05/11/2017
Chúa Nhật 31 thường niên năm A.
(phần I)
Bài Ðọc I: Ml 1, 14b -
2, 2b. 8-10
"Các ngươi đã
đi sai đường lối, và làm cho nhiều người vấp phạm lề luật".
Trích sách Tiên tri
Malakhi.
Chúa các đạo binh phán
rằng: Ta là Vua cao cả, và danh Ta đáng kính sợ trong các dân tộc. [Ta sẽ làm
cho các ngươi phải túng thiếu.]
{Và bây giờ, trên các ngươi có án lệnh này, hỡi các tư tế:
Nếu các ngươi không nghe, và nếu các ngươi không lưu tâm mà tôn vinh danh Ta,
Chúa các đạo binh phán, Ta sẽ phóng (sự) chúc dữ xuống trên các ngươi; và Ta sẽ
chúc dữ cho sự chúc lành của các ngươi.}
Các ngươi đã đi sai đường
lối, làm cho nhiều người vấp phạm lề luật và huỷ bỏ giao ước Lêvi, Chúa các đạo
binh phán như vậy. Bởi thế, Ta để cho các ngươi bị khinh rẻ và đốn mạt trước mọi
dân tộc, vì các ngươi đã không tuân giữ đường lối của Ta, và vị nể trong khi
thi hành lề luật. Chớ thì mỗi người chúng ta không có một người cha sao? Chớ
thì không phải có một Thiên Chúa tạo thành chúng ta sao? Vậy tại sao mỗi người
chúng ta lại khinh rẻ anh em mình mà phản bội giao ước của tổ phụ chúng ta?
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 130, 1. 2. 3
Ðáp: Lạy Chúa, xin giữ linh hồn con trong bình an của
Chúa.
Xướng: 1) Lạy Chúa,
lòng con không tự đắc, và mắt con chẳng liếc nhìn cao, con cũng không lo nghĩ những
việc lớn lao hay là những điều quá tầm trí mọn. - Ðáp.
2) Nhưng con lo giữ
linh hồn cho thinh lặng và thanh thản. Như trẻ thơ sống trong lòng thân mẫu,
linh hồn con cũng như thế ở trong con. - Ðáp.
3) Israel hãy cậy
trông vào Chúa, tự bây giờ và cho tới muôn đời. - Ðáp.
Bài Ðọc II: 1 Tx 2,
7b-9, 13
"Chúng tôi muốn
trao phó cho anh em, không những Tin Mừng của Thiên Chúa, mà còn mạng sống
chúng tôi nữa".
Trích thư thứ nhất của
Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Thêxalônica.
Anh em thân mến, chúng
tôi đã trở thành như những kẻ bé mọn giữa anh em. Như người vú nuôi nâng niu
con cái mình thế nào, thì chúng tôi yêu thương anh em đến nỗi chúng tôi rất vui
lòng trao phó cho anh em không những Tin Mừng của Thiên Chúa, mà còn cả mạng sống
chúng tôi nữa: vì anh em đã nên thiết nghĩa với chúng tôi. Anh em vẫn còn nhớ đến
công lao khó nhọc của chúng tôi: chúng tôi phải làm việc ngày đêm để khỏi trở
nên gánh nặng cho một ai trong anh em, khi chúng tôi rao giảng Tin Mừng của
Thiên Chúa giữa anh em. Bởi thế chúng tôi không ngừng cảm tạ Thiên Chúa, vì anh
em nhận lãnh lời Thiên Chúa do chúng tôi rao giảng, anh em đã nhận lãnh lời ấy
không phải như lời của người phàm, mà như lời Thiên Chúa, và thực sự là thế, lời
đó hoạt động trong anh em là những kẻ đã tin.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ep 1, 17-18
Alleluia, alleluia! -
Xin Chúa Cha của Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, cho mắt tâm hồn chúng ta được
sáng suốt, để chúng ta biết thế nào là trông cậy vào ơn Người kêu gọi chúng ta.
- Alleluia.
Phúc Âm: Mt 23, 1-12
"Họ nói mà không
làm".
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu
phán cùng dân chúng và các môn đệ rằng: "Các Luật sĩ và các người biệt
phái ngồi trên toà Môsê: vậy những gì họ nói với các ngươi, các ngươi hãy làm
và tuân giữ, nhưng đừng noi theo hành vi của họ: vì họ nói mà không làm. Họ buộc
những bó nặng và chất lên vai người ta, còn chính họ lại không muốn giơ ngón
tay lay thử. Mọi công việc họ làm đều có ý cho người ta thấy: vì thế họ nới rộng
thẻ kinh, may dài tua áo. Họ muốn được chỗ nhất trong đám tiệc và ghế đầu trong
hội đường, ưa được bái chào nơi đường phố và được người ta xưng hô là "Thầy".
Phần các ngươi, các ngươi đừng muốn được người ta gọi là Thầy, vì các ngươi chỉ
có một Thầy, còn tất cả các ngươi đều là anh em với nhau. Và các ngươi cũng đừng
gọi ai dưới đất là cha: vì các ngươi chỉ có một Cha, Người ngự trên trời. Các
ngươi cũng đừng bắt người ta gọi là người chỉ đạo: vì các ngươi có một người chỉ
đạo, đó là Ðức Kitô. Trong các ngươi ai quyền thế hơn sẽ là người phục vụ các
ngươi.
"Hễ ai tự nhắc
mình lên, sẽ bị hạ xuống, và ai tự hạ mình xuống, sẽ được nâng lên".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Mọi Người Ðều
Phải Sửa Mình
Những lời Chúa Yêsu
nói hôm nay về các Luật sĩ và Biệt phái xem ra rất nặng. Nhưng Người không nói
với họ, mà chỉ nói với dân chúng và môn đệ. Người dùng những nét về nếp sống bề
ngoài của họ, để dạy những người này một bài học. Nói đúng ra, ở thời Giáo hội
sơ khai, tác giả Matthêô đã nhớ lại những lời Chúa nói về Luật sĩ và Biệt phái,
để cảnh cáo trong Hội Thánh không được có những thái độ như vậy...
Dĩ nhiên những lời này
áp dụng trực tiếp hơn cho hàng tư tế ở trong Hội Thánh. Nhưng ai nghĩ chúng
không liên hệ đến hết mọi người? Và tại sao chúng ta không lợi dụng những bài
Kinh Thánh hôm nay để nói về những quan hệ trên dưới ở trong Hội Thánh? Mặc dù
là vấn đề khá tế nhị, và chắc chắn một lần không đủ nói hết mọi khía cạnh;
nhưng nhờ được những bài Kinh Thánh hôm nay để nói về các quan hệ ở trong Hội
Thánh cũng là một dịp quý hóa, không nên bỏ qua. Chúng ta sẽ học được nhiều điều
lý thú cần thiết cho đời sống tốt đẹp ở trong Hội Thánh.
A. Mọi Người Ðều Phải
Sửa Mình
Ngay bài sách Malaki
đã cho thấy Lời Chúa hôm nay không chỉ muốn nói riêng với hàng tư tế. Những câu
cuối cùng chất vấn mọi người và gợi lên cho mọi người thấy phải thay đổi cả một
nếp sống cho phù hợp với Thiên Chúa.
Dĩ nhiên hàng tư tế đã
bị chất vấn trước. Chúa các đạo binh đã bắt đầu đặt họ trước uy phong của Người.
Người là Vị Ðại đế và Danh Người rất uy phong giữa các dân tộc. Tại sao vậy? Chẳng
phải vì như tục ngữ thường nói: gần chùa gọi bụt bằng anh sao? Có lẽ hàng tư tế,
vì quá quen với bàn thờ, nên nhiều khi không còn ý thức đủ về uy linh của Thiên
Chúa.
Malaki sống ở thời
Batư đang cực thịnh. Ít ra mọi nơi đều biết hoàng đế Batư như thế nào? Giàu
sang, phú quý và uy quyền. Malaki mượn hình ảnh của triều đình để nói Thiên
Chúa là vị Ðại đế cho người ta dễ hiểu. Hơn nữa ông biết tôn giáo Batư cũng rất
nghiêm ngặt. Thế mà dân ngoại vẫn có truyền thống khiếp sợ uy Danh Yavê kể từ
ngày Ngài giúp con cái Israel ra khỏi Aicập và chiếm được Hứa địa. Thật ra
Malaki còn muốn nói nhiều hơn nữa. Ông xác tín Yavê là Vua cả trời đất và ông
tin rằng "từ phương mặt trời mọc đến phương mặt trời lặn, Danh Yavê lớn thật
nơi các quốc gia, và hy sinh được huân yên dâng tiến Danh Người làm một với lễ
vật tinh sạch" (1,11). Nói cách khác, ông thâm tín về quyền phép bao la của
Thiên Chúa và chỉ một mình Ngài cai trị tất cả trời đất vạn vật. Chính Ngài giờ
đây chất vấn hàng tư tế:
Tại sao các ngươi
không để tâm mang lại vinh dự cho Danh Ta?
Ðó là tội lớn lao mà
hàng tư tế dễ mắc phải. Họ được đặt lên để làm vinh Danh Thiên Chúa, nhưng nhiều
khi họ lại vơ tất cả vinh dự về mình. Bài Tin Mừng sẽ cho chúng ta thấy mấy nét
trong nếp sống hiếu danh, hiếu thắng của họ. Malaki không đi vào chi tiết.
Nhưng ông vạch cho họ thấy: Chúa sẽ giáng chúc dữ xuống trên họ. Người sẽ phạt
họ trên chính tội họ đang phạm. Họ tìm cách làm cho mình được vinh dự, thì Chúa
sẽ để cho họ mọi điều chúc dữ, đến nỗi Người chúc dữ cho chính những sự chúc
lành của họ. Thế nên Người sẽ để cho họ thành đồ đáng khinh, làm lũ mạt hạng đối
với toàn dân.
Thật ra đâu phải họ chỉ
có tội hiếu danh; nhưng chính vì chỉ muốn làm cho mình nổi mà họ đi trệch đường
và làm cho người khác đi lầm đường. Lẽ ra họ phải là những người chỉ đường cho
người ta đến với Thiên Chúa. Nhưng vì không còn lưu tâm tôn vinh Danh Người và
muốn vơ vét vinh dự về mình, họ giáo huấn sai lạc, họ làm cho người ta không
còn thấy hướng đi đến với Thiên Chúa. Họ đã phá hoại Giao ước Lêvi rồi còn gì nữa,
bởi vì chức vụ của dòng dõi Lêvi là phải giúp người ta giữ Luật Chúa và thờ phượng
Người. Thế mà họ lại không quan tâm làm tôn vinh Danh Chúa. Họ bội phản ơn gọi,
thì chính họ biến mình thành đồ đáng khinh, làm lũ mạt hạng đối với toàn dân,
chứ đâu cần phải Thiên Chúa đánh phạt. Họ gieo gió thì họ gặt bão và tội nào
thì đem lại vạ ấy. Chúng ta đừng tưởng Thiên Chúa khắt khe với người nào! Người
chẳng khắt khe với hàng tư tế hơn bậc giáo dân.
Thật vậy, sau khi chất
vấn riêng hàng tư tế, Thiên Chúa đã nói với mọi người qua miệng ngôn sứ Malaki:
"Chúng ta hết thảy chỉ có một cha, không phải thế sao? Cũng một Thiên Chúa
đã dựng nên chúng ta, không phải thế sao? Tại sao chúng ta lại phản bội nhau mà
phạm thánh đến giao ước của cha ông chúng ta?".
Malaki trách dân vì tội
thiếu bác ái, vì người ta phản bội biến nhau nên xa lạ và thù địch thay vì sống
coi nhau như anh em một Cha trên trời và như con cái của một Ðấng Tạo Thành.
Malaki vẫn có cái nhìn Thiên Chúa là Vua tất cả trời đất và là Ðấng dựng nên
muôn loài. Hơn nữa Người đã muốn ký kết một giao ước với dân: coi dân như sở hữu
riêng của Người và thắt chặt mối tình giữa mọi người lại như đồng bào trong một
tổ quốc. Thế nên vi phạm luật bác ái yêu thương, phản bội nhau thay vì duy trì
tình huynh đệ, không phải chỉ là lỗi phạm đến nhau, nhưng còn phá hoại Giao ước
và phủ nhận quyền sinh tử của Cha chung trên trời.
Như vậy cả tư tế lẫn
giáo dân đều phạm tội với Chúa, đều vi phạm Giao ước. Một bên hiếu danh nên giảng
dạy sai lạc, không đưa người ta đến với Chúa; còn bên kia ham lợi nên phản bội
anh em và chia rẽ gia đình Chúa. Chẳng bên nào đáng khen hơn bên nào. Cả hai đều
phải trở lại và đến với Chúa Yêsu là Con Chiên gánh tội thiên hạ.
B. Ai Tự Hạ Sẽ Ðược
Nâng Lên
Hôm nay, trong bài Tin
Mừng, Chúa Yêsu nói với quần chúng và môn đệ. Chúng ta có thể tự hỏi: Vì sao
nói với những người này, Chúa lại có những lời chỉ trích Ký lục và Biệt phái?
Có thể coi những lời phê bình này như để dẫn nhập đưa vào phần giáo huấn môn đệ.
Có lẽ đúng hơn nên nghĩ rằng tác giả Matthêô viết bài Tin Mừng này cho Hội
Thánh. Và trong thế giới Dothái Kitô giáo của người, không khỏi có những người
hay ít ra không khỏi có khuynh hướng muốn tổ chức Giáo hội theo kiểu mẫu
Dothái; và hàng tư tế Ðạo Mới có vẻ sắp bắt chước hàng tư tế đạo cũ. Do đó đoạn
văn này vẫn cần thiết cho Hội Thánh, và chúng ta nên hiểu nó muốn nói gì với
mình.
Ký lục và Biệt phái
trước tiên được công nhận như những người có quyền ngự tòa Môsê. Tức là họ giữ
quyền giáo huấn và trông coi Luật pháp. Ðịa vị này không nhỏ. Tòa của Môsê ngày
xưa đặt ở núi Sinai, nơi ông tuyên bố Luật pháp và làm lễ ký kết giao ước giữa
Chúa với Dân. Và núi Sinai thuở ấy có mây trời bao phủ và sấm chớp nổ vang trên
chóp đỉnh. Tòa của Môsê được tham dự vào uy phong của Thiên Chúa. Dân khi ấy
hãi hùng khiếp sợ. Họ chấp nhận mọi điều Môsê nói thay mặt Chúa.
Ngày nay hàng tư tế ngồi
tòa Môsê. Họ tiếp nối địa vị của ông. Họ có quyền giáo huấn . Nhưng họ thi hành
quyền ấy thế nào?
Matthêô nhận thấy họ
có hai cách: hoặc họ dạy Luật pháp mà không thi hành; hoặc họ thêm thắt vào Luật
pháp đến nỗi họ dạy truyền thống loài người chứ không phải Luật Chúa nữa. Với
cách trên họ là những con người giả hình; nhưng vì họ rao truyền Lời Chúa,
chúng ta vẫn phải thi hành nhưng đừng bắt chước cách ăn ở của họ. Còn với cách
sau, họ lấy mình làm luật cho người khác, gò mọi người vào khuôn khổ họ làm ra.
Bởi vì như Malaki nói, họ hiếu danh muốn ở tren trốc mọi người. Nhiều khi tính
hiếu thắng này trở thành lô bịch: nới rộng hộp đựng kinh, làm to tua áo dài, ưa
ngồi chỗ nhất trong bàn tiệc và thích được chào hỏi khi đi đứng. Họ làm như cả
xã hội này chỉ có họ là lớn.
Chính nết xấu này là
điều phải tránh trong Giáo Hội Chúa Kitô. Không những nó phân rẽ hàng ngũ Dân
Chúa, nhưng nhất là nó muốn choán chỗ của chính Người. Như đã thấy trong bài
sách Malaki, người có nết xấu đưa mình lên như thế, không lưu tâm làm vinh Danh
Thiên Chúa nữa nhưng chỉ muốn vơ mọi danh dự về cho mình. Và từ chỗ này, người ấy
muốn trở thành luật cho người khác và cầm giữ người khác dưới quyền đô hộ của mình.
Một xã hội không loại trừ nết xấu đó sẽ không còn lòng mến Chúa và không còn
tình anh em. Nó không thể là Giáo hội của Ðức Kitô.
Thế nên khi Chúa Yêsu
nói với dân chúng và các môn đệ rằng: các con chớ cho gọi mình là Thầy, là Cha,
là người chỉ đạo, Người chỉ muốn chúng ta từ bỏ nết xấu đó để ý thức lại quyền
của Thiên Chúa ở trên mọi người. Có hướng về Thiên Chúa, người ta mới là anh em
với nhau và Giáo hội mới là Hội Thánh. Và điều này hết mọi người phải thi hành,
cả tư tế lẫn giáo dân. Có thi hành, tư tế mới giảng đạo chứ không giảng mình và
mới khỏi "bó những gánh nặng mà đặt trên vai người khác, còn chính mình lại
không muốn tra ngón tay lay thử". Vì thường ách của Chúa thì nhẹ, còn gánh
người ta bó mới nặng! Còn giáo dân, khi theo gương khiêm hạ của Ðức Kitô, sẽ dễ
tìm thấy bình an giữa mọi người và xây dựng được cộng đoàn bác ái.
Ðấy là giáo huấn. Còn
thi hành? Chúng ta hãy đọc thư Phaolô.
C. Thái Ðộ Tông Ðồ
Thánh Tông đồ gửi thư
cho giáo đoàn Thessalônikê. Ngay lời mở đầu đoạn trích hôm nay đã cho chúng ta
thấy thái độ đúng đắn của người. Người đã thi hành Lời Chúa dạy bảo, vì tuy là
Tông đồ, người đã "ăn ở dịu hiền giữa anh em". Thái độ của người như
láy lại lời Chúa nói: "Hãy học với Ta, này Ta hiền lành và khiêm nhượng
trong lòng". Thái độ ấy áp dụng triệt để chỉ thị Chúa đã ban khi nói với
môn đệ: "Kẻ lớn hơn trong các ngươi sẽ là tôi tớ của các ngươi".
Thánh Tông đồ đã đi
vào cộng đoàn Thessalônikê với thái độ ấy, khiến tuy ngồi ở toà Môsê, nắm giữ sứ
vụ giảng huấn, Phaolô đã không khác chi "mẹ nuôi con dại ấp ủ con
mình". Người có thể nói được như thế và ví được như vậy, vì "đang khi
chia sẻ Tin Mừng của Thiên Chúa với anh em, (người) muốn gắn bó với họ đến đỗi
muốn thí cả mạng sống cho anh em nữa". Chính việc rao giảng Lời Chúa trong
tinh thần yêu thương như vậy, đã khiến thánh Tông đồ là "mẹ" hơn là
"cha", là "thầy", là "người chỉ đạo". Và nhất là
nhờ thái độ ấy mà "anh em đã chịu lấy Lời Thiên Chúa... không phải như lời
của những người phàm mà là như Lời của Thiên Chúa; và Lời ấy đang thi thố quyền
năng nơi anh em là những kẻ tin".
Và để tránh cho việc
rao giảng Lời Chúa mọi vẻ gì như bó thành gánh nặng cho người nghèo, cho dù rất
chính đáng, thánh Phaolô đã làm việc ngày đêm để sinh nhai, hầu tránh cho anh
em mọi quan tâm nặng nề. Nhưng người vẫn khẳng định, đây là thái độ hoàn toàn
quảng đại, không phải bao giờ cũng thi hành được và ai ai cũng có thể làm được.
Chính người cũng có lúc phải để cho người khác lo cho mình hầu mình có thể làm
hết nghĩa vụ rao giảng.
Ðiều cần thiết là khi
thi hành nghĩa vụ tông đồ, người ta phải theo chỉ thị của Chúa đã ban trong bài
Tin Mừng hôm nay. Người ta phải hạ mình xuống, không được tìm vinh dự cho mình,
nhưng phải lưu tâm làm vinh Danh Thiên Chúa. Người ta không được đưa mình lên
trên người khác, nhưng phải trở nên tôi tớ mọi người. Không phải người ta phải
làm những việc hèn hạ hơn cả, nhưng chỉ cần người ta tỏ lòng mến Chúa trên hết
mọi sự và yêu thương người khác như chính mình. Với hai lòng mến ấy, thánh
Phaolô đã giữ đúng lời Thầy Chí Thánh là "ở dịu hiền giữa anh em".
Người giảng dạy với tinh thần phục vụ, khiến người ta thấy rõ khi ấy người
không khác chi mẹ nuôi con dại ấp ủ con mình: vì khi cho con ăn sữa, người mẹ
còn ban tình yêu cho con, thì thánh Tông đồ khi đem Lời Chúa nuôi dưỡng tín hữu,
còn làm cho họ thấy người muốn trao ban cả mạng sống mình cho họ nữa. Người
không ở ngoài lời giảng như các Ký lục và Biệt phái, nhưng ở trong lời giảng.
Nhờ vậy mà tín hữu thấy lời giảng là Lời Chúa, đem tình yêu cứu thế, đem ân sủng
cứu độ.
Anh chị em cầu nguyện
cho lời giảng và sứ vụ tông đồ trong Hội Thánh được như vậy. Anh chị em cũng
hãy nhớ vinh dự và nghĩa vụ của anh chị em là Kitô hữu cũng là Tông đồ, Tư tế,
Hoàng vương giữa xã hội loài người. Lời Chúa hôm nay không nói riêng cho ai cả,
nhưng cho mọi người chúng ta. Chúng ta hãy nhìn vào Lời Chúa trong cử hành phụng
vụ này. Sau khi được tuyên bố ở giảng đài, Lời Chúa sắp được công bố nơi bàn thờ.
Ở đây Lời Chúa sẽ biến thành Mình Chúa, và trong thái độ khiêm cung tự hạ của mầu
nhiệm Thập giá. Nhưng đồng thời cũng là mầu nhiệm tôn vinh... "Ai hạ mình
xuống, sẽ được nâng lên".
Lời Chúa trở thành
hành động trong thánh lễ này cho hết thảy chúng ta, để chúng ta đón nhận, thi
hành và xây dựng Nước Thiên Chúa đem hạnh phúc đến cho mọi người.
(Trích dẫn từ tập
sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục
Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Chủ Nhật 31 Thường Niên, Năm A
Bài đọc: Mal
1:14-2:2, 8-10; I Thes 2:7-9, 13; Mt 23:1-12.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Những đức tính cần có của người lãnh đạo
Trong cuộc đời, tất cả chúng ta có lúc là thành viên, có
lúc là những nhà lãnh đạo trong gia đình, công sở, xã hội, và Giáo-Hội. Các Bài
đọc hôm nay chẳng những giúp chúng ta biết sáng suốt lựa chọn người lãnh đạo
tài đức mà còn biết chuẩn bị để chu tòan bổn phận của nhà lãnh đạo khi được tin
cẩn trao phó. Hai đức tính cần thiết nhất của người lãnh đạo:
(1) Phải sáng suốt:
không biết lối làm sao có thể dẫn đường? Chính Chúa Giêsu đã cảnh cáo: “Mù dắt
mù cả hai cùng xuống hố!”
(2) Không những phải
có tài, người lãnh đạo còn phải có đức vì “thượng bất chính hạ tắc lọan.” Nhà
lãnh đạo không có đức dễ độc tài, kiêu ngạo, và làm khổ dân.
Bài đọc II chỉ cho
chúng ta thấy những dấu hiệu của nhà lãnh đạo khôn ngoan, tài đức. Bài đọc I và
Phúc Âm vạch ra cho chúng ta thấy những dấu hiệu của nhà lãnh đạo mù lòa và hậu
quả của nó.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Các tư tế đã không chu tòan bổn phận của mình.
(1) Không dạy dỗ dân:
Một trong những bổn phận hàng đầu của tư tế là phải dạy dỗ dân biết kính sợ
Thiên Chúa qua việc tuân giữ các lề luật của Ngài. Luật dạy khi dâng lễ vật lên
Thiên Chúa, họ phải dâng lễ vật hòan hảo nhất; nhưng vì tiếc của hay lợi nhuận,
họ lại dâng những của dư thừa hay bệnh họan. Việc làm này biểu tỏ sự khinh thường
Thiên Chúa và Ngài lên án họ: “Thật đáng bị nguyền rủa kẻ xảo quyệt, kẻ có con
vật đực trong đàn mà lại khấn dâng con vật mang tì tích làm lễ tế Chúa Thượng.”
Thiên Chúa không ăn những
lễ vật họ dâng, nhưng Ngài nhận ra sự kính sợ Thiên Chúa trong lòng họ. Điều
nguy hiểm có thể xảy ra là một khi đã tiêm nhiễm thói quen này, họ sẽ có thái độ
“gần chùa gọi bụt bằng anh.” Họ sẽ không còn kính sợ Thiên Chúa và giữ những gì
Ngài dạy. Vì thế, các tư tế phải chỉnh đốn những hành động khinh thường Thiên
Chúa trong việc tế tự trước khi chúng trở thành thói quen, và hậu quả của việc
khinh thường Thiên Chúa sẽ vô cùng lớn lao: “Nếu các ngươi không nghe và không
lưu tâm tôn vinh Danh Ta, Đức Chúa các đạo binh phán, Ta sẽ khiến các ngươi mắc
tai hoạ, Ta sẽ biến phúc lành của các ngươi thành tai hoạ. Phải, Ta biến phúc
lành ấy thành tai hoạ, vì các ngươi chẳng lưu tâm gì cả.”
(2) Mù quáng: Để có thể
hướng dẫn dân chúng, nhà lãnh đạo phải khôn ngoan và sáng suốt. Nếu họ không biết
đường đi, làm sao họ có thể hướng dẫn dân chúng đạt đích? Thời của tiên tri Malachi,
giới lãnh đạo bị khủng hỏang trầm trọng; và dân chúng phải chịu mọi hậu quả do
sự mù quáng của họ: “Nhưng các ngươi, các ngươi đã đi trệch đường và làm cho
nhiều người lảo đảo trên đường Luật dạy. Các ngươi đã huỷ hoại giao ước với
Lêvi, Đức Chúa các đạo binh phán.”
(3) Làm gương mù: Người
dân thường sẽ bắt chước những gì người lãnh đạo của họ thực hiện. Nếu người dân
thấy các tư tế có những thái độ khinh thường Thiên Chúa và không giữ luật lệ, họ
cũng sẽ bắt chước như vậy, với lý do: “nếu các tư tế còn như vậy thì huống chi
là dân!” Trong việc áp dụng Luật cũng thế, nếu các tư tế thẳng thắn áp dụng luật
cho mọi người và trong mọi trường hợp, dân chúng sẽ không bị lẫn lộn và không cảm
thấy bất công; nhưng nếu các tư tế luôn tìm cách để khỏi giữ luật lệ, dân cũng
có lý do để làm như thế hay hơn nữa.
2/ Bài đọc II: Thánh Phaolô làm gương cho các tín hữu.
(1) Yêu thương: Đức
tính đầu tiên nhà lãnh đạo phải có là lòng yêu thương, yêu thương Chúa và yêu
thương tha nhân; nếu không có đức tính này, nhà lãnh đạo sẽ chỉ lo tìm lợi ích
cho bản thân và gia đình mình. Yêu mến Thiên Chúa là lý do duy nhất thúc đẩy
Thánh Phaolô hăng say rao giảng Tin Mừng; và vì yêu mến Thiên Chúa, ngài cũng
yêu thương tha nhân. Ngài nói với các tín hữu: “Chúng tôi đã quý mến anh em, đến
nỗi sẵn sàng hiến cho anh em, không những Tin Mừng của Thiên Chúa, mà cả mạng sống
của chúng tôi nữa, vì anh em đã trở nên những người thân yêu của chúng tôi.”
(2) Hy sinh: Vì yêu
thương những người dưới quyền mình, nên nhà lãnh đạo có thể hy sinh thời giờ, sức
lực, và ngay cả mạng sống mình để phục vụ họ. Thánh Phaolô tuy có quyền đòi các
tín hữu Thessanolica phải trọng đãi, với tư cách là Tông Đồ Đức Kitô, nhưng
ngài đã không làm như thế. Trái lại, ngài đã tự mưu sinh để khỏi trở nên gánh nặng
cho dân; và sẵn sàng hy sinh ngay cả mạng sống cho lợi ích phần linh hồn của họ.
(3) Làm gương sáng:
Không phải chỉ có mục đích cất bớt gánh nặng cho dân, nhưng còn làm gương sáng
cho họ, để họ có thể hy sinh cho người khác. Con người dễ bị lôi cuốn và bắt
chước, Thánh Phaolô muốn khích động tâm tình này nơi các tín hữu của ngài:
“Thưa anh em, hẳn anh em còn nhớ nỗi khó nhọc vất vả của chúng tôi: đêm ngày
chúng tôi đã làm việc để khỏi thành gánh nặng cho một người nào trong anh em,
suốt thời gian chúng tôi loan báo Tin Mừng của Thiên Chúa cho anh em.”
(4) Khôn ngoan: Thánh
Phaolô biết rõ khôn ngoan và sức mạnh đến từ Thiên Chúa qua Tin Mừng. Vì thế,
ngài chú trọng đến việc rao giảng Tin Mừng cho các tín hữu, chứ không chú trọng
đến việc rao giảng những khôn ngoan của người phàm. Ngài biết rõ Tin Mừng có sức
tác động và thay đổi con người các tín hữu: “Bởi thế, về phần chúng tôi, chúng
tôi không ngừng tạ ơn Thiên Chúa, vì khi chúng tôi nói cho anh em nghe lời
Thiên Chúa, anh em đã đón nhận, không phải như lời người phàm, nhưng như lời
Thiên Chúa, đúng theo bản tính của lời ấy. Lời đó tác động nơi anh em là những
tín hữu.”
(5) Khiêm nhường:
Thánh Phaolô biết khiêm nhường nhận ra chỗ đứng của mình. Sự hiểu biết và hóan
cải nơi các tín hữu là do quyền năng của Thiên Chúa họat động trong con người;
ngài chỉ là khí cụ Thiên Chúa dùng để rao giảng Tin Mừng mà thôi. Ngài biết
ngay cả việc rao giảng Tin Mừng cũng là quà tặng Thiên Chúa trao cho ngài.
3/ Phúc Âm: Các Kinh-sư và Biệt-phái là những người lãnh đạo giả hình.
(1) Không quan tâm dạy
dỗ dân: Bổn phận chính yếu của các Kinh-sư và Biệt-phái là dạy cho dân biết và
sống theo Luật của Thiên Chúa. Họ đã không chu tòan mà còn đánh lừa dân sống
theo luật họ đề ra và cách cắt nghĩa của họ.
(2) Lợi dụng: Thay vì
hy sinh và cất bớt gánh nặng cho dân, họ chỉ biết ích kỷ lo cho mình như lời
Chúa Giêsu cáo buộc: “Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng
chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào.” Họ lợi dụng cách cắt nghĩa Luật
để lấy tài sản của dân.
(3) Làm gương mù: Họ
nói mà không làm, và nếu làm, phải cho người khác thấy. Chúa Giêsu cẩn thận
phân tích lối sống này: “Các Kinh-sư và các Biệt-phái ngồi trên toà ông Môsê mà
giảng dạy.Vậy, tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ, còn những việc
họ làm, thì đừng có làm theo, vì họ nói mà không làm.” Thái độ giả hình của họ
được ngụy trang bằng việc “đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật
dài” để chứng tỏ cho mọi người thấy sự tôn kính Lề Luật của họ.
(4) Kiêu ngạo: Tự nhận
mình là những nhà lãnh đạo quan trọng, họ chọn chỗ tốt nhất trong đám tiệc, chiếm
hàng ghế đầu trong hội đường, ưa thích được người ta ca ngợi và gọi là
"Rabbi."
(5) Mù quáng: Chính họ
đã không biết đường đi, làm sao họ có thể hướng dẫn người khác? Sống dưới những
nhà lãnh đạo như thế, dân chúng sẽ bị ảnh hưởng vì không biết đường để tiến tới
một cuộc sống hòan thiện thực sự. Vì thế, Chúa cẩn thận đề phòng các môn đệ của
Ngài: “Phần anh em, đừng để ai gọi mình là "Rabbi," vì anh em chỉ có
một Thầy; còn tất cả anh em đều là anh em với nhau. Anh em cũng đừng gọi ai dưới
đất này là cha của anh em, vì anh em chỉ có một Cha là Cha trên trời. Anh em
cũng đừng để ai gọi mình là người lãnh đạo, vì anh em chỉ có một vị lãnh đạo là
Đức Ki-tô.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Người lãnh đạo sáng
suốt phải biết đường đi: Tùy theo mỗi lãnh vực: chính trị, kinh tế, giáo dục,
tôn giáo, người lãnh đạo phải có kiến thức rộng trong lãnh vực của mình trước
khi có thể hướng dẫn người khác.
- Người lãnh đạo phải
làm gương bằng hành động: Lãnh đạo thành công không chỉ đòi kiến thức mà còn
đòi gương sáng qua việc thực hiện những gì mình rao giảng.
- Người lãnh đạo tôn
giáo chỉ đường cho dân đến với Chúa, chứ không bắt dân qui phục mình.
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.
05/11/17 CHÚA NHẬT TUẦN 31 TN – A
Mt 23,1-12
THẬT VÀ GIẢ
“Tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ, còn
những việc họ làm, thì đừng có làm theo, vì họ nói mà không làm.” (Mt 23,3)
Suy niệm: David Copperfield, nhà
ảo thuật thiên tài, đã làm biết bao khán giả phải rởn tóc gáy với màn ảo thuật
cưa đôi người ghê rợn, mặc dù ai cũng biết sự thật không phải thế. Trong cuộc sống
đời thường cũng có biết bao tình huống mà thật-giả, giả-thật không biết dựa vào
đâu mà phân định: Có những điều thấy vậy, nghe nói vậy mà không phải vậy. Trong
bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su cảnh báo dân chúng và các môn đệ phải coi chừng
thói giả hình nơi những người Pha-ri-sêu. Thay vì “ngôn hành như nhất” thì lời
nói và việc làm của đối nghịch nhau như nước với lửa. Chúa Giê-su dạy “hãy làm
điều họ nói nhưng đừng làm theo điều họ làm.” Làm điều họ nói vì đó là Lời, là
Thập Giới, là con đường để nên hoàn thiện. Thế nhưng, đừng học theo việc làm của
họ vì những điều họ làm không thể hiện ý muốn của Thiên Chúa mà chỉ là ý riêng
của họ, theo cách có lợi cho chính họ.
Mời Bạn: Người
môn đệ của Chúa không chỉ biết phân định để nhận ra thói giả hình như thế mà
còn phải tỉnh thức để chính mình không rơi vào cám dỗ sống giả dối, khiến cuộc
sống của mình biến chất thành một “trò ảo thuật” không hơn không kém.
Chia sẻ: Bạn
nghĩ gì khi nghe Đức Thành Cha Phanxicô nói: Một kẻ sống giả dối có thể hủy hoại
cả một cộng đồng và làm tổn thương Giáo Hội?
Sống Lời Chúa: Tâm
niệm: “Có thì nói có, không thì nói không” (Mt 5,37).
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin giữ
chúng con khỏi thói giả hình, và giúp chúng con can đảm bước đi trong sự thật,
để “Sự Thật giải phóng chúng con”. Amen.
(5 phút Lời Chúa)
LÀ ANH EM VỚI NHAU (5.11.2017 – Chúa nhật 31 Thường niên, Năm A)
Có những đoạn Tin Mừng làm chúng ta nhức nhối, vì mở cho chúng ta những chân trời xa, cho
chúng ta thấy những điều cần làm, phải làm, nhưng chưa làm
Suy niệm:
Nửa sau của bài Tin Mừng
hôm nay
có thể làm chúng ta bị
sốc.
Ðức Giêsu bảo ta đừng để
ai gọi mình là thầy,
vì chỉ có một Thầy, một
vị lãnh đạo là chính Ngài;
cũng đừng gọi ai là cha,
vì chỉ có một Cha là
Thiên Chúa trên trời.
Vậy mà chúng ta vẫn gọi
nhiều vị trong Hội Thánh
là cha, là Ðức Thánh Cha,
là giáo phụ, thượng phụ,
viện phụ...
Chúng ta có làm sai lời
Chúa dạy không?
Ta có phải hiểu theo
nghĩa đen lời của Ðức Giêsu không?
Hội Thánh sơ khai đã
không hề hiểu theo nghĩa đen.
Thánh Phaolô đã coi mình
là cha sinh ra các tín hữu,
đã gọi họ là con (1 Cr
4,14-17; Gl 4,19).
Hội Thánh cũng có những
thầy dạy (Cv 13,1; 1 Cr 12,28),
và những vị lãnh đạo (Cv
15,22; Rm 12,8)
Vậy đâu là điều Ðức Giêsu
muốn nhắn nhủ chúng ta?
Chắc chắn Ngài không hề
muốn phá bỏ
những cơ cấu cần thiết
cho thân thể Hội Thánh,
Ngài cũng không loại bỏ
phẩm trật và quyền hành.
Ngài chỉ muốn chúng ta
đừng quên:
mọi quyền bính trong Hội
Thánh
đều bắt nguồn từ Thiên
Chúa và phải quy về Thiên Chúa.
Nếu có ai làm thầy, làm
người lãnh đạo,
thì vì họ được chia sẻ
quyền làm Thầy của Ðức Giêsu.
Nếu họ được gọi là cha,
thì vì họ được chia sẻ
quyền làm Cha của Thiên Chúa.
Dù có chức vụ hay chức vị
gì trong Hội Thánh,
tôi cũng không được quên
chân lý này:
còn tất cả anh em đều là
anh em với nhau,
con một Cha trên trời.
Chỉ có một vị Thầy là
Ðức Giêsu.
Nhưng Thầy Giêsu lại sống
như bạn của các môn đệ,
như anh em với
họ (Ga 15,14; Mt 12,49-50),
và nhất là như tôi
tớ phục vụ họ (Mt 20,28).
Ðức Giêsu mãi mãi là
gương cho các nhà lãnh đạo.
Quyền lãnh đạo chính là
để phục vụ con người.
Phần đầu của bài Tin Mừng
cho thấy sự giả hình
của một số người
pharisêu, có quyền giảng dạy Lề Luật.
Giả hình là không làm
điều mình dạy người khác,
là dễ dãi với chính mình,
nhưng khắt khe với tha
nhân.
Giả hình là biến việc thờ
phượng Chúa thành thờ mình,
làm việc tốt để người ta
thấy và thán phục.
Khi nhìn khuôn mặt của
người pharisêu giả hình,
tôi thấy tôi: háo danh,
khoa trương, ích kỷ,
dám “đốc” chứ không dám
làm...
Có những đoạn Tin Mừng
làm chúng ta nhức nhối,
vì mở cho chúng ta những
chân trời xa,
cho chúng ta thấy những
điều cần làm, phải làm,
nhưng chưa làm.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
khi đến với nhau,
chúng con thường mang những mặt nạ.
Chúng con sợ người khác thấy sự thật về mình.
Chúng con cố giữ uy tín cho bộ mặt
dù đó chỉ là chiếc mặt nạ giả dối.
Khi đến với Chúa,
chúng con cũng thường
mang mặt nạ.
Có những hành vi đạo đức
bên ngoài
để che giấu cái trống
rỗng bên trong.
Có những lời kinh đọc
trên môi,
nhưng không có chỗ trong
tâm hồn,
và ngược hẳn với cuộc
sống thực tế.
Lạy Chúa Giêsu,
chúng con cũng thường
ngắm mình trong gương,
tự ru ngủ và đánh lừa
mình,
mãn nguyện với cái mặt nạ
vừa vặn.
Xin giúp chúng con cởi bỏ mọi thứ mặt nạ,
đã ăn sâu vào da thịt
chúng con,
để chúng con thôi đánh
lừa nhau,
đánh lừa Chúa và chính
mình.
Ước gì chúng con xây dựng bầu khí chân thành,
để chúng con được lớn lên trong bình an.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
5 THÁNG MƯỜI MỘT
Giáo Xứ Là Một Gia
Đình Ấm Tình Huynh Đệ
Con người hiện đại thường
mất hướng và đi lạc trong việc tìm kiếm tình bạn đích thực. Đời sống gia đình và
xã hội chúng ta thường hoặc quá hời hợt hoặc bị nát vụn do những đổ vỡ. Môi trường
làm việc thì thường rơi vào tình trạng phi nhân hóa. Con người hôm nay khát
khao cảm nghiệm một cuộc gặp gỡ đích thực với người khác, khát khao một tình bạn
ấm áp thực sự.
Đấy không phải chính
là ơn gọi của một giáo xứ đó sao? Chúng ta không được mời gọi để trở thành một
gia đình nồng ấm tình huynh đệ đó sao? (CT 67). Chúng ta không phải là những
anh chị em gắn bó với nhau trong gia đình của Thiên Chúa qua đời sống cộng đoàn
của chúng ta đó sao? (LG 28). Giáo xứ của bạn không chủ yếu là một cơ cấu, một
khu vực địa lý hay một cơ sở nào đó. Tiên vàn giáo xứ là một cộng đoàn các tín
hữu. Giáo Luật mới đã định nghĩa về giáo xứ như thế (GL 515, 1). Bổn phận của một
giáo xứ hôm nay là: trở thành một cộng đoàn, khám phá lại căn tính của mình
trong tư cách là một cộng đoàn. Chỉ một mình bạn thôi, chưa đủ để bạn làm Kitôhữu.
Làm một Kitô hữu có nghĩa là tin và sống đức tin của mình cùng với những người
khác. Vì tất cả chúng ta đều là những chi thể của Thân Mình Chúa Kitô.
Nhưng bằng cách nào một
cộng đoàn được sinh ra? Cần phải ghi nhận rằng không phải dễ dàng tạo lập một cộng
đoàn. Tự bản chất, cộng đoàn có nghĩa là hiệp thông. Dù rằng trong tư cách là đại
diện của giám mục, linh mục đóng một vai trò thiết yếu, nhưng chỉ với vai trò của
linh mục mà thôi thì không đủ để cho mối hiệp thông lớn lên. Cần phải có sự dấn
thân của mọi thành viên trong giáo xứ. Mỗi sự đóng góp của các thành viên đều hết
sức quan trọng. Công Đồng Vatican II đặc biệt nhấn mạnh tầm quan trọng của cộng
đoàn và vai trò nòng cốt của người giáo dân. (LG 32-33; AA 2-3)
5 Tháng Mười Một
Chiếc Quan Tài Con
Tại chùa Tô Châu bên
Tàu có một nhà sư tên gọi là Viên Thủ Trung, nổi tiếng là tu hành đắc đạo.
Nhà sư thường bày trên
án thư, trước chỗ ngồi, một cái quan tài con bằng gỗ bạch đàn, dài độ 3 tấc, có
một cái nắp đậy, mở được. Khách đến chơi trông thấy thường tò mò tra hỏi, nhà
sư trả lời: "Người ta sống tất có chết, mà chết thì vào ngay cái này. Tôi
thực lấy làm lạ, người đời ai cũng chỉ biết có phú quý, công danh, tài sắc thị
hiếu, lo buồn, vất vả suốt đời, chẳng biết đến cái chết là gì... Mỗi khi có việc
không được như ý, tôi cầm lấy cái quan tài mà ngắm, tức khắc tôi cảm thấy được
yên ổn trong tâm hồn ngay".
Con người sở dĩ chạy
theo tiền tài danh vọng đến độ chà đạp trên người khác là bởi vì con người
không nghĩ đến cái chết đang rình rập sau lưng. Khi tử thần xuất hiện, thì con
người không kịp mang theo bất cứ một tài sản nào. Cái chết chỉ trở thành đáng sợ
khi con người còn quá nhiều dính bén đối với trần thế này. Trái lại, được ôm ấp
suy gẫm mỗi ngày, cái chết sẽ trở thành một người bạn đồng hành giúp con người
vượt qua được mọi chán chường, bận tâm thái quá... Trong tất cả mọi sự, người
không ngoan đích thực luôn nghĩ đến cùng đích.
Trích sách Lẽ Sống
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét