Trang

Thứ Tư, 5 tháng 7, 2017

06-07-2017 : THỨ NĂM - TUẦN XIII THƯỜNG NIÊN

06/07/2017
Thứ năm đầu tháng, tuần 13 thường niên

Bài Ðọc I: (Năm I) St 22, 1-19
"Lễ hiến tế của Abraham Tổ phụ chúng ta".
Trích sách Sáng Thế.
Trong những ngày ấy, Chúa thử Abraham và nói với ông rằng: "Abraham, Abraham!" Ông đáp lại: "Dạ, con đây". Chúa nói: "Ngươi hãy đem Isaac, đứa con yêu dấu của ngươi, và đi đến đất Moria, ở đó ngươi sẽ dâng nó làm của lễ toàn thiêu trên núi Ta sẽ chỉ cho ngươi". Vì vậy ban đêm Abraham chỗi dậy, thắng lừa, dẫn theo hai đầy tớ và Isaac, con của ông; khi đã chặt củi dành để đốt của lễ toàn thiêu, ông đi đến nơi Chúa đã truyền dạy. Ðến ngày thứ ba, ngước mắt lên, ông thấy nơi còn xa xa; ông bảo các đầy tớ rằng: "Các ngươi và con lừa hãy đợi tại đây. Ta và con trẻ đi đến nơi kia, sau khi cử hành việc thờ phượng xong, chúng tôi sẽ trở lại đây với các ngươi". Ông lấy củi dành để đốt của lễ toàn thiêu mà đặt trên vai Isaac, con ông, còn ông thì cầm lửa và gươm. Khi cha con cùng đi trên đường, Isaac hỏi cha mình rằng: "Thưa cha". Ông Abraham trả lời: "Hỡi con, con muốn gì?" Isaac nói: "Củi và lửa có đây rồi, còn của lễ toàn thiêu ở đâu?" Ông Abraham đáp: "Hỡi con, Thiên Chúa sẽ dự liệu của lễ toàn thiêu". Vậy hai cha con tiếp tục cùng đi.
Khi hai người đến nơi Chúa đã chỉ, Abraham làm một bàn thờ và chất củi lên, rồi trói Isaac lại, đặt lên đống củi trên bàn thờ. Abraham giơ tay lấy dao để sát tế con mình. Bấy giờ thiên thần Chúa từ trời gọi ông rằng: "Abraham! Abraham!" Ông thưa lại: "Dạ, con đây". Người nói: "Ðừng giết con trẻ và đừng động đến nó, vì giờ đây, Ta biết ngươi kính sợ Chúa, đến nỗi không từ chối dâng đứa con duy nhất cho Ta". Abraham ngước mắt lên, thấy sau lưng mình có con cừu đực đang mắc sừng trong bụi cây, Abraham liền bắt nó và tế lễ thay cho con mình. Ông gọi tên nơi này là "Chúa trông thấy". Bởi vậy, mãi cho đến ngày nay, người ta quen nói rằng "Trên núi Chúa sẽ trông thấy".
Thiên thần Chúa gọi Abraham lần thứ hai và nói rằng: "Chúa phán: Ta thề rằng: vì ngươi đã làm điều đó, ngươi không từ chối dâng đứa con duy nhất của ngươi cho Ta, nên Ta chúc phúc cho ngươi, Ta cho ngươi sinh sản con cái đông đúc như sao trên trời, như cát bãi biển; miêu duệ ngươi sẽ chiếm cửa thành quân địch, và mọi dân tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc nơi miêu duệ ngươi, vì ngươi đã vâng lời Ta".
Ông Abraham trở về cùng các đầy tớ, và họ cùng nhau đi về Bersabê, và lập cư tại đó.
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 114, 1-2. 3-4. 5-6. 8-9
Ðáp: Tôi sẽ tiến đi trước Thiên nhan Chúa, trong miền đất của nhân sinh (c. 9).
Xướng: 1) Tôi mến yêu Chúa, vì Chúa đã nghe, đã nghe tiếng tôi cầu khẩn; vì Chúa đã lắng tai nghe lời tôi trong ngày tôi kêu cầu Chúa. - Ðáp.
2) Thừng chão tử thần đã quấn lấy tôi, và màng lưới âm phủ đã chụp trên người tôi; tôi đã rơi vào cảnh lo âu khốn khó. Và tôi đã kêu cầu danh Chúa: "Ôi lạy Chúa, xin cứu vớt mạng sống con". - Ðáp.
3) Chúa nhân từ và công minh, và Thiên Chúa của chúng tôi rất từ bi. Chúa gìn giữ những người chất phác, tôi đau khổ và Người đã cứu thoát tôi. - Ðáp.
3) Bởi Người đã cứu tôi khỏi tử thần, cho mắt tôi khỏi rơi lệ và chân tôi không quỵ ngã. Tôi sẽ tiến đi trước thiên nhan Chúa trong miền đất của nhân sinh. - Ðáp.

Alleluia: Ga 8, 12
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Ta là sự sáng thế gian, ai theo Ta, sẽ được ánh sáng ban sự sống". - Alleluia.

Phúc Âm: Mt 9, 1-8
"Họ tôn vinh Thiên Chúa đã ban cho loài người quyền năng như thế".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu xuống thuyền, vượt biển mà về thành của Người. Bấy giờ người ta đem đến cho Người một kẻ bất toại nằm trên giường. Thấy họ có lòng tin, Chúa Giêsu nói với người bất toại rằng: "Hỡi con, con hãy vững tin, tội con được tha rồi". Bấy giờ mấy luật sĩ nghĩ thầm rằng: "Ông này nói phạm thượng". Chúa Giêsu biết ý nghĩ của họ liền nói: "Tại sao các ngươi suy tưởng những sự xấu trong lòng? Bảo rằng "Tội con được tha rồi", hay nói "Hãy chỗi dậy mà đi", đàng nào dễ hơn? Nhưng (nói thế là) để các ngươi biết rằng trên đời này Con Người có quyền tha tội". Bấy giờ Người nói với người bất toại: "Con hãy chỗi dậy, vác giường mà về nhà con". Người ấy chỗi dậy và đi về nhà. Thấy vậy dân chúng sợ hãi và tôn vinh Thiên Chúa đã ban cho loài người quyền năng như thế.
Ðó là lời Chúa.


Suy Niệm: Sống Niềm Tin
Con người là con vật xã hội. Xã hội không dành riêng phần đất cho những người tự đóng kín vào mình. Vừa mở mắt chào đời, con người đã phải đón nhận sự nâng đỡ của người khác, rồi trong suốt cuộc đời, không ai có thể tự hào mình không cần nhờ vả đến ai. Sống là một luân lưu của những trao đổi và cảm thông. Tôi phải nhờ đến người khác và cũng có bổn phận để người khác nhờ đến tôi.
Ðời sống đức tin cũng không ra ngoài định luật ấy. Ơn cứu độ được gửi đến cho tất cả, chứ không cho riêng một ai, mỗi cá nhân đón nhận nhưng rồi phải san sẻ cho người khác. Sự thánh thiện hoặc tội lỗi của một người cũng có ảnh hưởng đến người khác. Chúa Giêsu đã lên án mạnh mẽ những ai làm cớ vấp phạm cho người khác xa lìa Thiên Chúa.
Tin Mừng hôm nay thuật lại một phép lạ xẩy ra nhờ ảnh hưởng của tập thể. Một người tê liệt được khiêng đến cho Chúa Giêsu. Phúc Âm Marcô và Luca cho thấy rõ hơn quang cảnh của phép lạ này: vì không có chỗ để chen vào, người ta leo lên gỡ mái nhà và thòng người tê liệt xuống trước mặt Chúa Giêsu. Tất cả sự việc diễn ra không kèm theo một câu nói hay một lời van xin nào, thế nhưng, hành vi của họ đã đủ diễn đạt tấm lòng của họ. Chúa Giêsu thấy lòng tin của họ, tức lòng tin của những người khiêng người tê liệt, Ngài đã chữa lành bệnh nhân.
Dấu lạ đòi hỏi lòng tin. Một khi lòng tin đã đáp ứng lời mời gọi của Thiên Chúa, thì con người sẽ dễ dàng gặp được dấu lạ và lòng tin có thể chuyển dấu lạ hay ơn lành sang cho người khác. Với đám đông đang vây quanh Chúa Giêsu để nghe Ngài giảng, thì việc đưa bệnh nhân đến gần Ngài quả là một cố gắng vượt mức. Nhìn vào cố gắng này, chắc chắn nhiều người sẽ đặt câu hỏi về Chúa Giêsu: Ngài là ai mà con người phải cố gắng tìm gặp đến thế? Ðặt câu hỏi tức là đã bắt đầu tiến đến gần Thiên Chúa.
Xin Chúa cho chúng ta biết sống niềm tin, dù cho có gặp nhiều cản trở, nhờ đó chúng ta sẽ nhận được ơn lành của Chúa, và củng cố niềm tin nơi nhiều người xung quanh.
Veritas Asia



Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Năm Tuần 13 TN1, Năm lẻ
Bài đọcGen 22:1-19; Mt 9:1-8.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Đức tin mang lại những điều tốt lành và có thể tha tội cho con người.
Trong lãnh vực đức tin, con người không thể nói họ chỉ tin những gì họ có thể hiểu được. Lý do đơn giản là có những mầu nhiệm của Thiên Chúa vượt quá tầm hiểu biết của con người; chẳng hạn các Mầu Nhiệm Chúa Ba Ngôi, Mình Máu Thánh Chúa, Thánh Giá, đau khổ ... Để hiểu những mầu nhiệm này, con người cần mặc khải của Thiên Chúa qua Đức Kitô.
Các Bài Đọc hôm nay dẫn chứng cho chúng ta thấy phải tin tưởng và vâng lời Thiên Chúa, mặc dù con người không luôn hiểu lý do tại sao. Trong Bài Đọc I, tác giả Sách Sáng Thế tường thuật đức tin sắt đá của Abraham vào Thiên Chúa, qua việc sẵn sàng sát tế người con duy nhất cho Ngài. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu chữa người bại liệt và tha thứ tội lỗi vì ông có niềm tin nơi Ngài. Chúa cũng kiên nhẫn mặc khải cho các kinh sư về quyền tha tội của Ngài.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thiên Chúa thử thách đức tin của Abraham.
1.1/ Đức tin sắt đá của Abraham vào Thiên Chúa: Có nhiều điều chúng ta học hỏi được từ câu truyện lịch sử này, hôm nay chúng ta chỉ chú ý đế hai điểm chính:
(1) Abraham không hỏi lý do tại sao Thiên Chúa muốn ông làm điều đó: Nhiều người trong chúng ta chắc chắn sẽ đặt câu hỏi tại sao Thiên Chúa muốn Abraham làm điều đó, vì nó hoàn toàn đi ngược lại với sự suy luận của loài người: Làm sao người cha có can đảm cầm dao giết con, nhất là đứa con thừa tự mà Thiên Chúa ban cho trong lúc tuổi già!
Abraham không thắc mắc, vì ông đặt trọn vẹn niềm tin nơi Thiên Chúa: Chúa bảo "Đi!" ông đi. Chúa bảo: "Hãy đem con của ngươi, đứa con một yêu dấu của ngươi là Isaac, hãy đi đến xứ Moriah mà dâng nó làm lễ toàn thiêu ở đấy, trên một ngọn núi Ta sẽ chỉ cho." Sáng hôm sau, ông Abraham dậy sớm, thắng lừa, đem theo hai đầy tớ và con ông là Isaac, ông bổ củi dùng để đốt lễ toàn thiêu, rồi lên đường đi tới nơi Thiên Chúa bảo. Abraham không cần hỏi vì ông quá tin tưởng vào Thiên Chúa; ông biết Thiên Chúa có mục đích khi Ngài truyền ông phải làm bất cứ điều gì. Khi chưa hiểu được lý do, Abraham dùng đức tin để bước đi.
(2) Tình phụ tử vẫn phải đặt sau tình yêu Thiên Chúa: Ba ngày trong cuộc hành trình là khoảng thời gian dài để Abraham có thể đổi ý, không làm theo lệnh truyền của Thiên Chúa, nhất là sau khi nghe câu truyện đối thoại giữa hai cha con:
- Isaac thưa với cha là ông Abraham: "Cha!"
- Ông Abraham đáp: "Cha đây con!"
- Cậu nói: "Có lửa, có củi đây, còn chiên để làm lễ toàn thiêu đâu?"
- Ông Abraham đáp: "Chiên làm lễ toàn thiêu, chính Thiên Chúa sẽ liệu, con ạ." Rồi cả hai cùng đi.
Tuy thế, tình yêu của Abraham dành cho Thiên Chúa mạnh hơn tình phụ tử của Abraham dành cho Isaac; nên khi tới nơi Thiên Chúa đã chỉ, ông Abraham dựng bàn thờ tại đó, xếp củi lên, trói Isaac con ông lại, và đặt lên bàn thờ, trên đống củi. Rồi ông Abraham đưa tay ra cầm lấy dao để sát tế con mình.
1.2/ Phần thưởng dành cho Abraham:
(1) Đức tin cần được tôi luyện trong thử thách: Nếu một người sẵn sàng sát tế người con một của mình để chứng tỏ niềm tin cho Thiên Chúa, chẳng cần gì phải thử thách người đó nữa. Thiên Chúa, Đấng thấu hiểu mọi bí ẩn trong con người, đã hiểu rõ đức tin của Abraham dành cho Ngài. Một khi Thiên Chúa đã nhìn thấy đức tin của ông, việc sát tế Isaac không còn cần thiết nữa; nên Thiên Chúa ra lệnh cho sứ thần đình chỉ việc sát tế Isaac: "Đừng giơ tay hại đứa trẻ, đừng làm gì nó! Bây giờ Ta biết ngươi là kẻ kính sợ Thiên Chúa: đối với Ta, con của ngươi, con một của ngươi, ngươi cũng chẳng tiếc!"
Chúng ta đã so sánh việc sát tế Isaac trên núi Moriah với việc sát tế Chúa Giêsu, Người Con Một của Thiên Chúa, trên đồi Golgotha, không xa Moriah bao nhiêu. Điểm khác biệt giữa hai biến cố là Isaac không chết; nhưng Chúa Giêsu đã đổ máu chết thực sự để chuộc tội cho con người. Lý do Chúa Giêsu phải chết là Thiên Chúa muốn chứng thực tình yêu Thiên Chúa dành cho con người. Con người cần bằng chứng vì con người không thể nhìn thấu tâm tư của Thiên Chúa.
(2) Thiên Chúa chúc lành cho giòng dõi Abraham: Sứ thần của Đức Chúa từ trời gọi ông Abraham một lần nữa và nói: "Đây là sấm ngôn của Đức Chúa, Ta lấy chính danh Ta mà thề: bởi vì ngươi đã làm điều đó, đã không tiếc con của ngươi, con một của ngươi, nên Ta sẽ thi ân giáng phúc cho ngươi, sẽ làm cho giòng dõi ngươi nên đông, nên nhiều như sao trên bầu trời, như cát ngoài bãi biển. Giòng dõi ngươi sẽ chiếm được thành trì của địch. Mọi dân tộc trên mặt đất sẽ cầu chúc cho nhau được phúc như dòng dõi ngươi, chính bởi vì ngươi đã vâng lời Ta."
Một người làm quan cả họ được nhờ. Vì hành động anh hùng và vâng lời của tổ-phụ Abraham, Thiên Chúa chúc lành ông và cho toàn giòng dõi của ông. Cũng như vì sự bất tuân của Adam, mà ông và toàn giòng dõi ông bị chúc dữ. Đức tin của một người không bao giờ chỉ giữ lại trong người đó, nhưng sẽ lan tràn và sinh lợi ích cho nhiều người.
2/ Phúc Âm: Chúa Giêsu có quyền tha tội và quyền chữa lành (Mk 2:1-12; Lk 5:17-26).
2.1/ Các kinh-sư chất vấn quyền tha tội của Chúa Giêsu: Người ta khiêng đến cho Chúa Giêsu một kẻ bại liệt nằm trên giường. Thấy họ có lòng tin như vậy, Đức Giêsu bảo người bại liệt: "Này con, cứ yên tâm, con đã được tha tội rồi!"
(1) Phản ứng của các kinh-sư: Có mấy kinh sư nghĩ bụng rằng: "Ông này nói phạm thượng!" Truyền thống Do-thái tin: Chỉ một mình Thiên Chúa có quyền tha tội.
(2) Phản ứng của Chúa Giêsu: Nhưng Đức Giêsu biết ý nghĩ của họ, liền nói: "Sao các ông lại nghĩ xấu trong bụng như vậy? Trong hai điều: một là bảo: "Con đã được tha tội rồi!" hai là bảo: "Đứng dậy mà đi!" điều nào dễ hơn?
Dĩ nhiên điều dễ làm hơn là bảo: "Con đã được tha tội rồi!" vì chẳng ai có thể xác quyết quyền này. Điều khó hơn là truyền cho bệnh nhân: "Đứng dậy mà đi!" vì ai ai cũng có thể chứng nhận người truyền có thể làm việc ấy hay không. Để chứng minh cho họ biết Ngài có cả hai quyền, Chúa Giêsu truyền cho người bại liệt: "Đứng dậy, vác giường đi về nhà!" Người bại liệt đứng dậy, đi về nhà.
2.2/ Quyền tha tội liên quan đến việc chữa lành:
(1) Chúa Giêsu có quyền tha tội: Bệnh tật là hậu quả của tội; nếu chữa lành bệnh tật là cũng lấy đi tội lỗi, nguyên nhân của bệnh. Chúa Giêsu dùng việc chữa lành để chứng minh Ngài có quyền tha tội.
(2) Chúa Giêsu là Thiên Chúa: Ngoài ra, như mấy kinh sư tin tưởng: Chỉ Thiên Chúa mới có quyền tha tội; mà Chúa Giêsu có quyền tha tội; cho nên Ngài phải là Thiên Chúa. Như thế, lời kết tội Chúa Giêsu của các kinh sư "Ông này nói phạm thượng!" là sai.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải vâng lời những gì Thiên Chúa truyền và sự quan phòng của Ngài, cho dù chúng ta không hiểu tại sao xảy ra như vậy. Ngài sẽ soi sáng hay mặc khải cho chúng ta hiểu sau.
- Để hiểu các mầu nhiệm của Thiên Chúa, chúng ta cần khiêm nhường nhận giời hạn hiểu biết của con người, và cầu xin sự soi sáng và hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP


06/07/17    TH NĂM ĐU THÁNG TUN 13 TN
Th. Ma-ri-a Gô-rét-ti, trinh nữ, tử đạo       Mt 9,1-8

ĐƯỢC THA THỨ VÀ ĐỨNG DẬY

“Vậy, để các ông biết: ở dưới đất này, Con Người có quyền tha tội – bấy giờ Đức Giê-su bảo người bại liệt: Hãy đứng dậy, vác giường mà về nhà đi.” (Mt 9,6)

Suy niệm: Bệnh tật là phần số gắn liền với kiếp người, con người có muốn lẩn trốn nó cũng không thoát được. Người Do thái thời Chúa Giê-su còn nhìn sâu hơn nữa, họ cho rằng, bệnh tật là hậu quả gắn liền với tội lỗi của con người. Chúa Giê-su đến, Đấng vô tội mang trong mình năng lực chữa lành: “Để các ông biết, ở dưới đất này, Con Người có quyền tha tội.” Ngài có quyền năng chữa lành cho người bại liệt đồng nghĩa với việc Ngài có quyền tha tội cho anh: “Hãy đứng dậy, vác giường mà về nhà đi.” Người Do Thái không khỏi cảm thấy chói tai về lời mà họ cho là phạm thượng đó, bởi vì chỉ có Thiên Chúa mới có quyền tha tội. Với dấu lạ chữa lành cho người bại liệt và lời khẳng định quyền tha tội, rõ ràng Chúa Giê-su có ý xác nhận Ngài là Thiên Chúa.

Mời Bạn: Thánh Phao-lô suy niệm về tội lỗi đã thốt lên rằng: “Tội lỗi gây nên sự chết” (Rm 5,12). Khi Đức Ki-tô chịu chết để đền bù tội lỗi, bạn đã được Thiên Chúa thứ tha và cho bạn năng lực chỗi dậy để sống cuộc sống mới. Bạn có thấy hạnh phúc khi được Chúa cứu thoát khỏi tội lỗi và ban cho bạn sự sống đời đời không? Mời bạn đến với Ngài để lãnh nhận hồng ân mà Ngài đã sắm sẵn đó để dành cho bạn.

Sống Lời Chúa: Quyết tâm chừa bỏ một tính hư tật xấu và đến lãnh nhận ơn tha thứ trong bí tích hoà giải.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, Chúa đã lập bí tích Thánh Tẩy để ban ơn cứu độ và bí tích Hòa giải để tha thứ tội chúng con. Chúng con xin tạ ơn và cố gắng sống xứng đáng với hồng ân được Chúa thương yêu và tha thứ. Amen.
(5 phút Lời Chúa)


Thy h có lòng tin (6.7.2017 – Th năm Tun 13 Thường niên)
Đc Giêsu có quyn gii phóng ta khi bnh tt và ti li. Ti li cũng làm ta bt toi, không đến được vi Thiên Chúa và tha nhân.


Suy nim:
Khiêng một người bất toại trên một cái giường là điều không dễ.
Chẳng biết có mấy người khiêng và khiêng bao xa?
Chẳng rõ tương quan giữa họ ra sao, có phải là bạn bè, họ hàng không?
Có điều chắc là anh bất toại không thể tự mình đến với Thầy Giêsu được.
Chân của anh có vấn đề, và thời ấy không có xe lăn như bây giờ.
Anh cần đến sự giúp đỡ của bạn bè quen biết.
Và đã có những người đáp lại vì tình thương đối với anh chịu tật nguyền.
Rồi đã có một cuộc hẹn, và sau đó cả nhóm lên đường.
Tình bạn làm cho đường đến nhà của Thầy Giêsu ở Caphácnaum gần hơn.
Nhưng vất vả, nhọc nhằn thì vẫn không tránh được.
Đưa người bất toại đến với Thầy Giêsu quả là một kỳ công,
vì trong Tin Mừng theo thánh Máccô, họ đã phải đưa người bệnh xuống
qua một lỗ thủng ở trên mái nhà, bởi lẽ không có đường nào khác! (Mc 2, 4).
Dù sao Thầy Giêsu cũng đã thấy lòng tin của họ (c. 2).
Lòng tin là cái bên trong, nhưng được lộ ra ngoài.
Cả người bất toại lẫn các người khiêng đều có chung một lòng tin.
Tin rằng đến với Thầy Giêsu là thế nào cũng được khỏi.
Họ nuôi một niềm hy vọng lớn: khi trở về không phải khiêng nhau nữa.
Anh bất toại có thể đi được bằng đôi chân của chính mình,
và đi ngang hàng với những người bạn khác.
Tin, yêu và hy vọng là những tâm tình có trong tim của nhóm bạn này.
Không có những điều đó thì cũng chẳng có phép lạ khỏi bệnh.
Ơn Thiên Chúa vẫn đến với con người ngang qua lòng tốt của con người.
Nhưng lạ thay Thầy Giêsu lại có vẻ không màng đến chuyện chữa bệnh.
Thầy nói với người bất toại: “Các tội của anh được tha thứ” (c. 2).
Ơn đầu tiên người bất toại nhận được là một ơn mà anh không xin,
ơn đó không phải nơi thân xác, nhưng nơi linh hồn.
Hẳn Thầy Giêsu không có ý nói rằng anh bị tật là vì đã phạm tội.
Nhưng Ngài muốn cho thấy uy quyền của lời Ngài nói.
Lời này có thể tha tội và lời này cũng có thể chữa lành.
Nếu các kinh sư nghĩ rằng Ngài đã nói phạm thượng (c. 3),
dám tiếm quyền tha tội dành cho một mình Thiên Chúa,
thì Ngài sẽ chứng tỏ cho họ thấy Ngài có quyền tha tội dưới đất.
Ngài bảo anh bất toại: “Đứng dậy, vác chõng mà đi về nhà” (c. 6).
Ngài đã không chọn điều dễ hơn (c. 5), điều khó kiểm chứng.
Anh bất toại đã đứng dậy và đi về nhà cùng với các bạn của anh.
Anh đã được hơn cả điều anh mong ước, đó là hồn an xác mạnh.
Đức Giêsu có quyền giải phóng ta khỏi bệnh tật và tội lỗi.
Tội lỗi cũng làm ta bất toại, không đến được với Thiên Chúa và tha nhân.
Nhưng Đức Giêsu đã muốn chia sẻ quyền này cho “loài người” (c. 8).
Môn đệ của Ngài vẫn làm thừa tác vụ chữa lành và tha tội cho đến tận thế.
Cầu nguyn:
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã giúp cho bao người què đi được trên đôi chân của mình.
Chúa đã làm cho người bất toại
nằm chờ đợi nhiều năm bên hồ nước
bất ngờ trỗi dậy, vác chõng và bước đi.
Chúa đã làm cho người bất toại
mà bạn bè vất vả đưa xuống từ lỗ hổng của mái nhà,
được khỏi bệnh, lòng bình an vì được tha thứ.
Chúa đã cho kẻ bại tay được đưa tay ra
và tay anh trở lại bình thường.
Bất toại trên thân xác thật là điều đáng sợ.
Nhưng đáng sợ hơn là thứ bất toại của tâm hồn.
Có thứ bất toại làm chúng con không đến được với người khác,
dù nhà họ ở kế bên nhà chúng con,
không đến được với Chúa, dù Chúa vẫn luôn chờ đợi.
Có thứ bất toại làm chúng con không thể đưa tay ra
để bắt tay người đối diện hay để chia sẻ một món quà.
Có thứ bất toại làm trái tim chúng con khô cứng,
hững hờ trước nỗi đau của người anh em.
Xin giúp chúng con ra khỏi
những thành kiến và mặc cảm, thù oán và ghen tương,
để chuyển động mềm mại hơn dưới sự tác động của Chúa.
Xin cũng giúp chúng con biết khiêm tốn
nhìn nhận sự bại liệt của mình,
và chấp nhận để người khác đưa mình đến gặp Chúa.

Lm Antôn Nguyn Cao Siêu, SJ


Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
6 THÁNG BẢY
Đâu Là Vai Trò Của Chúng Ta Trong Tư Cách Là Thụ Tạo?
Con người có một vai trò đặc biệt trong việc phát triển thế giới. Và đó vốn là vai trò của con người ngay từ thuở ban sơ. Vai trò đó cho thấy con người là gì trong tư cách là người con được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa và giống như Ngài. Theo Sách Sáng Thế, con người được dựng nên để “thống trị tạo vật” và để bắt mọi tạo vật “qui phục” mình (St 1,28).
Bằng cách tham dự vào quyền cai trị của Thiên Chúa trên thế giới, xét như là một chủ thể có lý trí và tự do song vẫn đồng thời là một tạo vật, một cách nào đó chính con người trở nên một “sự quan phòng”, theo cách diễn tả tuyệt vời của Thánh Tô-ma (Tổng Luận Thần Học I,22,2&4). Con người được mời gọi để bảo vệ và cai quản mọi tạo vật với một tình yêu và mối quan tâm mục tử. Cũng chính vì thế mà con người mang một trách nhiệm đặc biệt đối với Thiên Chúa và đối với tạo vật.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II


Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 06-7
Thánh Maria Gôretti, trinh nữ tử đạo
St 22, 1-19; Mt 9, 1-8.

Lời suy niệm: “Đức Giêsu bảo người bại liệt: Đứng dậy, vác giường đi về nhà! Người bại liệt đứng dậy, đi về nhà. Thấy vậy, dân chúng sợ hãi và tôn vinh Thiên Chúa đã ban cho loài người được quyền năng như thế.”
Trong câu chuyện Chúa Giêsu chữa lành người bại liêt nằm trên giường. Cho chúng ta thấy được tình yêu thương những người bạn dành cho người bại liệt;. thấy được đức tin họ, đặt trọn vào quyền năng yêu thương của Chúa Giêsu; đồng thời cũng là môi giới giữa người bại liệt với Chúa Giêsu, và cuối cùng người bại liệt được lành mạnh: “Đứng dậy đi về nhà”  làm cho mọi người tôn vinh Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu. Xin cho tất cả chúng con là những người bạn của những người đau khổ, những người chưa có đức tin, biết đem tất cả đến với Chúa để những người anh em này được hưởng ơn lành Chúa ban.
Mạnh Phương



Gương Thánh Nhân
Ngày 06-07: Thánh MARIA GORETTI
Đồng Trinh Tử Đạo (1890 - 1902)

Thánh Maria Goretti sinh ngày 16 tháng 10 năm 1890 tại Ancona. Cha mẹ Người là những người nhà quê thất học. Vì hoàn cảnh nghèo túng, năm 1899, gia đình Ngài dời về sống trong một nông trại ở làng Auziô, gần Neturô. Đây là một gia đình nghèo khó nhưng giầu lòng tin đến độ chuyển núi dời non. Cha Ngài vào một hợp tác và sống chung trong một nhà với một gia đình khác, ông cần cù vở đất trồng trọt để nuôi sáu người con. Còn mẹ thánh nữ, bà rất mệt nhọc trong việc săn sóc đoàn con bé bỏng.
Nhưng gia đình can đảm và thân mật này đã bị giao động khi người cha bất ngờ qua đời. Bà góa phụ Assunta không biết nương tựa vào đâu và quyết định tiếp nối công việc nặng nhọc vừa khởi sự. Bà giao các con nhỏ cho trưởng nữ mới 10 tuổi săn sóc. Maria, người con gái ấy là một đứa trẻ hiền lành can đảm biết vâng phục. Thánh nữ thật là một nguồn an ủi cho người mẹ hiền lành, nhưng cương quyết với các con. Dù còn trẻ thánh nữ đã sớm trở thành một người nội trợ mới.
Hàng xóm của bà Assunta, là gia đình Serenrlli, họ là những người có tinh thần phục vụ. Nhưng Alessandrô lại chơi với các bạn bè xấu và ham đọc sách nguy hiểm. Nhiều lần anh ta giúp đỡ Maria trong những việc nặng nhọc. Người ta có thể nghĩ là Alessandrô đã cải tính sửa nết. Maria thì biết ơn và còn quá trong trắng để mà nghi ngờ. Nhưng Alessandrô đã không ngần ngại đưa ra những đề nghị bỉ ổi, lại còn đe dọa cô không được nói với ai, không hiểu biết gì, Maria Goretti cảm thấy nguy hiểm phạm tội, và đã thú thực hết với mẹ. Run sợ cho tâm hồn còn tinh trong của con bị hoen ố, bà Assunta đã dạy cho Maria cách thắng vượt sự dữ, đề phòng cho cô khỏi mắc cơn nguy hiểm mà cô chưa biết đến. Maria Goretti hứa sẽ không bao giờ nhượng bộ.
Maria mới 12 tuổi, nhưng đã nẩy nở xinh đẹp. Alessandrô thúc bách, nhưng người thiếu nữ đã biết giữ gìn và chống cự lại. Thảm cảnh diễn ra ngày 5 tháng 7 năm 1902. Sáng hôm đó, đợi cho mọi người đi khỏi, Alessandrô tới gần ve vãn cô gái. Cầm dùi trong tay, anh còn đe dọa: - Nếu cô không chịu, tôi sẽ giết cô.
Cô gái la lớn: - Không, đó là việc tội Chúa cấm ! Anh sẽ phải vào hỏa ngục.
Không còn kềm được bản năng , Alessandrô lao vào con mồi, đâm cô hơn 14 nhát.
Tiếng kêu la của kẻ hung bạo và của nạn nhân vang tới mọi người lân cận. Bà Assunta vội đưa người con hấp hối của mình tới nhà thương ở Nettunô. Dọc đường Maria nói với mẹ:
- Mẹ ơi ! Anh đã muốn con phạm tội với anh con đã cự tuyệt.
Linh mục tới đầu giường cô và nhắc lại cái chết của Chúa Giêsu trên thánh giá với lưỡi đòng, sự hối cải của người trộm lành... rồi Ngài hỏi: - Marietta, con có tha thứ không ?
- Dạ tha, vì tình yêu Chúa Giêsu, chớ gì anh được lên thiên đàng với con.
Alessandrô bị kết án 30 năm khổ sai. Tính hung hăng của anh càng tăng làm các bạn tù khiếp sợ. Tám năm sau, một đêm đã làm biến đổi tất cả. Tội nhân mơ thấy Maria sáng chói giữa vườn huệ và hái trao chàng một bông. Hôm sau anh viết lời thú tội, tự thú tất cả cho Đức giám mục và kể lại cả giấc mơ cho Ngài. Anh đã hối hận. Từ ngày đó, thái độ của anh rất gương mẫu. Năm 1929 anh được phóng thích. Năm 1937, quì dưới chân bà Assunta, anh hỏi: - Bà có tha thứ cho con không ?
Và người mẹ thánh nữ trả lời: - Nó đã tha cho con rồi, tôi làm khác sao được ?
Lễ Giáng sinh năm ấy, hai người cùng tiến lên bàn thờ rước lễ.
Maria Goretti được phong chân phước ngày 27 tháng 4 năm 1927. Đến ngày 24 tháng sáu năm 1930, trước mặt người mẹ đã 87 tuổi, Maria Goretti được đức giáo hoàng Piô XII suy tôn lên bậc hiển thánh.
(daminhvn.net)


06 Tháng Bảy
Thiên Chúa Trong Ánh Mắt
Theo một câu chuyện cổ tích của người Nhật Bản, ngày xưa, có một đôi vợ chồng sống rất hạnh phúc bên cạnh một đứa con gái nhỏ. Người chồng là một hiệp sĩ samourai, nhưng anh chỉ sống khiêm tốn trong một khu vườn nhỏ ở đồng quê. Người vợ là một người trầm lặng đến độ nhút nhát. Chị không bao giờ muốn ra khỏi nhà.
Một hôm, nhân dịp lễ đăng quang của Nhật hoàng, với tư cách là một hiệp sĩ, người chồng cảm thấy có bổn phận phải về kinh đô để bái lạy quân vương. Sau khi đã làm xong nghĩa vụ của một hiệp sĩ, anh ghé ra chợ mua quà cho vợ con. Riêng cho người vợ, anh mua một tấm gương soi mặt bằng bạc...
Ðón nhận món quà, ngời đàn bà bỡ ngỡ vô cùng: chị chưa bao giờ trông thấy một tấm gương, chị chưa một lần nhìn thấy mặt mình. Do đó, vừa nhìn thấy mặt mình trong gương, người vợ mới ngạc nhiên hỏi chồng: "Người đàn bà này là ai?". Người đàn ông mỉm cười đáp: "Mình không đoán được đó là gương mặt kiều diễm của mình sao?".
Một thời gian sau, người đàn bà lâm bệnh nặng. Trước khi chết, bà cầm tay đứa con gái và nói nhỏ: "Mẹ không còn sống trên mặt đất này nữa. Sáng chiều, con hãy nhìn vào tấm gương này và sẽ thấy mẹ".
Sau khi người mẹ qua đời, sớm tối, lúc nào đứa con gái ngây ngô cũng nhìn vào tấm gương và nói chuyện với chính hình ảnh của nó. Nó nói chuyện với hình trong tấm gương như với chính mẹ nó.
Ngày kia, bắt gặp đứa con gái đáng nói chuyện với chính mình nó trong tấm gương, người cha tra hỏi, đứa con gái mới trả lời: "Ba nhìn kìa, mẹ con không có vẻ mệt mỏi và xanh xao như lúc bị bệnh. Mẹ lúc nào cũng trẻ và cũng mỉm cười với con".
Nghe thế, người đàn ông không cầm nổi nước mắt, nhưng không muốn cho nó biết sự thật, ông nói với nó: "Nếu con nhìn vào gương để thấy mẹ con, thì ba cũng nhìn vào con để thấy mẹ con".
Tha nhân chính là tấm gương phản chiếu gương mặt của chúng ta. Khi chúng ta lạc quan, khi chúng ta vui tươi, khi chúng ta yêu đời, khi chúng ta hòa nhã chúng ta sẽ nhận ra nét đó trên khuôn mặt của những người xung quanh. Trái lại, khi chúng ta cau có, khi chúng ta giận dữ, khi chúng ta buồn phiền, khi chúng ta thất vọng, chúng ta cũng sẽ thấy được những nét ấy trên gương mặt của người khác...
Tha nhân cũng chính là hình ảnh của Thiên Chúa. Nếu đứa con có thể nhìn thấy gương mặt khỏe mạnh, vui tươi của người mẹ trong tấm gương, nếu người cha nhìn thấy hình ảnh của người vợ trong đứa con, thì với ánh mắt của tin yêu chúng ta cũng có thể nhìn thấy gương mặt Tình Yêu của Thiên Chúa trong mọi người.
Có Thiên Chúa trong ánh mắt, nhìn thấy Thiên Chúa trong mọi người, chúng ta sẽ thấy rằng đời có ý nghĩa, tha nhân không phải là hỏa ngục đáng xa lánh...
Chúng ta hãy nhìn vào tấm gương của tha nhân với nụ cười của trẻ thơ để luôn luôn nhận ra được bộ mặt Tình Yêu của Thiên Chúa trong mọi người.
(Lẽ Sống)


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét