Thánh vịnh 88
Thánh vịnh 88 bị học giả Delitsch coi là tối tăm nhất trong
các lời than van của sách Thánh Vịnh. Nếu nó không được coi là một lời cầu nguyện
của tín hữu (cc. 3a. 14b), một lời than van khẩn nài (c. 3b) sự trợ giúp của
Thiên Chúa cứu độ, thì nó sẽ được coi như thế bởi tiếng kêu âu lo của một kẻ
tuyệt vọng, bị đè bẹp dưới sức nặng khổng lồ của một số phận khiến cho ông cảm
thấy mình đang ở trên bờ của mồ sâu (c. 4), còn hơn nữa như thể là đã bị chôn
vùi trong mồ của vương quốc kẻ chết (c.7), bị nhốt kín, không có lối thoát
trong ngục tù Sheol (c. 9). Bị mọi người bỏ rơi ông chỉ có người bạn duy nhất
là bóng tối (c.19). Ngoài ra, nếu không có lòng tin nơi Thiên Chúa khiến cho
ông nhận ra trong tình trạng của mình sức nặng bàn tay của Ngài và cho tới sự
kinh hoàng của ông, thì tiếng kêu của ông có lẽ đã có thể biến thành một tiếng
thét nổi loạn chống lại biết bao tàn ác từ phía một vì Thiên Chúa xem ra tìm được
vui thích khi trút mọi kinh hoàng khiếp sợ của Ngài trên một thụ tạo đáng
thương như ông, bị phó mặc cho cái chết ngay từ tuổi thanh xuân (c.16-17).
Chúng ta đang đứng trước mầu nhiệm khổ đau của con người, mà
ánh sáng yếu ớt của niềm tin cựu ước không thể soi sáng được. Thật vậy, vì
không được soi sáng bởi một viễn tượng hạnh phúc tưởng thưởng ở thế giới bên
kia (cc.6.1.13), con người gặp nhiều mạo hiểm (c. 4) và bị đánh ngã bởi số phận
buồn thương chờ đợi ông trong mồ sâu, chỉ còn có thể hướng lên Thiên Chúa, là
Chúa của sự sống và cái chết, để Ngài thôi thịnh nộ che lấp gương mặt bình thường
tốt lành của Ngài và thu hồi quyết định để mặc ông cho số phận đen tối (c. 15).
Trên bình diện văn chương tưởng nên nhắc tới một nét đặc biệt
của loại than van: đó là sự kiện hoàn toàn thiếu vắng yếu tố chính là lời cầu
nguyện bầu cử cũng như chúc dữ. Nó cũng thiếu các lý do quan trọng như sự tin
tưởng, lời hứa chúc tụng, ngoài ra không có bất cứ dấu hiệu nào cho thấy tội lỗi
hay sự vô tội của tác giả, mặc dù có quy chiếu rõ ràng về mọi khốn khó ông phải
chịu vì Chúa. Đây có phải là một sáng tác dang dở hay không? Cũng có thể là như
thế.
Văn thể là lời than van cá nhân. Thánh vịnh gồm các lời kêu
xin dẫn nhập, các câu 2-3; việc trình bầy trường hợp, các câu 4-10; các lý do
thuyết phục, các câu 11-13; và các lời kêu gọi mới và việc trình bầy lại trường
hơp, các câu 14-19.
Lời than van bắt đầu với các công thức chuyên biệt của việc
dâng lên Thiên Chúa lời cầu như là tiếng kêu liên lỉ lên sự hiện diện của Chúa
và một lời than van khẩn nài sự can thiệp cứu rỗi của Ngài.
“Lậy Chúa là Thiên Chúa cứu độ con, trước thánh nhan, đêm
ngày con kêu cứu. Nguyện cho lời kinh vọng tới Ngài, xin lắng nghe tiếng lòng
thổn thức”.
“Thiên Chúa của sự cứu độ con”: kiểu gọi này cho thấy rõ
ràng niềm tin tưởng lớn lao mà tín hữu cầu nguyện đặt để nơi Thiên Chúa của
mình, mặc dù giọng điệu tiêu cực của toàn thánh vịnh. Đây cũng là tâm tình của
tác giả thánh vịnh 27: “Chúa là nguồn ánh sáng và ơn cứu độ của tôi,
tôi còn sợ người nào? Chúa là thành luỹ bảo vệ đời tôi, tôi
khiếp gì ai nữa?” (Tv 27,1).
“Ngày và đêm”: ám chỉ lời cầu liên lỉ không ngừng nghỉ, là một
dấu chỉ của sự tin tưởng mạnh mẽ cũng như sự cần thiết trầm trọng. Đây cũng đã
là tâm tình của tác giả thánh vịnh 22: “Ngày kêu Chúa, không lời đáp ứng, đêm
van Ngài mà cũng chẳng yên.” (Tv 22,3).
Sau các lời kêu gọi dẫn nhập tác giả thánh vịnh đã tiếp xúc
với Thiên Chúa, là Đấng ông đặt tất cả niềm hy vọng được trợ giúp, tín hữu
trình bầy trường hợp của mình. Theo các kiểu diễn tả và các hình ảnh ông dùng
xem ra chúng là các hình ảnh tuyệt vọng nhất. Ngôn ngữ thông thường hướng tới
chỗ thậm xưng của các lời than van, trong việc miêu tả ở đây chiếm được sự mạnh
mẽ và hữu hiệu đặc biêt.
“Vì hồn con ngập tràn đau khổ, mạng sống con âm phủ gần kề,
thân kể như đã vào phần mộ, ví tựa người kiệt sức còn chi! Con nằm đây giữa bao
người chết, như các tử thi vùi trong mồ mả đã bị Chúa quên đi, và không được
tay Ngài săn sóc. Chúa hạ con xuống tận đáy huyệt sâu, giữa chốn tối tăm, giữa
lòng vực thẳm. Cơn giận Chúa đè nặng thân con như sóng cồn xô đẩy dập vùi. Chúa
làm cho bạn bè xa lánh và coi con như đồ ghê tởm. con bị giam cầm không thể
thoát ra, mắt mờ đi vì quá nhiều đau khổ. Lạy Chúa, suốt cả ngày con kêu lên
Chúa và giơ tay hướng thẳng về Ngài”.
“Vì linh hồn con no đầy mạo hiểm”: việc trình bầy trường hợp
của ông được giới thiệu như một lý do giải thích các lời kêu xin dẫn nhập.
“Mạng sống con đã tới ngưỡng của của Sheol”: kiểu nói này diễn
tả sự trầm trọng tột cùng tình trạng của ông hầu như nó là tiền phòng của mồ mả,
“gần cửa âm ty” như viết trong thánh vịnh 107.
“Giữa những kẻ xuống hố sâu”: tác giả thánh vịnh không chỉ cảm
thấy mình gần hố sâu, nhưng đang tiến về đó một cách không thể tránh được: nó
là nơi của sự huỷ hoại cuối cùng, như viết trong thánh vịnh 28: “Lạy Chúa là
núi đá cho con trú ẩn, con kêu lên Ngài, xin đừng nỡ giả điếc làm ngơ. Vì nếu
Ngài cứ im hơi lặng tiếng, thì con sẽ giống như kẻ đã xuống mồ.” (Tv 28,1); hay
trong thánh vịnh 30: “Lạy Chúa, từ âm phủ Ngài đã kéo con lên, tưởng đã xuống mồ
mà Ngài thương cứu sống.” (Tv 30,4).
“Giữa các kẻ chết”: có sự gia tăng trong việc miêu tả của
tác giả: giờ đây ông thấy mình đã đến ranh giới của cuộc sống và cảm thấy tất cả
sức nặng của cái chết đè nặng trên người, y như sức nặng đè trên các tử thi ,
khiến cho chúng bất động trong mồ.
“Bị đâm thâu”: giống như các xác chết ngoài chiến trận, mà
cuộc sống đã bị bạo lực giật mất nằm vương vãi đó đây trên cánh đồng hay chồng
chất lên nhau trong các hố chôn tập thể.
“Chúa không còn nhớ tới nữa”: Thiên Chúa không làm phép lạ
cho những người đã chết, Ngài không có việc tưởng nhớ cứu rỗi cho họ. Chính vì
thế những kẻ xuống hố sâu không còn hy vọng vào sự trung tín của Ngài.
“Họ như những người đã bị bàn tay Ngài chặt lià”: nghĩa là họ
bị đặt ra ngoài vùng cứu độ. Đối với con người cựu ước thời gian của sự cứu
độ là thời gian hiện tại. Một khi đã đi qua các cánh cửa của cái chết trong thế
giới bên kia, con người bước vào trong nơi “hư thối” mà Thiên Chúa diễn tả tột
đỉnh sự sống, không có tiếp xúc sống động nào với nó. Chỉ sau này trong Thánh
Kinh Cựu Ước mới được mở ra cho vương quốc các kẻ chết một vòng xoáy của
sự sống với niềm hy vọng của sự sống lại. Trong thánh vịnh 88 khiá cạnh thần học
tiêu cực này được tác giả thánh vịnh sử dụng như là một yếu tố miêu tả sự trầm
trọng tột cùng trường hợp của ông.
“Chúa đã đặt con trong hố dưới lòng đất”: theo ngôn ngữ
thông dụng của Thánh Kinh tác giả thánh vịnh trình bầy trường hợp ở đây như được
Thiên Chúa cho phép, theo nguyên tắc mọi lý do đều bởi Thiên Chúa như được diễn
tả một cách rõ ràng trong bài thánh thi của bà Anna, mẹ ngôn sứ Samuel như viết
trong sách Samuel I chương 2: “Giavê là Đấng cầm quyền sinh tử, đẩy xuống âm phủ
rồi lại kéo lên” (1 Sm 2,6).
“Hố dưới đất” bôr takhtijjah tương đương với Sheol
takhtijjah trong thánh vịnh 86: “Lạy Chúa là Thiên Chúa con thờ, con hết lòng cảm
tạ, Thánh danh Ngài, con mãi mãi tôn vinh, vì tình Chúa thương con như trời như
biển, Ngài đã kéo con ra khỏi vực thẳm âm ty.” (Tv 86,12-13).
“Nỗi kinh hoàng của Ngài”: như hạnh phúc đến từ phúc lành của
Thiên Chúa thế nào, thì mọi rủi ro đều được gán cho sự thịnh nộ của Ngài, một
cách độc lập với tội lỗi hay ít nhất với chủ thể như vậy, ít nhất là bề ngoài.
“Các sóng của Ngài”: là các làn sóng cơn thịnh nộ của Thiên
Chúa nhận chìm kẻ bất hạnh trong vực thẳm, như viết trong thánh vịnh 42: “Kìa vực
thẳm kêu gào vực thẳm, khi tiếng thác của Ngài tuôn đổ ầm vang.
Sóng cồn theo nước cuốn, Ngài để cho tràn ngập thân này.” (Tv 42,8).
Sóng cồn theo nước cuốn, Ngài để cho tràn ngập thân này.” (Tv 42,8).
Sự kiện thân nhân bạn bè xa lánh kẻ đã bị Thiên Chúa đả
thương và coi họ như là một đối tượng của sự kinh hoàng, như một kẻ phong cùi,
được tác giả thánh vịnh 31 miêu tả như sau: “Con đã nên trò cười cho thù địch
và cho cả hàng xóm láng giềng. Bạn bè thân thích đều kinh hãi,
thấy con ngoài đường, ai cũng tránh xa.” (Tv 31,12). Ông
Gióp cũng từng thở than như thế: “Anh em tôi, Người đẩy họ xa tôi, Người quen
biết coi tôi như người dưng nước lã. Thân bằng quyến thuộc đều dứt nghĩa đoạn
tình,
khách trọ nhà cũng lãng quên tôi” (G 19,13-14). Vài nhà chú giải nghĩ tới bệnh phong cùi của tác giả khiến ông bị loại trừ theo luật do thái (Lv 13,46), như trường hợp vua Ozia (x. 2 V 15,5).
khách trọ nhà cũng lãng quên tôi” (G 19,13-14). Vài nhà chú giải nghĩ tới bệnh phong cùi của tác giả khiến ông bị loại trừ theo luật do thái (Lv 13,46), như trường hợp vua Ozia (x. 2 V 15,5).
“Mắt con mỏi”: đây cũng là trường hợp tác giả thánh vịnh 6
phải chịu: “Rên siết đã nhiều, nên con mệt mỏi, trên giường ngủ, những thổn thức
năm canh, từng giọt vắn dài, lệ tuôn đẫm gối, mắt hoen mờ vì quá khổ đau, thêm
suy nhược bởi quân thù vây hãm.” (Tv 6,7-8). Đó cũng là tâm tình của tác giả
thánh vịnh 31: “Xin xót thương, lạy Chúa, bởi vì con lâm cảnh ngặt nghèo, quá sầu
đau, mắt đà mòn mỏi, hồn ảo não và thân hình tiều tuỵ” (Tv 31.10). “Giơ tay lên
hướng về Chúa”: là thái độ đặc thù của người khẩn cầu cũng thường gặp trong các
văn bản tôn giáo Medopotamia và Ai Cập.
Các câu 11-13 diễn tả yếu tố thứ ba của lời than van là
trình bầy với Thiên Chúa các lý do thuyết phục. Lợi ích Thiên Chúa nhận đuợc là
có thêm một tín hữu nữa trên đời chúc tụng Ngài trên trái đất. Nó đòi buộc Ngài
làm phép lạ chữa lành tín hữu, tuy bất hạnh nhưng nói cho cùng là tôi tớ trung
thành của Ngài, theo cái lý luận vụ lợi của tác giả thánh vịnh và của truyền thống
tôn giáo gợi hứng cho ông. Hơn là một tính toán thấp hèn, tư tưởng của tác giả
và của truyền thống tôn giáo được hướng dẫn bởi niềm tin chân thành nơi quyền
năng cứu độ của Thiên Chúa.
“Chúa đâu làm phép lạ cho người đã mạng vong, âm hồn đâu trỗi
dậy ca tụng Chúa bao giờ? Trong mồ mả, ai nói về tình thương của Chúa? Cõi âm
ty, ai kể lại lòng thành tín của Ngài? Những kỳ công Chúa nơi tối tăm ai rõ? Đức
công chính Ngài, chốn quyên lãng ai hay?”
“Có lẽ Chúa làm các điều kỳ diệu cho các kẻ chết?”: là câu hỏi
hùng biện, như mọi câu hỏi khác của thánh vịnh 88. Câu trả lời tiêu cực đã được
đưa ra trước trong câu 6b: “đối với những kẻ đã chết Chúa không còn nhớ gì; họ
đã bị chặt xa khỏi bàn tay Chúa. Vua Edekia bị lâm trọng bệnh, sau khi được
Chúa cho thoát khỏi ngưỡng cửa của cái chết, mới hát lên bài thánh thi cảm tạ
như sau: “Vì ở chốn tử vong, không người ca tụng Chúa, và trong nơi âm phủ, chẳng
ai ngợi khen Ngài. Kẻ xuống mồ cũng dứt niềm trông cậy vào lòng Chúa tín trung.
Chỉ người sống, vâng chỉ người sống mới ca tụng Ngài như thể con nay. Người cha
sẽ dạy cho con cái rõ Ngài là Đấng tín trung.” (Is 38,18-19).
“Các bóng tối” là các âm hồn người chết tan biến từ từ như
bóng đêm là một quan niệm thông thường của thời xa xưa trong thế giới đông
phương cũng như cổ điển (Is 14,9; Cn 2,18; G 26,5)
“Trong nơi của sự huỷ hoại”: abaddôn trong tiếng Do thái ám
chỉ nơi ở của người chết, trong đó yếu tố nhậy cảm của nó là thịt xác đi đến chỗ
bị huỷ diệt qua sự thối rữa. Đây là từ vựng của nền văn chương khôn ngoan ( G
26,6; Cn 15,11).
“Vùng đất của quên lãng” trong nghĩa chủ quan cũng như trong
nghĩa khách quan: trong vương quốc kẻ chết không có ai nhớ tới Thiên Chúa,
Thiên Chúa cũng không nhớ tới kẻ chết.
Các câu 14-19 là phần cuối cùng của thánh vịnh 88, trong đó
tác giả trở lại với trường hợp của mình với các nhấn mạnh khiến cho Chúa xót
thương ông và can thiệp cứu giúp ông.
“Phần con đây, con kêu lên Ngài, lậy Chúa, mới tinh sương đã
chờ chực nguyện xin. Lậy Chúa, thân con đây Chúa nỡ nào ruồng rây, ẩn mặt đi mà
chẳng đoái hoài. Từ thuở bé, con đã khổ nhiều và luôn ngắc ngoải. Chúa làm con
kinh hãi, con hóa ra thẫn thờ. Bao cơn thịnh nộ Ngài đổ ngập thân con, bấy nỗi
kinh hoàng khiến con rời rã. Bủa vây con suốt ngày ngần ấy thứ, dồn dập tư bề
như nước bao la. Cận thân Chúa khiến lià xa, chung quanh bầu bạn chỉ là bóng
đêm”.
“Hấp hối từ thuở thanh xuân” là kiểu nói rất mạnh thuộc ngôn
ngữ thậm xưng. Thiên Chúa đã khiến cho bạn bè xa lánh ông, như viết trong thánh
vịnh 38: “ Con bị tai ương, người thân kẻ nghĩa chẳng tới gần,
bà con ruột thịt cũng đứng xa.” (Tv 38,12; hay như trong
sách ông Gióp chương 19: “Anh em tôi, Người đẩy họ xa tôi, người quen biết coi
tôi như người dưng nước lã. Thân bằng quyến thuộc đều dứt nghĩa đoạn tình,
khách trọ nhà cũng lãng quên tôi.” (G 19,13-14).
khách trọ nhà cũng lãng quên tôi.” (G 19,13-14).
Linh Tiến Khải
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét