũng cho thấy rằng
Tin Mừng phải được loan báo, và ai cộng tác với sứ vụ này với bất kỳ hình thức
nào, dù trực tiếp hay gián tiếp, đều góp phần của riêng mình vào đó và đáng nhận
được phần thưởng Nước Trời mà Chúa sẽ ban.
II. GỢI
Ý MỤC VỤ
1. Người phụ nữ thành Sunêm đã đón tiếp
và giúp đỡ Ngôn Sứ Êlisa vô vị lợi dựa theo những gì bà có, nhưng bà đã góp phần
vào sứ vụ của vị Ngôn Sứ. Nhờ đó, bà cũng bất ngờ nhận được phần thưởng to lớn,
đó là niềm vui khi được vị Ngôn Sứ xin Chúa ban cho bà người con trai để cất nỗi
nhục khỏi ánh mắt người đời. Tôi có ý thức tìm cách cộng tác với những người lo
việc Chúa, về mặt tinh thần cũng như vật chất? Khi giúp đỡ như thế, tôi có tính
toán vụ lợi, hay làm một cách vô tư rồi để Chúa ân thưởng xứng đáng?
2. Qua Phép Rửa, tôi đã trở nên đồng
hình đồng dạng với Đức Giêsu Kitô. Để được trỗi dậy với Đức Giêsu Phục Sinh,
tôi có sẵn sàng đón nhận những rủi ro, những thiệt thòi, mất mát thậm chí đau
khổ với Đức Giêsu chịu đóng đinh hay không?
3. Đức Giêsu đưa ra một điều kiện rất khắt
khe đối với những người muốn bước theo Người. Tôi có ý thức rằng đi theo Chúa
thì phải mất nhiều thứ: có khi phải mất những tương quan nhân loại, kể cả gia
đình ruột thịt, nếu những điều đó ngăn cản sống đức tin? Đi theo Chúa thì phải
gặp nhiều khó khăn thiệt thòi, chịu những cuộc bách hại, thậm chí mất mạng sống?
Ngược lại, tôi có biết rằng đi theo Chúa cũng được nhiều thứ: được thêm tha
nhân, được Chúa, được phần thưởng cả ở đời này và nhất là đạt được sự sống vĩnh
cửu đời sau?
III. LỜI
NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Anh
chị em thân mến! Thiên Chúa hứa ban phần thưởng lớn lao là sự sống đời đời cho
những ai sẵn sàng từ bỏ mình để sống cho Chúa và tha nhân. Tin tưởng vào lời
Chúa hứa và với quyết tâm trở nên môn đệ đích thực của Đức Kitô, cộng đoàn
chúng ta cùng khiêm tốn dâng lời nguyện xin:
1. Người phụ nữ thành Sunam đã góp phần
vào sứ vụ của ngôn sứ Êlisê cách vô vị lợi. Chúng ta cùng cầu nguyện cho Đức
Giáo Hoàng Phanxicô và các vị chủ chăn trong Hội Thánh luôn nhận được sự cảm
thông và cộng tác từ mọi thành phần dân Chúa.
2. “Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy,
và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy.” Chúng ta cùng cầu nguyện cho
các dân tộc chưa tin nhận Thiên Chúa biết mở lòng đón tiếp các sứ giả Tin mừng,
hầu được đón nhận hồng ân cứu độ Chúa trao ban.
3. “Ai liều mất mạng sống mình vì Thầy,
thì sẽ tìm thấy được.” Chúng ta cùng cầu nguyện cho những người sống đời thánh
hiến luôn ý thức mình thuộc về Chúa và là chứng nhân của Người, để không ngừng
sống đời từ bỏ và trung thành theo Chúa đến cùng.
4. Mọi hành động bác ái dành cho tha
nhân đều được Chúa ghi nhận. Chúng ta cùng cầu xin cho mọi người trong cộng
đoàn chúng ta biết nỗ lực sống giới răn yêu thương trong gia đình và lối xóm,
luôn sẵn sàng tiếp đón và giúp đỡ những người nghèo khổ bất hạnh.
Chủ tế: Lạy
Thiên Chúa là Cha rất nhân từ, xin thương chúc lành cho những ý nguyện của cộng
đoàn chúng con, để nhờ ơn Chúa giúp, chúng con luôn sống xứng đáng với danh
xưng Kitô hữu của mình. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
SỢI CHỈ ĐỎ CHÚA NHỰT XIII TN NĂM A
CHỦ ĐỀ :
CHIA SẺ THÂN PHẬN CỦA ĐỨC KITÔ -
THÁI ĐỘ TIẾP ĐÓN
"Ai
cho một trong những kẻ bé mọn dù chỉ một ly nước lã, người đó sẽ không mất phần
thưởng đâu"
(Mt
10,42)
- Bài đọc I (2V 4,8-11.14-18) :
"Người đến trọ nhà mình là một vị thánh của Thiên Chúa"
- Đáp ca (Tv 88) : "Tôi sẽ ca ngợi
tình thương Chúa đến muôn đời"
- Tin Mừng (Mt 10,37-42) : "Kẻ nào
đành mất mạng sống mình vì Thầy thì sẽ tìm lại được nó" - "Kẻ nào tiếp
đón các con là tiếp đón Thầy"
- Bài đọc 2 (Rm 6,3-4.8-11) (Chủ đề phụ)
: "Nếu chúng ta chết với Đức Kitô, chúng ta sẽ cùng sống với Ngài".
Sợi chỉ đỏ
:
Lời Chúa hôm nay có hai chủ đề :
1. Chủ đề tiếp đón : được diễn tả qua
chuyện một gia đình miền Sunam cho ngôn sứ Êlisê đến trọ tại nhà (Bài đọc I),
và phần thứ hai của bài Tin Mừng : "Kẻ nào tiếp đón các con là tiếp đón Thầy"
2. Chủ đề chia xẻ thân phận của Đức
Giêsu : được diễn tả qua phần đầu của bài Tin Mừng : "Kẻ nào đành mất mạng
sống mình vì Thầy thì sẽ tìm lại được nó", và bài đọc II : "Nếu chúng
ta chết với Đức Kitô, chúng ta sẽ cùng sống với Ngài".
I. DẪN
VÀO THÁNH LỄ
- (Nếu chọn chủ đề I) : Anh chị em thân
mến
Trong xã hội thời nay, người ta thường sống
theo kiểu chủ nghĩa cá nhân : mạnh ai nấy lo, sống chết mặc bây, đèn nhà ai nhà
nấy sáng. Kết quả của lối sống này là một xã hội thiếu vắng tình thương, ích kỷ,
thờ ơ.
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy cầu xin
Chúa giúp chúng ta biết quan tâm tới người khác, yêu thương người khác và tiếp
đón người khác như tiếp đón chính Chúa.
- (Nếu chọn chủ đề II) : Anh chị em thân
mến
Lời Chúa hôm nay trình bày một nghịch lý
: "Kẻ nào cố tìm mạng sống mình thì sẽ mất ; Kẻ nào đành mất mạng sống
mình vì Thầy thì sẽ tìm lại được nó".
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy xin
Chúa giúp chúng ta hiểu được chân lý lạ lùng đó, và nhất là dám liều mạng sống
vì Chúa, để được chia sẻ sự sống của chính Chúa.
II. GỢI
Ý SÁM HỐI
- Chúng ta rất thờ ơ với những anh chị
em sống chung quanh chúng ta.
- Chúng ta coi thường những người nghèo
nàn, thất học và không có địa vị.
- Chúng ta ít khi hy sinh vì Chúa.
III. LỜI
CHÚA
1. Bài đọc I (2V 4,8-11.14-18)
Tường thuật câu chuyện giữa ngôn sứ Êlisê
và một phụ nữ xứ Sunam :
- Trên đường sứ mạng, ngày kia Eâlisê đến
vùng Sunam
- Ở đấy, một phụ nữ đã mời Ông vào nhà
dùng bữa. Sau đó bà còn nói với chồng mình rằng Eâlisê là một vị thánh của
Thiên Chúa. Được sự đồng ý của chồng, bà còn dọn sẵn cho Eâlisê một căn phòng
có đầy đủ những thứ cần thiết, để bất cứ lúc nào ngôn sứ cũng có thể đến trú ngụ.
- Đáp lại lòng tốt của vợ chồng này,
ngôn sứ Eâlisê đã làm phép lạ giúp họ đang son sẻ mà có được một đứa con trai đầu
lòng. (Sau này đứa con ấy chết, Eâlisê lại làm phép lạ cho nó sống lại).
2. Đáp ca (Tv 88)
Tv này ca ngợi tình thương của Chúa. Tác
giả còn nguyện sẽ ca ngợi như thế mãi tới muôn đời.
3. Tin Mừng (Mt 10,37-42)
Có thể chia đoạn Tin Mừng này thành 2 phần
:
- Phần đầu (các câu 37-39) Đức Giêsu dạy
các môn đệ về sự từ bỏ : Nếu muốn làm môn đệ xứng đáng của Ngài thì phải từ bỏ
rất nhiều : tình yêu gia đình, mạng sống ; và còn phải sẵn sàng vác thập giá
mình mà đi theo Ngài.
- Phần sau (các câu 40-42) dạy về sự tiếp
đón : ai tiếp đón các sứ giả Tin Mừng thì được coi như là tiếp đón chính Đức
Giêsu, thậm chí là tiếp đón chính Thiên Chúa là Đấng đã sai Đức Giêsu đến ; ai
tiếp đón một kẻ bé mọn thì cũng được phần thưởng.
4. Bài đọc 2 (Rm 6,3-4.8-11) (Chủ đề phụ)
Văn mạch : Phaolô đang đưa ra những lập
luận để chứng minh rằng người ta được công chính hóa không phải nhờ việc làm,
mà nhờ tin vào Đức Giêsu Kitô. Đoạn tuần trước là lập luận thứ nhất : con người
đã mất ơn nghĩa với Thiên Chúa do tội của Adam, nhưng con người lại được ơn
nghĩa nhờ cái chết của Đức Giêsu Kitô. Cho nên muốn được ơn nghĩa thì phải tin
vào Đức Giêsu Kitô.
Đoạn tuần này đưa ra lập luận thứ hai :
muốn được ơn nghĩa với Thiên Chúa thì phải liên kết với Đức Giêsu bằng phép rửa
:
- Chịu phép rửa nghĩa là cùng chết với Đức
Giêsu để được cùng sống lại với Ngài.
- Như thế, kẻ đã lãnh nhận phép rửa hãy
dứt khoác chết cho tội lỗi để hoàn toàn sống cho Thiên Chúa.
IV. GỢI
Ý GIẢNG
1. Những nét đẹp của sự Tiếp đón
Thánh Kinh ghi lại những cuộc tiếp đón rất
đẹp và rất dễ thương : 1/ Abraham thấy 3 người khách lạ đang đi trong sa mạc.
Ông chạy ra năn nỉ họ vào nhà và ân cần chăm sóc họ. Đó là 3 sứ giả của Thiên
Chúa. Đáp lại tấm lòng của Abraham, 3 sứ giả này ban ơn cho vợ chồng son sẻ của
Abraham có con trai đầu lòng (St 18) ; 2/ Một gia đình ở Sunam chẳng những tiếp
đón ngôn sứ Eâlisê, mà còn dọn hẳn cho ông một căn phòng để những lần sau ông tới
có chỗ trọ. Đáp lại, Eâlisê cũng giúp họ thoát khỏi tình trạng son sẻ (bài đọc
I) ; 3/ Gia đình Matta, Maria và Lazarô ở Bêtania là nơi thường xuyên tiếp đón
Đức Giêsu và các môn đệ. Đáp lại, Đức Giêsu đã làm cho Ladarô sống lại.
Qua những chuyện trên, chúng ta hãy tìm
hiểu thêm hai vấn đề :
1/ Tại sao những chủ nhà ấy quảng đại tiếp
đón khách ? Thưa vì họ không chỉ nghĩ đến mình mà còn quan tâm tới người khác :
Abraham lo cho 3 người khách kia đi trong sa mạc sẽ bị đói khát và không có chỗ
nghỉ ngơi để lấy lại sức ; gia đình ở Sunam lo sợ ngôn sứ Eâlisê phải bơ vơ tứ
cố vô thân ở một miền đất lạ ; gia đình Bêthania thì muốn Đức Giêsu và các môn
đệ được nghỉ ngơi sau một thời gian mệt mỏi vì công việc rao giảng Tin Mừng.
Trong hai chuyện sau, còn một lý do nữa, là những chủ nhà ấy ý thức rằng những
người khách mà mình tiếp đón là sứ giả của Thiên Chúa.
2/ Phần thưởng của tấm lòng quảng đại ấy
là gì ? Là sự sống : hai đứa con trai đầu lòng cho hai vợ chồng son sẻ, và mạng
sống được trả lại cho Ladarô đã chết 4 ngày. Xét cho cùng, ơn ban sự sống ấy
không phải do những người khách, mà chính Thiên Chúa, nguồn mạch sự sống, ban
cho họ.
Những câu chuyện rất đẹp trên đây khuyến
khích chúng ta hãy quảng đại tiếp đón :
- Tiếp đón không chỉ là đón người vào trọ
trong nhà mình, cho họ ăn, cho họ nghỉ, mà còn là biết quan tâm tới nhu cầu của
người khác và đáp ứng theo khả năng của mình.
- Khi tiếp đón, dĩ nhiên chúng ta phải mất
mát : mất giờ, mất tiền của, mất công… Nhưng Thiên Chúa sẽ trọng thưởng chúng
ta : Ngài sẽ cho sức sống thần linh của Ngài thêm lớn mạnh trong sự sống chúng
ta.
2. Chúa Giêsu là số mấy ?
Phần đầu của bài Tin Mừng hôm nay đặt vấn đề : người môn
đệ của Đức Giêsu đặt Ngài ở số mấy trong đời họ ?
Bình thường, người ta coi bản thân là số một, vợ chồng số
hai, gia đình số ba, thân nhân số bốn… Chúa thì có lẽ cao lắm cũng chỉ từ số
năm trở xuống.
Trong đoạn Tin Mừng này, Đức Giêsu kể ra những người dành
cho Chúa vị trí số hai :
- một là cha mẹ, hai là Chúa
- một là con cái, hai là Chúa
- một là mạng sống mình, hai là Chúa
Được xếp ở vị trí số hai như thế cũng là được coi trọng lắm
rồi. Nhưng Đức Giêsu vẫn không chịu. Ngài nhất quyết đòi vị trí số một :
"Ai yêu mến cha mẹ hơn Thầy thì không xứng đáng với Thầy ; ai yêu mến con
trai con gái hơn thầy thì không xứng đáng với Thầy" ; Ngài còn đòi chúng
ta phải dám mất mạng sống vì Ngài nữa !
Mỗi người chúng ta hãy tự hỏi : phần tôi, tôi xếp Chúa
vào vị trí số mấy ?
3. Nhiều loại từ bỏ
Có nhiều loại từ bỏ :
- Tôi soạn lại tủ áo của tôi. Nhiều áo quá. Có những chiếc
đã cũ và lỗi thời, tôi có thể bỏ bớt để đem cho người nghèo.
- Trong sân nhà tôi có hai cây mọc cạnh nhau. Nếu cứ để
như thế thì hai cây vẫn sống, nhưng không cây nào lớn mạnh tốt được. Tôi nên bỏ
bớt một cây để cây kia mọc tốt hơn.
- Nha sĩ khám thấy có một chiếc răng của tôi đang bị hư nặng.
Ông bảo phải bỏ nó đi, nếu không, nó sẽ lây cho những chiếc bên cạnh.
Đức Giêsu kêu gọi người đi theo Ngài hãy từ bỏ. Bỏ những
gì và bỏ cách nào ?
- Có những thứ ta có thể bỏ. Thí dụ bớt chút thức ăn, bớt
chút giờ ngủ khi ta ăn chay hãm mình.
- Có những thứ ta nên bỏ để cuộc sống của ta nên tốt hơn.
Thí dụ khi ta nhường nhịn không trả đũa, không đòi lại của cải hoặc danh dự bị
người khác làm tổn thương, mất mát.
- Có những thứ ta bó buộc phải bỏ như : tội lỗi, thói xấu,
dịp tội.
4. Hai chi tiết quan trọng trong bài Tin Mừng
Trong bài Tin Mừng này, có hai chi tiết mà nếu ta không dừng
lại tìm hiểu kỹ thì sẽ để vuột mất những ý nghĩa rất sâu sắc :
- Câu 38 (quyển Bài đọc ấn bản 1970 bỏ sót không in câu
này) "Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy thì không xứng với Thầy"
: Theo cách xử tử của Rôma, người bị kết án tử đóng đinh thập giá phải tự vác lấy
thập giá của mình (chỉ vác thanh ngang, còn thanh dọc để sẵn ở pháp trường) đi
ra pháp trường. Vì thế, kiểu nói "vác thập giá mình" có nghĩa là bị kết
án tử. Do đó, câu nói của Đức Giêsu có nghĩa là ai muốn xứng đáng làm môn đệ đi
theo Chúa thì phải chấp nhận thân phận mình như là người đã bị kết án tử.
- Câu 39 "Kẻ nào đành mất mạng sống mình vì Thầy thì
sẽ tìm lại được nó" : chữ hy lạp psyche có nghĩa rất rộng, chỉ
"lòng", "trí", "tim", tổng quát là cả "cuộc
sống", toàn thể "con người". Như thế, "đành mất mạng sống"
có nghĩa là dám mất tất cả. Và như vậy thì kiểu nói này cũng đồng nghĩa với ý
tưởng coi mình như người đã bị kết án tử mà ta vừa phân tích ở trên.
5. Những bài toán
Thông thường người ta thích làm toán cộng và toán nhân,
nghĩa là cứ muốn có thêm và có thêm thật nhiều thật nhanh.
Nếu ta đọc kỹ lại những lời Đức Giêsu dạy dỗ các môn đệ
thì thấy Ngài dạy ta làm hai bài toán khác, đó là toán trừ và toán chia : làm
toán trừ là từ bỏ, làm toán chia là bố thí, chia xẻ, phân phát cho người khác.
Tuy làm toán trừ và toán chia thì ta sẽ bị mất mát. Nhưng
chính Thiên Chúa sẽ đích thân làm toán cộng và toán nhân cho ta : "Chẳng
ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ cha, con cái hay ruộng đất vì Thầy và vì Tin
Mừng mà bây giờ ngay ở đời này lại không nhận được… gấp trăm… và sự sống vĩnh cửu
ở đời sau" (Mc 10,29-30).
6. Chuyện minh họa
a/ Tiếp đón
Chúa hứa với một bà là Ngài sẽ đến thăm
bà vào ngày đó. Bà rất hãnh diện về điều này. Bà cọ rửa, lau chùi, đánh bóng,
quét bụi và xếp đặt mọi thứ sẵn sàng. Bà ngồi và đợi Chúa đến.
Đột nhiên có tiếng gõ cửa. Bà vội chạy
ra. Vừa đẩy cửa, bà thấy một người ăn xin đứng đó. Bà liền nói : "Không,
hôm nay tôi không giúp anh, vì Chúa luôn ở với anh rồi. Tôi đang nóng lòng đợi
Chúa đến, không thể giúp anh điều gì". Bà đuổi anh và đóng cửa lại.
Mấy phút sau lại có tiếng gõ cửa. Bà mở
cửa nhanh hơn trước. Thấy gì ? Vài người già nghèo nàn. "Rất tiếc, tôi
đang đợi Chúa đến. Hôm nay tôi không thể giúp đỡ các ông". Rồi bà đóng sầm
cửa lại.
Một lát sau lại có tiếng gõ cửa. Bà mở
và lại thấy một người ăn xin rách rưới. Anh xin ăn và nghỉ qua đêm. "Ồ,
hãy để tôi yên. Tôi đang đợi Chúa đến. Tôi không thể tiếp anh". Người ăn
xin ra đi và bà tiếp tục ngồi chờ.
Hàng giờ trôi qua và màn đêm buông xuống,
nhưng cũng chẳng thấy dấu hiệu gì của Chúa. Bà băn khoăn không biết Ngài ở đâu.
Cuối cùng, bà đành lên giường nằm chờ.
Bà ngủ quên và mơ thấy Chúa đến với bà và nói : "Hôm nay Ta đã đến với con
3 lần và cả 3 lần con đều đuổi Ta".
b/ Mất và được
Tái ông thất mã : Ngày xưa có một ông
lão ở gần cửa ải mất một con ngựa. Có người đến thăm phàn nàn cho sự rủi ro.
Ông đáp : "Biết đâu chuyện mất ngựa chẳng là điều may." Vài ngày sau,
con ngựa cũ trở về lại rủ được một con ngựa Hồ rất hay. Có người cho đó là điều
may mắn. Ông nói : "Chưa hẳn được ngựa là may đâu." Ông có đứa con
trai, thấy ngựa Hồ hay, liền bắt cởi thử, chẳng may bị ngã ngựa té gãy chân.
Nhiều người cho rằng xui xẻo. Ông lại nói chưa biết chừng đây là điềm báo trước
điều phúc cho gia đình ông. Qua năm sau, giặc Hồ tràn sang nước ông. Theo lệnh
vua, các trai tráng trong làng đều phải sung vào cơ ngũ đi dẹp loạn, 10 người
chỉ sống sót được một. Con trai ông vì tàn tật nên được miễn dịch, nhờ đó mà
thoát chết, gia đình ông được an toàn. Nên việc họa phúc không biết đâu mà ngờ
được. (Trích "Phúc")
V. LỜI
NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
CT : Anh chị em thân mến
Muốn dấn thân theo Chúa Giêsu, người
kitô hữu phải từ bỏ mình, vác thập giá hằng ngày mà theo Người. Với quyết tâm
bước theo Chúa đến cùng, chúng ta cùng tha thiết nguyện xin.
1- Hội Thánh dùng Lời Chúa để giáo dục đức
tin của người kitô hữu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu biết lắng
nghe lời giáo huấn của Hội Thánh / để nhờ đó mà đức tin ngày càng trưởng thành
hơn.
2- Đời sống thường ngày cho chúng ta thấy
có một số người chỉ thích sống an nhàn / chỉ lo hưởng thụ mà không thích nghe đề
cập đến hy sinh gian khổ / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho lúc nào cũng có nhiều
người quảng đại / sẵn sàng phục vụ những người bất hạnh nhất của xã hội.
3- Tận tình giúp đỡ những người đang gặp
hoạn nạn / những nạn nhân của thiên tai / những người mắc bệnh nan y / những
người mất hết niềm hy vọng để vui sống / là nghĩa vụ của những người tin Chúa /
Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các kitô hữu biết cố gắng thực hiện lời dạy của
Thánh Phaolô / "vui với người vui, khóc cùng người khóc".
4- Hết lòng nâng đỡ / và chân thành cộng
tác với các mục tử trong sinh hoạt của giáo xứ / là trách nhiệm của mỗi kitô hữu
/ Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / luôn biết rộng rãi
giúp đỡ / và tích cực cộng tác với các Linh mục trong việc mục vụ thường ngày.
CT : Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã trải qua
con đường đau khổ rồi mới bước vào vinh quang. Xin cho chúng con hiểu rằng : nếu
muốn được chia xẻ vinh quang thiên quốc với Chúa, chúng con cũng phải đi qua
con đường thập giá, con đường đòi hỏi nhiều hy sinh gian khổ, nhưng chính là
con đường dẫn đưa đến sự sống bất diệt. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
Amen
VI.
TRONG THÁNH LỄ
- Trước kinh Lạy Cha : Khi đọc kinh Lạy
Cha, chúng ta hãy nhớ rằng những người sống chung quanh chúng ta cũng là anh chị
em cùng một Thiên Chúa là Cha như chúng ta. Vậy chúng ta hãy xin Cha giúp chúng
ta yêu thương và tiếp đón những anh chị em ấy.
VII. GIẢI
TÁN
Lời Chúa hôm nay nhắc chúng ta sống với
người khác bằng thái độ tiếp đón, và sống với Chúa bằng cách coi Chúa trọng hơn
tất cả mọi người và mọi sự. Chúng ta hãy ra về và cố gắng sống như thế.
Lm. Carolo HỒ BẶC XÁI
Lectio
Divina: Chúa Nhật XIII Thường Niên (A)
Chúa
Nhật, 2 Tháng 7, 2017
Từ bỏ tất cả để theo Chúa Giêsu
“Kẻ nào
yêu mến cha mẹ hơn Thầy,
thì chẳng
xứng đáng với Thầy!”
Mt 10:37-42
1. Lời nguyện mở đầu
Lạy
Chúa Giêsu, xin Chúa hãy sai Thần Khí Chúa đến giúp chúng con đọc Kinh Thánh với
cùng tâm tình mà Chúa đã đọc cho các môn đệ trên đường đến Emmau. Trong ánh sáng Lời Chúa, được viết trong
Kinh Thánh, Chúa đã giúp các môn đệ khám phá ra được sự hiện diện của Thiên
Chúa trong nỗi đau buồn về bản án và cái chết của Chúa. Vì thế, cây thập giá tưởng như là sự kết thúc
của mọi niềm hy vọng, đã trở nên nguồn mạch của sự sống và sự sống lại.
Xin
hãy tạo trong chúng con sự thinh lặng để chúng con có thể lắng nghe tiếng Chúa
trong sự Tạo Dựng và trong Kinh Thánh, trong các sự kiện của đời sống và trong
những người chung quanh, nhất là nơi những người nghèo khó và đau khổ. Nguyện xin Lời Chúa hướng dẫn chúng con, giống
như hai môn đệ từ Emmau, chúng con cũng sẽ hưởng được sức mạnh sự phục sinh của
Chúa và làm chứng cho những người khác rằng Chúa đang sống hiện hữu giữa chúng
con như nguồn mạch của tình anh em, công lý và hòa bình. Chúng con cầu xin điều này vì danh Chúa
Giêsu, con Đức Maria, Đấng đã mặc khải cho chúng con về Chúa Cha và đã sai Chúa
Thánh Thần đến với chúng con. Amen.
2. Bài Đọc
a) Phân đoạn bài Tin Mừng để trợ giúp cho bài đọc:
Mt
10:37: Tình yêu dành cho Chúa Giêsu thì
phải trọng hơn tình yêu dành cho cha mẹ và con cái
Mt 10:38: Thập giá là một phần của việc đi theo Chúa
Giêsu
Mt 10:39: Biết cách đánh mất mạng sống mình để giữ được
nó
Mt 10:40-41: Chúa Giêsu xác nhận mình với người đi rao giảng
và người môn đệ
Mt 10:42: Làm việc tầm thường nhất cho một trong những
kẻ bé mọn thì đã đáng được trả công
b)
Chìa khóa dẫn đến bài đọc:
Trong
Chúa Nhật thứ 13 thường niên, chúng ta suy niệm về đoạn cuối của Bài Giảng về Sứ
Vụ (Mt 10:1-42). Bài giảng này chứa đựng
những câu nói và lời khuyên của Chúa Giêsu, dạy chúng ta thực hiện sứ vụ loan
báo Tin Mừng của Thiên Chúa. Chúa Giêsu
không đánh lừa, và chỉ rõ những khó khăn mà sứ vụ này bao hàm. Khi chúng đọc văn bản này, chúng ta nên chú ý
đến những điều sau đây: “Đòi hỏi căn bản của Chúa Giêsu đối với những ai đi làm
sứ vụ là gì?”
c) Phúc Âm:
37
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các tông đồ rằng: “Kẻ nào yêu mến cha mẹ hơn Thầy,
thì chẳng xứng đáng với Thầy; và kẻ nào yêu mến con trai, con gái hơn Thầy, thì
không xứng đáng với Thầy. 38 Kẻ nào không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì
không xứng đáng với Thầy. 39 Kẻ nào cố tìm mạng sống mình thì sẽ mất, và kẻ nào
đành mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm lại được nó.
40 “Kẻ nào đón tiếp các con là đón tiếp
Thầy; và kẻ nào đón tiếp Thầy, là đón tiếp Đấng đã sai Thầy. 41 Kẻ nào đón tiếp
một tiên tri với danh nghĩa tiên tri, thì sẽ lãnh phần thưởng của tiên tri; và
kẻ nào đón tiếp người công chính với danh nghĩa người công chính, thì sẽ lãnh
phần thưởng của người công chính. 42 Kẻ nào cho một trong những kẻ bé mọn này uống
chỉ một bát nước lã mà thôi với danh nghĩa là môn đệ, thì quả thật, Thầy nói
các con, người ấy không mất phần thưởng đâu.”
3. Giây phút cầu nguyện trong thinh lặng
Để
Lời của Chúa có thể thấm nhập và soi sáng đời sống chúng ta.
4. Một vài câu hỏi gợi ý
Để
giúp chúng ta trong việc suy gẫm cá nhân.
a) Phần nào trong đoạn Tin Mừng này đã làm bạn cảm
động nhất? Tại sao?
b)
Đoạn Tin Mừng này cho chúng ta những lời khuyên gì? Điều kiện căn bản của nó là gì?
c)
Chúa Giêsu phán rằng: “Kẻ nào yêu mến cha mẹ hơn Thầy, thì chẳng xứng
đáng với Thầy” – Chúng ta nên hiểu câu nói này như thế nào?
d)
Văn bản nói với chúng ta điều gì về sứ vụ mà chúng ta phải thực hiện khi
là môn đệ của Chúa Giêsu?
5. Dành cho những ai muốn đào sâu hơn vào chủ đề
a) Bối cảnh của đoạn Tin Mừng trong sách Phúc Âm
theo thánh Mátthêu:
Phúc Âm theo thánh Mátthêu sắp xếp những
lời nói và việc làm của Chúa Giêsu xung quanh năm bài giảng tuyệt vời: (i)
Mátthêu chương 5 đến chương 7: Bài Giảng
Trên Núi mô tả đường vào Nước Trời. (ii)
Mátthêu chương 10: Bài Giảng về Sứ Vụ
Truyền Giáo mô tả cách những người theo Chúa Giêsu phải công bố Tin Mừng Nước
Trời và những khó khăn liên quan. (iii)
Mátthêu chương 13: Bài Giảng bằng Dụ
Ngôn, bằng phương cách dùng những tương đồng được lấy ra từ cuộc sống hằng
ngày, Chúa Giêsu cho thấy sự hiện diện của Nước Trời trong đời sống của người
dân. (iv) Mátthêu chương 18: Bài Giảng về Cộng Đoàn mô ta cách thức các
Kitô hữu nên sống cùng nhau theo một cách mà cộng đoàn trở thành một sự mặc khải
của Nước Trời. (v) Mátthêu các chương 24
và 25: Bài Giảng về Thời Cánh Chung mô tả
tương lai của Nước Thiên Chúa sắp đến.
Nhờ vào dụng cụ văn học này, Mátthêu bắt chước năm cuốn sách của Ngũ
Kinh, và do đó trình bày Tin Mừng Nước Trời như là Lề Luật Mới của Thiên Chúa.
Trong Bài Giảng về Sứ Vụ Truyền Giáo (Mt
10:1-42), Tác Giả Tin Mừng đã kết hợp các câu nói và lời khuyên của Chúa Giêsu
làm sáng tỏ tình hình khó khăn của các Kitô hữu gốc Do Thái vào hậu bán thế kỷ
thứ nhất. Ông muốn khuyến khích họ đừng
làm mất lòng tin mặc dù có nhiều khó khăn và nghiêm trọng mà họ phải đối mặt
khi công bố Tin Mừng cho anh chị em cùng gốc Do Thái của họ. Thực ra tại thời điểm này, vào những năm của
thập niên 80, người Do Thái đang dần phục hồi sau thảm họa của việc phá hủy Đền
Thờ Giêrusalem xảy ra vào thập niên 70, và đang bắt đầu quy tụ lại trong các
vùng ở miền Syria và Galilêa. Mối căng thẳng
giữa “Hội Đường” và “Giáo Hội” đang gia tăng.
Mối căng thẳng này, nguồn đau khổ khôn nguôi và của bách hại, tạo nên bối
cảnh cho Bài Giảng về Sứ Vụ và, do đó, cho bài Tin Mừng của Chúa Nhật thứ 13
Thường Niên.
b) Lời bình giải về bản văn:
Mt
10:37: Tình yêu dành cho Chúa Giêsu thì
phải trọng hơn tình yêu dành cho cha mẹ và con cái
Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Kẻ
nào yêu mến cha mẹ hơn Thầy, thì chẳng xứng đáng với Thầy; và kẻ nào yêu mến
con trai, con gái hơn Thầy, thì không xứng đáng với Thầy.” Chúng thấy cùng một lời nói trong sách Tin Mừng
Luca thậm chí còn viết mạnh mẽ hơn: “Ai đến với Ta mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ
con, anh chị em, và cả mạng sống mình nữa thì không thể nào làm môn đệ Ta được”
(Lc 14:26). Vậy thì có phải là Chúa
Giêsu muốn phân ly đời sống gia đình không?
Điều này không thể xảy ra, bởi vì ở nơi khác, Người nhấn mạnh đến việc
tuân giữ giới răn thứ tư là buộc chúng ta phải yêu mến cha mẹ (Mc 7:8-13;
10:17-19). Chính Người cũng đã vâng phục
cha mẹ mình (Lc 2:51). Những câu nói này
dường như mâu thuẫn nhau. Có một điều chắc
chắn là: Chúa Giêsu không mâu thuẫn với
chính mình. Chúng ta sẽ giải thích để chứng
tỏ hai câu nói đều đúng và không loại trừ lẫn nhau.
Mt
10:38: Thập giá là một phần của việc đi
theo Chúa Giêsu
Chúa Giêsu nói rằng: “Kẻ nào không vác
thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng đáng với Thầy.” Trong Tin Mừng của Máccô, Chúa Giêsu nói: “Ai
muốn theo Ta, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo!” (Mc
8:34). Vào thời đó, thập giá là án tử
hình do Đế Chế La Mã áp đặt đối với những kẻ trộm cắp và kẻ bị gạt ra bên lề xã
hội. Vác thập giá mình và theo Chúa
Giêsu thì tương đương với việc chấp nhận bị gạt ra ngoài lề bởi xã hội bất công
của Đế Chế. Thập giá của Chúa Giêsu là kết
quả của sự tự nguyện cam kết đi loan báo Tin Mừng rằng Thiên Chúa là Cha và vì
thế, tất cả mọi người đều được chấp nhận và đối xử với nhau như anh chị
em. Bởi vì lời tuyên bố cách mạng này,
Chúa Giêsu đã bị kết án và đã không ngần ngại từ bỏ mạng sống mình. Không ai có tình yêu tuyệt vời hơn tình yêu
này, là người ấy đã thí mạng sống mình vì bạn hữu.
Mt
10:39: Biết cách đánh mất mạng sống mình
để giữ được nó
Cách nói này khá là phổ biến trong những
Kitô hữu tiên khởi bởi vì nó diễn tả điều họ đang phải trải qua. Ví dụ, đối với thánh Phaolô, trung thành với
Đức Giêsu và có được sự sống, ông đã phải mất hết tất mọi thứ mình có, sự nghiệp,
sự kính trọng của người dân, và chịu sự bách hại. Điều tương tự cũng đã xảy ra với nhiều Kitô hữu. Các Kitô hữu đã bị bách hại chỉ vì là Kitô hữu. Thánh Phaolô nói rằng: “Tôi bị đóng đinh trên
thập giá với Đấng Kitô.” “Tôi mong ước
được trải nghiệm thập giá và cái chết của Người, để tôi cũng có thể trải nghiệm
sự sống lại của Người.” “Tôi bị đóng
đinh vào thế gian và thế gian vào tôi.”
Đây là điều nghịch lý của Tin Mừng:
Kẻ đến sau hết là kẻ đến trước, kẻ thua cuộc là kẻ chiến thắng, người
cho đi tất cả là người giữ lại tất cả, người chết đi thì lại sống. Người có can đảm đánh mất mạng sống mình thì
có được nó. Đây là một lý luận hoàn toàn
khác hẳn với hệ thống tân tự do đang thống trị thế giới ngày nay.
Mt
10:40-41: Chúa Giêsu xác nhận mình với
người đi rao giảng và người môn đệ
Đối với người đi rao giảng và người môn
đệ, điều rất quan trọng là biết rằng người ấy sẽ không bao giờ bị đơn côi. Nếu người ấy vẫn trung thành với sứ vụ của
mình, thì họ sẽ có điều chắc chắn là Chúa Giêsu sẽ đồng nhất với họ, và nhờ
Chúa Giêsu, Chúa Cha sẽ tỏ mình ra với những người đi truyền giáo và người môn
đệ đi công bố Tin Mừng. Và như thế, giống
như Chúa Giêsu đã phản ảnh khuôn mặt của Chúa Cha như thế nào, thì người môn đệ
cũng phải là tấm gương, nơi mà mọi người có thể thoáng nhìn thấy điều gì đó về
tình yêu thương của Chúa Giêsu.
Mt
10:42: Làm việc tầm thường nhất cho một
trong những kẻ bé mọn thì đã đáng được trả công
Để thay đổi thế gian và các mối quan hệ
giữa con người, các quyết định chính trị của những kẻ cầm quyền thì không đủ,
cũng chẳng phải là các nghị định của các Hội Đồng và của các giám mục. Điều cần thiết là một sự thay đổi trong đời sống
con người, trong các mối quan hệ giữa các cá nhân và cộng đoàn, nếu không thì sẽ
chẳng có gì thay đổi. Đó là lý do mà
Chúa Giêsu đặt trọng tâm đến những hành vi nhỏ nhặt của việc chia sẻ: một ly nước cho người nghèo!
c) Một cái nhìn sâu sắc hơn: yêu kính cha mẹ, ghét bỏ cha mẹ
Một
trong những điều mà Chúa Giêsu nhấn mạnh đến là dành cho những ai muốn đi theo
Người thì phải để lại cha mẹ, vợ con, anh chị em, nhà cửa, đất đai, để lại mọi
thứ vì tình yêu Ngài và Tin Mừng của Người (Lc 18:29; Mt 19:29; Mc 10:29). Thậm chí Người còn truyền cho chúng ta “dứt bỏ
cha mẹ, vợ con, anh chị em. Nếu không
thì không thể nào làm môn đệ Ta được” (xem Lc 14:28). Những lệnh truyền này không chỉ dành cho một
số người mà cho tất cả những ai muốn theo Người (Lc 14:25-26, 33). Chúng ta có thể hiểu được những câu nói này
như thế nào khi mà chúng dường như tháo bỏ và phá vỡ tất cả mọi liên hệ gia
đình? Chúng ta không thể mường tượng được
Chúa Giêsu đòi hỏi tất cả mọi người, nam cũng như nữ, tại miền Galilêa phải lìa
bỏ gia đình, đất đai, làng mạc, để đi theo Người. Trong thực tế, điều này đã không xảy ra ngoại
trừ một nhóm nhỏ môn đệ. Như vậy, ý
nghĩa của những lệnh truyền này là gì?
Nếu
chúng ta đặt lời yêu cầu phải lìa bỏ gia đình trong bối cảnh xã hội của thời ấy,
chúng ta có thể thấy một ý nghĩa khác, căn bản và thiết thực hơn. Cuộc xâm lăng của dân Paléstin vào năm 64 trước
Công Nguyên và sự áp đặt việc cống nạp bởi vua Hêrôđê (năm 35 đến năm 3 trước
Công Nguyên) và con ông ta là vua Hêrôđê Antipát (năm 3 trước Công Nguyên đến
năm 37 sau Công Nguyên), một chính sách ủng hộ chính quyền La Mã, đã mang lại sự
nghèo khó tăng dần và nạn thất nghiệp gia tăng.
Qua chính sách của vua Hêrôđê Đế Quốc La Mã hỗ trợ, tư tưởng Hy Lạp thâm
nhập vào đời sống hằng ngày, do đó mang theo với nó chủ nghĩa cá nhân đang phát
triển. Tất cả điều này đã khiến cho những
đại gia đình, gia tộc và cộng đồng tan rã.
Vì vậy tiểu gia đình đã bắt đầu cảm thấy bị ràng buộc tùy thuộc vào
chính mình và không thể thực hành việc giữ gìn lề luật. Ngoài ra, việc thực hành nghi thức thanh tấy
làm cho người ta khinh rẻ và loại trừ những người và các gia đình sống trong
môi trường ô uế theo luật lệ. Bối cảnh
kinh tế, xã hội, chính trị và tôn giáo đã khiến cho các gia đình sống vào chính
mình và làm suy yếu tình gia tộc. Sự bận
tâm với các vấn đề gia đình đã khiến cho người ta không đoàn kết trong cộng đồng
nữa. Nó ngăn trở gia tộc trong việc thực
hiện mục đích mà nó được tạo ra, đó là, đem đến sự bảo vệ thực sự và đầy đủ cho
gia đình và người ta, để giữ gìn bản sắc, bảo vệ đất đai, ngăn ngừa việc loại
trừ và chào đón những kẻ bị loại trừ và người nghèo khó, và do đó mặc khải
thánh nhan của Thiên Chúa. Giờ đây, vì
Nước Trời tự mặc khải lần nữa trong sự chia sẻ, cần phải phá vỡ vòng lẩn quẩn
quái ác. Người ta phải vượt qua những
thiếu sót nghiêm khắc của tiểu gia đình để mở lòng mình ra với đại gia đình và
với cộng đồng. Đây là bối cảnh tạo nên nền
tảng cho những lời được Chúa Giêsu công bố.
Chính
Chúa Giêsu cho một ví dụ. Khi gia đình của
Người đi tìm Người, Người đã phản ứng lại và nói rằng: “Ai là mẹ Ta? Ai là anh em Ta? Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy
là anh chị em Ta, là mẹ Ta” (Mc 3:33-35).
Người đã nới rộng vòng gia đình.
Người tạo dựng cộng đoàn. Những kẻ
mà Chúa lưu tâm và kêu gọi là người nghèo và kẻ bị loại trừ (Lc 4:18; Mt
11:25). Chúa đòi hỏi điều tương tự với
những người muốn đi theo Ngài. Những kẻ
loại trừ và bị gạt ra ngoài lề phải được đón nhận lại vào trong sự chia sẻ và
như thế cảm thấy được Thiên Chúa đón nhận (xem Lc 14:12-14). Đây là cách để đạt được cùng đích của Lề Luật
nói rằng: “Tuyệt nhiên giữa anh em sẽ không có người nghèo” (Đnl 15:4).
Chúa
Giêsu cố gắng thay đổi trình tự tan rã của gia tộc, của cộng đoàn. Giống như những tiên tri vĩ đại trong quá khứ,
Người tìm cách củng cố đời sống cộng đoàn trong các làng mạc miền Galilêa. Chúa nhen nhúm lại ý nghĩa sâu xa của gia tộc,
gia đình, của cộng đoàn như một biểu hiện của sự nhập thể tình yêu của Thiên
Chúa trong tình yêu người lân cận. Đó là
lý do mà Người đòi hỏi những ai muốn trở thành môn đệ Người phải lìa bỏ cha mẹ,
vợ con, anh chị em, nhà cửa, tất cả mọi sự!
Họ phải mất đi mạng sống của mình để có được nó! Chúa là Đấng bảo đảm cho điều này: “Thầy bảo
thật anh em: Chẳng hề có ai bỏ nhà cửa,
anh em, chị em, mẹ cha, con cái hay ruộng đất, vì Thầy và vì Tin Mừng, mà ngay
bây giờ, ở đời này, lại không nhận được nhà cửa, anh em, chị em, mẹ, con hay ruộng
đất, gấp trăm, cùng với sự ngược đãi, và sự sống vĩnh cửu ở đời sau” (Mc
10:29-30). Quả thật, những ai có can đảm
phá vỡ vòng khép của gia đình mình, sẽ tìm thấy lại, trong gia tộc, trong cộng
đoàn, gấp trăm lần những gì họ đã bỏ lại:
an hem, chị em, mẹ, con, ruộng đất!
Chúa Giêsu làm những điều mà mọi người đã trông đợi ở thời kỳ Thiên
Sai: dẫn dắt con tim của cha mẹ về lại với
con cái, và con tim của con cái về lại với cha mẹ, để xây dựng lại tình gia tộc,
phục hồi khuôn mẫu xã hội.
6.
Thánh Vịnh 19:7-14
Luật
pháp CHÚA quả là toàn thiện
Luật
pháp CHÚA quả là toàn thiện, bổ sức cho tâm hồn.
Thánh ý CHÚA thật là vững chắc, cho người
dại nên khôn.
Huấn lệnh CHÚA hoàn toàn ngay thẳng, làm
hoan hỷ cõi lòng.
Mệnh lệnh CHÚA xiết bao minh bạch, cho
đôi mắt rạng ngời.
Lòng kính sợ CHÚA xiết bao minh bạch,
cho đôi mắt rạng ngời.
Lòng kính sợ CHÚA luôn trong trắng, tồn
tại đến muôn đời.
Quyết định CHÚA phù hợp chân lý, hết thảy
đều công minh,
Thật quý báu hơn vàng, hơn vàng y muôn
lượng,
Ngọt ngào hơn mật ong, hơn mật ong
nguyên chất.
Nên
tôi tớ Ngài đây xin ra công học hỏi;
Ai giữ những điều này sẽ được nhiều lợi
ích.
Nhưng nào ai thấy rõ các lầm lỗi của
mình?
Xin Ngài tha các tội con phạm mà chẳng
hay.
Xin cũng giữ cho tôi tớ Ngài khỏi kiêu
ngạo,
Đừng để tính xấu này thống trị con.
Như thế con sẽ nên vẹn toàn
Không còn vương trọng tội.
Lạy
CHÚA là núi đá cho con trú ẩn,
Là Đấng cứu chuộc con, cúi xin Ngài vui
nhận
Bấy nhiêu lời miệng lưỡi thân thưa,
Và bao tiếng lòng con thầm thĩ
Mong được thấu đến Ngài.
7.
Lời nguyện kết
Lạy
Chúa Giêsu, chúng con xin cảm tạ Chúa vì những Lời của Chúa đã giúp chúng con
có thể hiểu cặn kẽ hơn Thánh ý của Chúa Cha.
Nguyện xin Chúa Thánh Thần soi sáng cho những việc chúng con đang làm và
ban cho chúng con sức mạnh để chúng con có thể thực thi Lời Chúa đã mặc khải
cho chúng con. Chúng con nguyện xin được
nên giống như Đức Maria, mẹ Người, không những chỉ lắng nghe mà còn thực hành Lời
Chúa. Chúa là Đấng hằng sống hằng trị
cùng với Đức Chúa Cha trong sự hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn
đời. Amen.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét