03/07/2017
Thứ Hai tuần 13 thường niên
Thánh TÔMA, TÔNG ĐỒ.
Lễ kính
*
Vào lúc Đức Giêsu chịu thương khó và phục sinh, khuôn mặt của thánh Tôma nổi
bật. Trong bữa ăn tối, đáp lại thắc mắc của Tôma, Đức Giêsu nói: “Chính Thầy là
con đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6). Khi nghe nói Đức Giêsu đã phục
sinh, vị tông đồ này không tin ngay. Mãi tới lúc Đức
Giêsu cho Tôma thấy tay và cạnh sườn bị đâm thủng,
Tôma mới tuyên xưng: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con” (Ga 20,28).
Theo truyền khẩu thì thánh nhân đã đi loan
báo Tin Mừng cho dân Ấn Độ. Từ thế kỷ 4, người ta mừng
ngày rước hài cốt của ngài về Ê-đét-xa, tức là ngày 3 tháng 7.
Bài Ðọc I: Ep 2, 19-22
"Anh em được xây dựng trên nền tảng các tông đồ".
Trích thư Thánh Phaolô
Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.
Anh em thân mến, anh
em không còn là khách trọ và khách qua đường nữa, nhưng là người đồng hương với
các Thánh và là người nhà của Thiên Chúa: anh em đã được xây dựng trên nền tảng
các Tông đồ và các Tiên tri, có chính Ðức Giêsu Kitô làm Ðá góc tường. Trong
Người, tất cả toà nhà được xây dựng cao lên thành đền thánh trong Chúa, trong
Người, cả anh em cũng được xây dựng làm một với nhau, để trở thành nơi Thiên
Chúa ngự trong Thánh Thần.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 116, 1. 2
Ðáp: Hãy đi rao giảng Tin Mừng khắp thế gian (Mc 16,
15).
Xướng: 1) Hỡi muôn
dân, hãy ngợi khen Chúa! Hỡi ngàn dân, hãy ca tụng Người. - Ðáp.
2) Vì lòng từ bi Người
vững bền trên chúng ta, và lòng trung kiên Người tồn tại đến muôn đời. - Ðáp.
Alleluia: Ga 20, 29
Alleluia, alleluia! -
Tôma, vì con đã xem thấy Thầy nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy
mà tin. - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 20, 24-29
"Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!"
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Gioan.
Bấy giờ trong Mười Hai
Tông đồ, có ông Tôma gọi là Ðiđy-mô, không ở cùng với các ông, khi Chúa Giêsu
hiện đến. Các môn đệ khác đã nói với ông rằng: "Chúng tôi đã xem thấy
Chúa". Nhưng ông đã nói với các ông kia rằng: "Nếu tôi không nhìn thấy
vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc
bàn tay vào cạnh sườn Người thì tôi không tin". Tám ngày sau, các môn đệ lại
họp nhau trong nhà, và có Tôma ở với các ông. Trong khi các cửa vẫn đóng kín,
Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa mà phán: "Bình an cho các con". Ðoạn
Người nói với Tôma: "Hãy xỏ ngón tay vào đây và hãy xem tay Thầy; hãy đưa
bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy tin".
Tôma thưa rằng: "Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!" Chúa Giêsu
nói với ông: "Tôma, vì con đã thấy Thầy nên con đã tin. Phúc cho những ai
đã không thấy mà tin".
Ðó là lời Chúa.
SUY NIỆM : Thánh Tôma
Tông Đồ
Khi nói đến ai đồng dạng
với “Tôma”, điều đó không có gì là nâng bi. Đó là thái độ bình thường của bất cứ
tín hữu nào, bất cứ Kitô hữu nào.
Tôma không tin các bạn
tông đồ, đúng thế; nhưng ông không do dự khi Thiên Chúa tỏ mình ra cho tin.
Không phải là lời chứng của các tông đồ làm chúng ta tin Đức Kitô Phục Sinh,
Con Thiên Chúa, và phúc cho chúng ta, chính Đức Kitô làm chúng ta tin.
Các sách Tin Mừng...
Chúng ta biết chắc rằng
các sách Tin Mừng không được Đức Giêsu viết ra. Chúng ta biết chắc rằng những
bài giảng của Đức Giêsu chỉ là những bản tóm tắt, sơ sài biết bao. Tuy nhiên,
khi Gioan, Luca, Matthêu hay Mác-cô viết rằng: “và Đức Giêsu nói....”, chúng ta
tin những lời các thánh sử Tin Mừng truyền lại cho chúng ta, những lời đó chúng
ta nghe chính miệng Đức Kitô.
Tôma...
Chính Ngài làm chứng
cho chúng ta về Đức Kitô Phục Sinh, nhưng cũng nói cho mỗi người chúng ta rằng,
chúng ta cũng có thể tin các thánh sử Tin Mừng, các Ngài là những chứng nhân
chính thức, còn chính Đức Kitô cho chúng ta đức tin nhờ các Ngài và nhờ Giáo Hội.
Khi Giáo Hội dạy, Giáo
Hội nói lời Chúa cho chúng ta. Giáo Hội chỉ là người mang tiếng nói của Ngôi Lời.
Chính Ngôi Lời nói, luôn luôn là thế. Các Giám Mục là người kế vị các tông đồ,
không phải là các nhà thần học. Nên chúng ta phải chú ý nghe các Ngài, thì
không nhất thiết phải luôn luôn nghe theo các Ngài. Đức tin không lay chuyển
nhưng khoa học thì liên tục tiến triển.
Tôma còn nhắc nhở
chúng ta chỉ có một tiếng nói chính thức và chúng ta cũng phải biết kính trọng
trí khôn chúng ta và đức tin chúng ta, đừng để bất cứ ai, bất cứ cái gì nhồi sọ
chúng ta, coi chừng nhiều tiên tri giả chung quanh chúng ta.
J.M
Lời Chúa Mỗi Ngày
Kính Thánh Tôma Tông Đồ.
Bài đọc: Eph
2:19-22; Jn 20:24-29.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phúc cho những
ai tuy không thấy mà tin!
Thánh Thomas Tông Đồ
thường được gọi là "Cha của những kẻ cứng lòng tin;" nhưng cũng nhờ
ngài mà chúng ta có thêm những lời dạy dỗ của Đức Kitô, và mở mắt cho chúng ta
thấy có nhiều cách thức khác để con người phải tin vào Thiên Chúa.
Các Bài Đọc hôm nay tập
trung trong những cách thức khác nhau một người có thể dùng để tin vào Thiên
Chúa. Trong Bài Đọc I, tác giả Thư Ephesô xác tín đức tin của chúng ta được xây
dựng trên Đá Tảng là Đức Kitô, và nền móng là niềm tin của các tông-đồ và các
tiên-tri. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu trách Thomas đã chỉ dựa vào kinh nghiệm
giác quan, mà không chịu tin vào lời Ngài đã loan báo trước Cuộc Khổ Nạn và lời
chứng của các tông-đồ.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Đức tin của chúng ta dựa trên niềm tin nền tảng của các
Tông-đồ.
1.1/ Vị thế của người
Kitô hữu trong gia đình Thiên Chúa: Tác giả
Thư Ephesô xác định: "Anh em không còn phải là người xa lạ hay người tạm
trú, nhưng là người đồng hương với các người thuộc dân thánh, và là người nhà của
Thiên Chúa." Một sự phân tích của 4 từ ngữ dùng trong câu này, cho chúng
ta hiểu ý của tác giả:
(1) Người xa lạ (xenos):
người ngoại kiều, không có một chút liên hệ nào với người bản xứ, cũng không được
bảo vệ bởi luật pháp bản xứ. Đó là tình trạng của Dân Ngoại, khi họ chưa biết Đức
Kitô.
(2) Người tạm trú (paroikos):
người ngoại kiều được phép trong một quốc gia, nhưng chỉ tạm thời trong một thời
gian. Họ chỉ được hưởng một số những quyền lợi của người bản xứ, và phải ra khỏi
xứ khi thời gian hết hạn.
(3) Người đồng hương (sumpolithi):
người cùng sinh ra trong một làng, một nước; có cùng chung niềm tin, thói quen,
truyền thống, và văn hóa. Những người này có thói quen lập Hội Ái Hữu để giúp đỡ
nhau khi phải di chuyển đi nơi xa hay nơi đất khách quê người. Ví dụ: Hội Ái Hữu
Thức Hóa, qui tụ những đồng hương của làng Thức Hóa, Bùi Chu, Bắc Việt Nam. Tác
giả Thư Ephesô gọi các tín hữu là những "đồng hương với các người thuộc
dân thánh," vì họ có cùng niềm tin nơi Đức Kitô, và cùng được kêu gọi để
trở nên thánh thiện.
(4) Người nhà (onkeios):
người có liên hệ ruột thịt hay hoàn cảnh đặc biệt, liên kết thành một nhóm rất
thân mật, sống chung trong một mái nhà. Những người này được gọi là những thành
viên của một nhà. Họ được chung hưởng mọi quyền lợi và có bổn phận bảo vệ nhà
mình. Tác giả gọi các tín hữu là những "người nhà của Thiên Chúa;" vì
họ cùng được hưởng ơn cứu độ Thiên Chúa đã dọn sẵn. Họ cùng chung bổn phận làm
sao cho mọi người trong nhà đạt được ơn cứu độ.
1.2/ Tòa nhà của Thiên
Chúa: được nhân cách hóa để chỉ vị thế và bổn
phận của mỗi thành phần của Dân Chúa. Một tòa nhà gồm những phần sau đây:
(1) Đá Tảng góc tường
(avkrogwniaios): là chính Đức Giêsu Kitô. Đá Tảng là viên đá góc, viên
đá quan trọng nhất nối hai bức tường của tòa nhà và sàn nhà với nhau, trong kiến
trúc xây nhà của người Do-thái. Nhiều người cho hai bức tường này tượng trưng một
cho Do-thái và một cho Dân Ngoại. Đức Kitô hay niềm tin vào Đức Kitô là Đá Tảng
cho tòa nhà này. Nếu không được xây dựng trên Đá Tảng là Đức Kitô, tòa nhà của
Thiên Chúa sẽ không thành hình được.
(2) Nền móng (themelios):
là các Tông Đồ và ngôn sứ. Cấu trúc quan trọng thứ hai của tòa nhà là nền móng,
trên đó tòa nhà được xây dựng lên. Chúa Giêsu đã từng cho chúng ta một ví dụ về
việc xây nhà trên đá thay vì trên cát. Các ngôn sứ và các tông-đồ được ví như nền
móng của tòa nhà Thiên Chúa, vì đức tin của họ vào Thiên Chúa. Nhờ những cố gắng
rao giảng và máu của họ đổ ra, mà đức tin được lan tràn ra cho mọi người.
(3) Các phần khác: là
toàn thể các tín hữu. Có thể ví mỗi tín hữu như một viên gạch được xây trong
tòa nhà của Thiên Chúa; tuy nhỏ bé, nhưng cần thiết để hoàn thành. Trong Đức
Kitô, "toàn thể công trình xây dựng ăn khớp với nhau và vươn lên thành
ngôi đền thánh trong Chúa. Trong Người, cả anh em nữa, cũng được xây dựng cùng
với những người khác thành ngôi nhà Thiên Chúa ngự, nhờ Thần Khí."
2/ Phúc Âm: Phúc thay những người không thấy mà tin!
2.1/ Đức tin dựa trên
kinh nghiệm: Có những người chỉ tin khi mắt
thấy, tai nghe, và tay sờ mó được. Thomas là một trong những người này. Vì ông
không có mặt khi Chúa Giêsu hiện ra với các tông-đồ lần thứ nhất, nên họ nói với
ông: "Chúng tôi đã được thấy Chúa!" Ông Thomas đáp: "Nếu tôi
không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không
đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin."
2.2/ Đức tin dựa trên các
điều khác: Ngoài đức tin dựa trên kinh nghiệm
giác quan như Thomas đòi hỏi, chúng ta còn ít nhất 3 cách khác để tin một điều
là sự thật:
(1) Thế giá của người
nói: Đây là cách mà chúng ta vẫn áp dụng hằng ngày: con cái tin cha mẹ, học
sinh tin thầy cô, nhân viên tin chủ mình ... Chúng ta tin vì chúng ta nghĩ những
người này không thể đánh lừa chúng ta. Tòa án các cấp cũng thường áp dụng điều
này khi đòi phải có hai hoặc ba nhân chứng để xác định một điều xảy ra là sự thật.
Chúa Giêsu trách Thomas cứng lòng tin, vì đã không tin lời của 10 nhân chứng là
các tông-đồ.
(2) Hậu quả xảy ra:
Nguyên lý nhân quả là nguyên lý mà chúng ta vẫn thường dùng trong cuộc sống hằng
ngày. Ví dụ, khi chúng ta thấy khói bốc lên, chúng ta biết ngay có lửa đang
cháy. Tuy chúng ta không thấy điện chạy, nhưng chúng ta không dám rờ vào ổ điện,
vì chúng ta sợ điện giật. Cũng vậy, tuy chúng ta không thấy Thiên Chúa; nhưng
nhìn mọi sự vật do tay Chúa sáng tạo, chúng ta tin có Thiên Chúa.
(3) Ghi chép lịch sử:
Khi học lịch sử, chúng ta tin những người ghi chép lại những biến cố lịch sử đã
xảy ra. Nếu có nghi ngờ, chúng ta có thể đối chiếu các nguồn lịch sử khác nhau,
và dùng trí phán đoán để xác định sự trung thực của các biến cố. Khi đọc Kinh
Thánh, chúng ta cũng dựa trên lịch sử để xác định sự trung thực của các biến cố
xảy ra. Chẳng hạn, chúng ta thường gặp những câu trong Tân Ước như: "để ứng
nghiệm lời Kinh Thánh đã nói," hay "để làm tròn lời Kinh Thánh đã
chép" ...
2.3/ Ông Thomas tuyên
xưng đức tin: Tám ngày sau, các môn đệ Đức
Giêsu lại có mặt trong nhà, có cả ông Thomas ở đó với các ông. Các cửa đều đóng
kín. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: "Bình an cho anh em." Rồi
Người bảo ông Thomas: "Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa
tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin." Ông
Thomas thưa Người: "Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!" Đức
Giêsu bảo: "Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy
mà tin!" Đức tin dựa trên kinh nghiệm là cách thấp nhất để một người tin,
Chúa Giêsu khiển trách Thomas vì đã không chịu dùng các cách khác nữa. Thánh
Thomas, tuy cứng lòng tin; nhưng một khi đã xác tín niềm tin vào Đức Kitô, ông
không bao giờ lui gót nữa. Ông không chỉ tuyên xưng Đức Kitô là Thầy, mà còn là
Thiên Chúa của ông.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta là những
viên đá sống động trong Đền Thờ của Thiên Chúa. Bổn phận của chúng ta là lo sao
cho Đền Thờ này luôn sống động và tăng trưởng mỗi ngày.
- Đức tin của chúng ta
không chỉ dựa trên kinh nghiệm của giác quan; nhưng còn dựa trên Kinh Thánh, lịch
sử, hậu quả, và những lời làm chứng của bao nhiêu chứng nhân trong lịch sử.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
Th.
Tô-ma, tông
đồ
Ga 20,24-29
THẤY
BẰNG TRÁI TIM
“Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay
những người không thấy mà tin.” (Ga
20,29)
Suy
niệm: Con Chồn trong
truyện Hoàng Tử Bé của nhà văn St. Exupéry nói rằng với đôi mắt trần, người ta
chỉ nhìn thấy những điều bình thường; còn trong những gì hệ trọng, người ta
phải nhìn bằng đôi mắt của con tim. Gio-an chỉ thấy ngôi mộ trống, băng vải
liệm và khăn che đầu xếp riêng gọn ghẽ, nhưng bằng đôi mắt của trái tim ông đã
tin Thầy mình phục sinh. Đức Giê-su phục sinh quảng đại đáp ứng đòi hỏi của
Tô-ma; đồng thời Ngài cũng nhắc nhở ông và chúng ta rằng từ nay không thấy Chúa
bằng đôi mắt thường, nhưng bằng đôi mắt đức tin và bằng tình yêu mến. Nói cách
khác, với người Ki-tô hữu, vì tin nên thấy Chúa, thấy Ngài do yêu Ngài. Vì tin
nên ta thấy Chúa Giê-su hiện diện trong Thánh Thể, nơi người anh em.
Mời Bạn: “Tin Chúa, không phải
là hướng mắt về Ngài để chiêm ngưỡng, nhưng đồng thời cũng là nhìn trần gian
với ánh mắt của Đức Ki-tô” (M. Quoist). Người đời nhìn đời sống trong
nền kinh tế thị trường theo nhãn quan hưởng thụ, chiếm hữu; người Ki-tô hữu
nhìn với ánh mắt Đức Ki-tô: chia sẻ, thông hiệp.
Chia sẻ: Bạn đang nhìn đời sống hôm nay theo
cái nhìn của ai? Của Đức Ki-tô hay của người đời?
Sống Lời Chúa: Vì tin Lời Chúa dạy,
tôi tập nhận ra Đức Ki-tô đang hiện diện sống động nơi người chung quanh, nhất
là với người tôi không ưa thích.
Cầu
nguyện: Lạy Chúa Giê-su,
Chúa chúc phúc cho chúng con khi không thấy nhưng vẫn tin. Xin cho chúng con vì
tin Chúa, chúng con cũng nhận ra Chúa trong Thánh Thể, nơi Lời Chúa, trong
người anh em lân cận. Amen.
(5 phút Lời Chúa)
Đừng cứng lòng nữa (3.7.2017 – Thứ hai: Thánh Tôma, Tông đồ)
Trong tập thể chúng ta đang sống, vẫn có những Tôma: hoài nghi, bướng bỉnh, đòi hỏi, xa cách với cộng đoàn... Thầy Giêsu dạy chúng ta bao dung và nhẫn nại, chứ không kết án.
Suy niệm:
Chẳng rõ vì lý do gì mà
ông Tôma đã không ở với nhóm môn đệ
khi Đức Giêsu phục sinh
hiện ra gặp các ông.
Có vẻ có một sự xa cách
nào đó giữa Tôma và mười ông kia.
Chuyện này trở nên rõ hơn
khi ông Tôma từ chối tin vào lời của họ:
“Chúng tôi đã thấy Chúa!” (c. 25).
Ông đòi tự mình kiểm
chứng, thấy tận mắt, sờ tận tay.
Thấy dấu đinh nơi bàn tay
Thầy, xỏ ngón tay mình vào lỗ đinh,
thọc bàn tay vào cạnh
sườn Thầy: đó là những điều kiện ông đòi để tin.
Tôma không đứng dưới chân
thập giá như người môn đệ Chúa yêu,
nhưng ông đã được nghe
chuyện Thầy bị đóng đinh, bị đâm nơi cạnh sườn.
Đối với ông, nếu Thầy
thực sự phục sinh,
thì thân xác Thầy vẫn còn
phải mang những vết thương đó.
Phục sinh không làm mất
đi những vết sẹo của tình yêu cứu độ.
Đấng phục sinh lại có ý
chiều ông, đó mới là chuyện lạ.
Ngài biết óc thực tiễn
của ông, và Ngài không muốn mất ông (Ga 17, 12).
Ngài dám thỏa mãn những
đòi hỏi táo bạo và cụ thể của ông,
để đưa ông về với đức
tin, về với cộng đoàn.
Một tuần sau, cũng vào
ngày thứ nhất trong tuần,
Đức Giêsu phục sinh đến
như thể cho một mình ông thôi,
và mời ông làm những điều
ông đòi hỏi.
Chẳng rõ Tôma có dám thực
hiện hay không,
nhưng chính thái độ bao
dung và yêu thương của Thầy đã chinh phục ông.
Môi ông bật lên lời tuyên
xưng đức tin cao nhất trong Tân Ước:
“Lạy Chúa của tôi; lạy
Thiên Chúa của tôi” (c.28).
Lời tuyên xưng này vượt
quá những gì giác quan ông có thể cảm nhận.
“Vì đã thấy Thầy, nên anh
tin. Phúc thay những ai không thấy mà tin!”
Chúng ta ngày nay tuy
không được hưởng kinh nghiệm như thánh Tôma,
nhưng chúng ta lại được
hưởng một mối phúc mà ngài không có được.
Đó là mối phúc của người
tin, không phải nhờ thấy tận mắt,
mà nhờ nghe lời chứng của
các môn đệ (Ga 17, 20), trong đó có Tôma.
Xin cám ơn sự cứng lòng
của thánh Tôma, cám ơn lời chứng của ngài.
Chính sự cứng cỏi của
ngài làm chúng ta mềm mại hơn để tin,
vì chúng ta biết chuyện Chúa
phục sinh không do một ảo giác tập thể.
Tôma là một người hoàn
toàn tỉnh táo.
Trong tập thể chúng ta
đang sống, vẫn có những Tôma:
hoài nghi, bướng bỉnh,
đòi hỏi, xa cách với cộng đoàn...
Thầy Giêsu dạy chúng ta
bao dung và nhẫn nại, chứ không kết án.
Quanh chúng ta vẫn có
nhiều người chưa biết Chúa,
họ cũng đòi thấy và đụng
chạm đến Thiên Chúa.
Kitô hữu chúng ta phải có
kinh nghiệm sâu xa như các tông đồ xưa,
để làm chứng được rằng:
“Chúng tôi đã thấy Chúa” (c. 25).
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu phục sinh
lúc chúng con tìm kiếm Ngài trong nước mắt,
xin hãy gọi tên chúng con
như Chúa đã gọi tên
chị Maria đứng khóc lóc bên mộ.
Lúc chúng con chán nản và bỏ cuộc,
xin hãy đi với chúng con trên dặm đường dài
như Chúa đã đi với hai môn đệ Emmau.
Lúc chúng con đóng cửa vì sợ hãi,
xin hãy đến và đứng giữa chúng con
như Chúa đã đến đem bình an cho các môn đệ.
Lúc chúng con cố chấp và xa cách anh em,
xin hãy kiên nhẫn và khoan dung với chúng con
như Chúa đã không bỏ rơi ông Tôma cứng cỏi.
Lúc chúng con vất vả suốt đêm
mà không được gì,
xin hãy dọn bữa sáng cho chúng con ăn,
như Chúa đã nướng bánh và cá cho bảy môn đệ.
Lạy Chúa Giêsu phục sinh,
xin tỏ mình ra
cho chúng con thấy Ngài mỗi ngày,
để chúng con tin là Ngài đang sống, đang đến,
và đang ở thật gần bên chúng con. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
3 THÁNG BẢY
Nguồn Thiện Hảo Bất
Tận Của Thiên Chúa
Vị Thiên Chúa hằng săn
sóc chúng ta ấy là ai vậy? Sách Gióp mô tả Ngài là Đức Chúa của mọi tạo vật:
“Hãy xem: Thiên Chúa cao cả khi bày tỏ quyền năng, tôn sư nào sánh được với
Ngài? … Các giọt nước mưa, Ngài gom góp lại, rồi đem nghiền nát thành sương mù.
Các tầng mây đổ mưa xuống trên phàm nhân hết thảy… Quả thật, Ngài dùng nước mà
nuôi dưỡng chư dân – cho họ có lương thực dồi dào” (G 36,22.27-28.31).
“Ngài dùng hơi nước tạo
thành mây, và từ mây, Ngài làm cho chớp lóe. Mây lang thang xoay đủ mọi chiều,
theo đúng chương trình Ngài hoạch định, để trên toàn cõi đất chúng thực thi mọi
lệnh Ngài truyền” (G 37,11-12).
Sách Huấn Ca âm vọng lại
những lời của Sách Gióp – và nói về Thiên Chúa của tạo vật: “Ngài ra lệnh truyền,
tuyết liền sa xuống. Ngài phóng những tia chớp làm phán quyết của Ngài” (Hc
43,13). Tác giả Thánh Vịnh cũng tán dương “sức mạnh đáng sợ của Ngài”, “sự tốt
lành vô lượng của Ngài”, “uy phong rạng rỡ của Ngài”, Ngài là “Đấng thành tín
và đầy yêu thương trong mọi việc Ngài làm”. Tác giả Thánh Vịnh thốt lên: “Lạy
Chúa, muôn loài ngước mắt trông lên Chúa, và chính Ngài đúng bữa cho ăn. Khi
Ngài rộng mở tay ban, là bao sinh vật muôn vàn thỏa thuê. (Tv 145,6-7.15-16).
Hơn thế nữa, tác giả
Thánh Vịnh nhắc đến tình yêu và sự quan tâm của Thiên Chúa dành cho tất cả những
gì mà Ngài đã dựng nên: “Ngài khiến mọc cỏ xanh nuôi sống đàn gia súc, làm tốt
tươi thảo mộc cho người thế hưởng dùng. Từ ruộng đất họ kiếm ra cơm bánh, chế
rượu ngon cho phấn khởi lòng người, xức dầu thơm cho gương mặt sáng tuơi, nhờ
cơm bánh mà no lòng chắc dạ” (Tv 104,14-15).
- suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 03-7
Thánh Tôma Tông Đồ
Ep 2, 19-22; Ga 20,
24-29.
Lời suy niệm: “Đức Giêsu đến,
đứng giữa các ông và nói: Bình an cho anh em. Rồi Người bảo ông Tôma: Đặt ngón
tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng
cứng lòng nữa, nhưng hãy tin. Ông Tôma thưa: Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của
con!”
Tôma một Tông đồ không
thiếu sự can đảm, nhưng nơi ông vẫn có một cái gì đó bi quan, khi Chúa Giêsu muốn
đi đến Bêtania đánh thức Ladarô. Tôma nói: “Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đi để
cùng chết với Thầy.” (Ga 11,16). Với tính bi quan sẵn có nơi Tôma, nên khi các
Tông Đồ kể lại chuyện Chúa Giêsu đã phục sinh, ông đã không tin. Nhưng đối với
Chúa Giêsu, Người không muốn mất một ai, nên tám ngày sau Chúa Giêsu Phục Sinh
lại đến với lời quở trách đầy yêu thương đối với Tôma. Với điều này đã làm Tôma
sám hối và đã tuyên xưng Người là Chúa của ông và là Thiên Chúa của ông.
Lay Chúa Giêsu. Chúng
con đang hưởng lời chúc phúc của Chúa; qua sự cứng lòng của Tôma: “Phúc
thay ai không thấy mà tin.” Xin ban thêm đức tin cho chúng con, để chúng con
luôn nhạn ra Chúa và trung thành với Chúa cho đến trọn đời.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 03-07: THÁNH
TÔMA TÔNG ĐỒ
(Thế kỷ I)
Tôma là người Do thái,
miền Galilê, sống nghề chài lưới, Chúa Giêsu đã chọn Ngài vào số mười hai tông
đồ, và Ngài đã từ bỏ mọi sự để chỉ còn thuộc về thầy chí thánh mà thôi. Tôma tỏ
ra đơn sơ, nhiệt thành và tận tụy. Khi Lazarô chết các tông đồ run sợ vì thấy
Chúa Giêsu về Giêrusalem, nơi các tông đồ biết rõ là bọn biệt phái đang tìm
cách giết Người.
Các tông đồ ngăn cản:
- Thưa Thầy, vừa đây người Do thái tìm cách ném đá Thầy mà Thầy lại qua đó nữa
sao ?
Nhưng Tôma trung tín
và có phần bi quan. Ông góp ý: - Cả chúng ta nữa, hãy đi qua để chết với Ngài
(Ga 11, 8-16)
Trong cuộc đàm thoại
trước khi Chúa chịu tử nạn, Chúa Giêsu tìm cách an ủi các tông đồ. Ngài nói: -
Lòng các con xao xuyến... Ta đi dọn chỗ cho các con, và Ta đi đâu, các con biết
đường rồi.
Tôma thưa lại với nhiệt
tình muốn theo Chúa: - Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao mà
biết đường ?
Và Chúa Giêsu đã trả lời
ông: - Đường, sự thật và sự sống chính là Ta (Ga 14,1-6)
Rồi biến cố khổ nạn xảy
ra. Đoàn ngũ tông đồ tan tác. Tội nghiệp Tôma: ông đã không cùng "chết với
Ngài" (!). Trái lại, khi Chúa Giêsu sống lại và hiện ra với các bạn khác,
có lẽ Tôma còn đang ôm đầu than khóc cho nỗi cay đắng.
Nghe các bạn nhiệt
thành làm chứng rằng: Chúa đã sống lại, sự cứng tin được biểu lộ bằng sự bực bội:
- Nếu nơi tay Người, tôi không thấy các dấu đinh, và tay tôi tra vào lỗ đinh,
cùng tra bàn tay tôi vào cạnh sườn Người tôi không tin.
Tiếp sau là một tuần
buồn thảm. Đơn độc đối với Tôma trong khi các bạn ông hạnh phúc. Chỉ có một
mình Chúa Giêsu có thể thuyết phục nổi Tôma thôi. Tám ngày sau lần hiện ra trước,
Chúa Giêsu lại đến, lần này có Tôma. Chúa Giêsu thân ái nói với ông: - Hãy đem
ngón tay ngươi đặt đây, này tay Ta, hãy đem tay ngươi tra vào cạnh sườn Ta và đừng
ở như người cứng tin, mà là như người thành tín.
Không cần gì nữa,
không còn nghi ngờ được, Tôma lớn tiếng tuyên xưng: - Lạy Chúa tôi và là Thiên
Chúa của tôi.
Chúa Giêsu trả lời
ông: - Bởi thấy ta ngươi đã tin. Phúc cho những ai không thấy mà tin (Ga
2,24-29).
Đây là lời khích lệ
dành cho những người biết đón nhận đức tin. Nhưng Chúa Giêsu đã không bao giờ bảo
người ta phải nhắm mắt lại. Thánh Grêgôtiô ghi nhận rằng: sự nghi ngờ của Tôma
giúp ích cho chúng ta hơn là đức tin của những người khác. Đức tin vượt trên lý
trí, nhưng lý trí dẫn tới đức tin.
Sau ngày lễ hiện xuống,
các tông đồ đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng. Theo Eusêbiô, thánh Tôma đi giảng đạo
ở Parthia. Theo một truyền thuyết khác, thánh nhân đã được gặp các đạo sĩ, đã
kính viếng Chúa Hài Đồng thuở trước, và rửa tội cho họ. Một truyền thống sớm sủa
và mạnh mẽ hơn cho rằng Ngài là vị tông đồ của dân An Độ.
(daminhvn.net)
03 Tháng Bảy
Vị Tiên Tri Cô Ðộc
Người Ấn Ðộ có kể lại
câu chuyện ngụ ngôn sau đây:
"Vì tội lỗi của
loài người, Thượng đế dọa sẽ trừng trị họ bằng một trận động đất. Ðất sẽ nứt nẻ
và nước sẽ rút hết vào trong lòng đất... Một thứ nước độc sẽ tràn ngập mặt đất.
Ai uống vào sẽ trở nên bất bình thường.
Một vị tiên tri nọ
đã không xem thường lời đe dọa của Thượng đế. Ông chuẩn bị đương đầu với biến cố
bằng cách từng ngày đem nước lên một ngọn núi cao. Số nước dự trữ đủ cho ông sống
đến ngày tàn của cuộc đời...
Ðộng đất đã xảy đến,
bao nhiêu sông nước trên mặt đất đều bốc hơi, một thứ nước khác được thay thế
vào.
Một tháng sau, vị
tiên tri trở lại đất bằng để xem những gì đang xảy ra cho loài người. Ðúng như
lời đe dọa của Thượng đế, mọi người sống trên mặt đất đều hóa ra điên dại.
Nhưng kỳ lạ thay, loài người không ý thức được tình trạng điên dại của mình.
Trái lại, ai cũng muốn ra đường để chế diễu vị tiên tri vì họ cho rằng ông mới
là người điên dại...
uồn tình, vị tiên
tri trở lại chốn núi cao của mình. Ông sung sướng vì nước dự trữ vẫn còn và ông
vẫn là người duy nhất còn có một tâm trí lành mạnh, bình thường...
Nhưng ngày qua
ngày, ông cảm thấy không chịu nổi sự cô đơn của mình. Ông khao khát được sống một
cách bình thường với những người đồng loại. Thế là một lần nữa, ông trở lại đồng
bằng. Và một lần nữa, ông lại bị dân chúng ruồng rẫy, vì họ cho rằng ông không
còn giống họ nữa.
Không còn chịu được
sự hắt hủi của những người đồng loại, vị tiên tri đã đổ hết số nước dự trữ của
mình và ông uống lấy nước mới của người đồng loại để cũng trở nên điên dại như
họ..."
Con đường dẫn đến chân
lý không phải là con đường rộng thênh thang. Người đi tìm chân lý thường là người
cô độc...
Hôm nay chúng ta kính
nhớ thánh tông đồ Toma. Ai cũng biết lời bất hủ của Toma khi tuyên bố về sự sống
lại của Chúa: Nếu tôi không xỏ tay tôi vào lỗ đinh và cạnh sườn Ngài, tôi không
tin... Theo phương pháp khoa học, nhiều người đã lấy câu nói của Toma làm châm
ngôn cho việc đi tìm chân lý. Nghĩa là, nếu tôikhông kiểm chứng được, nếu tôi
không sờ mó được, tôi không chấp nhận điều đó là đúng...
Thái độ đó chưa hẳn là
thái độ thực tiễn trong cuộc sống. Giá trị cao cả nhất trong cuộc sống: đó là sự
tin tưởng, tín nhiệm đối với người khác. Ðau yếu, chúng ta đi mua thuốc, chúng
ta buộc phải tin tưởng ở người bán thuốc. Lạc đường, chúng ta buộc phải tin tưởng
ở lòng thành thật của người chỉ lối...
Thái độ đó càng đúng
hơn trong lĩnh vực Ðức Tin... Chúng ta tin vào sự sống lại của Chúa Giêsu không
phải vì chúng ta đã thấy Người hiện ra, nhưng chỉ vì lời chứng của các tông đồ,
của các tiền nhân... Một thái độ như thế đòi hỏi rất nhiều phấn đấu của lý trí.
Lắm khi, chung ta chỉ là một thiểu số cô độc.
Chúng ta dễ dàng rơi
vào nỗi cô độc của những người đang đi tìm chân lý. Người Kitô thường phải đi
ngược dòng. Ðiều người đời cho là bất bình thường, có lẽ phải là cái bình thường
đối với người Kitô. Ðiều người đời cho là yếu nhược, có khi phải là sức mạnh của
người Kitô. Ðiều người đời cho là điên dại, có khi phải là lẽ khôn ngoan của
người Kitô.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét