18/12/2017
Thứ Hai tuần 3 mùa vọng
Bài Ðọc I: Gr 23, 5-8
"Ta sẽ gây cho
Ðavít một mầm giống công chính".
Bài trích sách Tiên
tri Giêrêmia.
Này đây, đã tới những
ngày Ta gây cho Ðavít một mầm giống công chính, mầm giống này sẽ làm vua thống
trị, sẽ là người khôn ngoan, thực hiện công lý và đức công bình trên đất nước.
Những ngày ấy, Giuđa sẽ được cứu thoát, Israel sẽ được an cư, và chúng sẽ gọi
tên Người là "Chúa công bình của chúng ta".
Chúa phán: "Vì thế,
đã đến ngày chúng không còn nói được rằng: "Chúa hằng sống, Người đã đưa
con cái Israel ra khỏi đất Ai-cập", nhưng chúng nói: "Chúa hằng sống,
Người đã đưa dòng dõi nhà Israel ra khỏi đất Bắc"; (và) từ các nước chúng
bị Ta phân tán, Ta dẫn đưa chúng về quê hương.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 71, 2.
12-13. 18-19
Ðáp: Sự công chính và nền hoà bình viên mãn sẽ triển nở
trong triều đại người tới muôn đời (x. c. 7).
Xướng: 1) Lạy Chúa,
xin ban quyền xét đoán khôn ngoan cho đức vua, và ban sự công chính cho hoàng tử,
để người xét đoán dân Chúa cách công minh, và phân xử người nghèo khó cách
chính trực. - Ðáp.
2) Người sẽ giải thoát
kẻ nghèo khó khỏi tay kẻ quyền thế, và sẽ cứu người bất hạnh không ai giúp đỡ.
Người sẽ thương xót kẻ yếu đuối và người thiếu thốn, và cứu thoát mạng sống kẻ
cùng khổ. - Ðáp.
3) Chúc tụng Chúa là
Thiên Chúa Israel, một mình Người làm những việc lạ lùng. Chúc tụng muôn đời
vinh danh Chúa, khắp hoàn cầu đầy dẫy vinh quang Người. - Ðáp.
Alleluia:
Alleluia, alleluia! -
Lạy Ðấng Thủ lãnh nhà Israel, Ngài đã ban lề luật cho Môsê trên núi Sinai, xin
hãy đến mà ra tay cứu chuộc chúng con. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 1, 18-24
"Chúa Giêsu sẽ
sinh bởi Ðức Trinh Nữ Maria, vị hôn thê của Thánh Giuse, thuộc dòng dõi
Ðavít".
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Matthêu.
Chúa Kitô giáng sinh
trong hoàn cảnh sau đây: Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse, trước khi về
chung sống với nhau, đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse bạn của Bà là
người công chính, không muốn tố cáo Bà, định tâm lìa bỏ Bà cách kín đáo. Nhưng
đang khi định tâm như vậy, thiên thần Chúa hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo:
"Hỡi Giuse, con vua Ðavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì
Maria mang thai bởi phép Chúa Thánh Thần: Bà sẽ hạ sinh một con trai mà ông sẽ
đặt tên là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội".
Tất cả sự kiện này đã
được thực hiện để làm trọn lời Chúa dùng miệng tiên tri phán xưa rằng:
"Này đây một trinh nữ sẽ mang thai và hạ sinh một con trai, người ta sẽ gọi
tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta".
Khi tỉnh dậy, Giuse đã
thực hiện như lời thiên thần Chúa truyền: Ông tiếp nhận bạn mình, nhưng không
ăn ở với nhau cho đến khi Maria sinh con trai đầu lòng, thì Giuse đặt tên con
trẻ là Giêsu.
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Dòng Tộc Của
Chúa Kitô
Có một vị vua kia
đã già cả nhưng lại không có con nối dõi tông đường, nên nhà vua đã ra lệnh mời
các chàng trai trẻ đến cung vua để chọn một người làm dưỡng tử mà sau này sẽ lên
ngôi cai trị. Ðiều kiện thật đơn giản, chỉ cần người đó biết mến Chúa và yêu mến
anh em hết lòng.
Từ một vùng quê xa
xôi, một chàng thanh niên cũng biết đến việc chọn này của nhà vua. Chàng muốn đến
cung vua ứng thi nhưng khốn nỗi chàng chẳng có một bộ áo quần nào xứng cho buổi
triều yết. Sau một thời gian dành dụm, cuối cùng chàng cũng cố gắng sắm cho
mình một bộ đồ tạm xứng với lối triều yết.
Ðến gần hoàng cung,
chàng gặp một ông lão xá lạy bên vệ đường trong bộ quần áo rách rưới. Ông lão
ngửa tay xin bộ đồ chàng đang mặc.
Ðộng lòng thương,
chẳng chút ngần ngừ chàng đổi cho ông già bộ quần áo của mình.
Khi đến gần cửa
thành, lòng chàng lại hoang mang chẳng biết lính canh có cho chàng vào với quần
áo tả tơi như vậy không. May mắn thay chẳng một ai hạch hỏi về quần áo của
chàng và khi đến trước ngai rồng chàng càng ngạc nhiên hơn nữa, vị vua đang ngồi
trên ngai chính là ông già ăn xin đã được chàng giúp cho bộ quần áo. Chàng
không tin vào mắt của mình. Nhưng kìa, vua đang mỉm cười nhìn chàng: "Hỡi
con yêu dấu, hãy đến đây, ta đang chờ con".
Anh chị em thân mến!
Chàng thanh niên đã được
chọn làm dưỡng tử và làm thừa kế nhờ tấm lòng quảng đại bao dung của anh. Hôm
nay thánh sử Matthêu cũng tường thuật việc Vua trời đất chọn lựa một người Cha
cho mình trước khi Ngài đến ở với con người.
Xét về nguồn gốc,
thánh Giuse đích thực thuộc dòng dõi David, hậu duệ của vua David. Ðấng Cứu Thế
sẽ sinh ra trong dòng dõi này để ứng nghiệm lời các tiên tri đã báo trước:
"Này đây đã tới ngày Ta gây cho David một mầm giống công chính, mầm giống
này sẽ làm Vua thống trị, sẽ là người khôn ngoan thực hiện công lý và công bình
trên đất nước". Hoặc ở một chỗ khác: "Chúa sẽ tạo lập cho David một
nhà. Nhà của Người và triều đại của Người sẽ vững chắc đến muôn đời. Ngôi báu của
Người sẽ vững bền mãi mãi".
Tuy nhiên, hậu duệ của
David không phải chỉ có một mình Giuse nhưng đã có hàng trăm hàng ngàn hậu duệ ấy
Giuse đã được chọn làm dưỡng tử của Con Thiên Chúa, vì Ngài quảng đại và bao
dung.
Một gia đình sống đời
vợ chồng ai lại chẳng mơ ước đến chuyện chung chăn gối, thế mà Giuse lại ký kết
hôn ước với một người đã thề hứa suốt đời không biết đến người Nam. Và rồi người
Nữ mà Ngài hết lòng yêu mến và quí trọng ấy bỗng dưng lại mang thai. Nàng là
người đức hạnh đoan trang sao lại bụng mang dạ chửa cách lén lút?
Theo luật Do Thái,
Giuse có thể tố cáo người Nữ ấy trước Hội Trường Do Thái để nàng bị ném đá vì tội
ngoại tình. Nhưng do tấm lòng bao dung ngài đã không làm thế. Ngài chỉ muốn âm
thầm rút lui, không cãi vã to tiếng. Ngài tôn trọng nàng, ngài muốn để mặc cho
nàng tự phân xử.
Ðang khi định tâm như
vậy thì Thiên Chúa đã ra tay can thiệp, vì ngần ấy diễn tiến cũng đủ để cho
Giuse làm dưỡng tử của Ngôi Hai Thiên Chúa làm người. Lời của sứ thần đã soi
sáng giải đáp thắc mắc bấy lâu đang dày vò tâm hồn Giuse. Hơn thế nữa, sứ thần
đã trao cho Giuse nhiệm vụ đặt tên cho con trẻ mới sinh. Với người Do Thái chỉ
có người cha là người có quyền tối hậu trong việc đặt tên cho đứa trẻ, dù cho
bà con thân thuộc có muốn gì đi nữa khi chưa có ý kiến của người cha thì việc đặt
tên cũng không mang lại giá trị gì.
Như chúng ta đã thấy
buổi lễ đặt tên cho Gioan Tẩy Giả cũng phải do người cha đặt tên. Ở đây cũng vậy,
Giuse được Thiên Chúa ra tay can thiệp để lòng yêu thương nơi Ngài không bị rạn
nứt, sứt mẻ, mà từ đây lòng yêu thương đã có dịp bộc lộ trọn vẹn. Giuse đã đón
nhận người bạn đời về nhà mình và hết lòng yêu thương chăm sóc cho nàng cũng
như cho người Con nàng đang cưu mang.
Thật thế, cuộc đời của
mỗi người cũng có lúc căng thẳng, phân vân, đau khổ vì phải chọn lựa quyết định,
nhưng Thiên Chúa Ngài đã thông suốt tất cả những giai cấp này, thế nhưng Ngài vẫn
im lặng chờ đợi. Ngài chờ phản ứng nơi mỗi người chúng ta do yêu thương hay giận
ghét, nếu chúng ta xử sự với tấm lòng yêu thương quảng đại thì chắc chắn Ngài sẽ
kịp thời trợ giúp và chẳng bao giờ Ngài để cho lòng yêu thương bị rạn nứt sứt mẻ.
Trong mùa đón chờ vị Vua tình yêu giáng thế, ước mong rằng mỗi người trong
chúng ta sẽ luôn dùng thái độ bao dung quảng đại làm kim chỉ nam hướng dẫn các
suy tưởng và hành động của mỗi người chúng ta.
(Trích trong ‘Suy Niệm
Phúc Âm Hằng Ngày’ - Radio Veritas Asia)
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Ngày 18 tháng 12 MV
Bài đọc: Jer
23:5-8; Mt 1:18-24.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Công chính và tội lỗi
Mọi người đều phạm tội.
Làm thế nào để con người trở nên công chính trước mặt Thiên Chúa? Con người có
thể trở nên công chính bằng việc giữ luật không? Thánh Phaolô quả quyết rằng
“Không!” vì không ai có thể giữ trọn vẹn Lề Luật. Chỉ có niềm tin vào Thiên
Chúa và vào Đức Kitô, mới có thể làm con người nên công chính. Trong Bài Đọc I,
Tiên Tri Jeremiah tiên báo: Đức Chúa (Chúa Kitô) là sự công chính của chúng ta.
Trong Phúc Âm, Thánh Giuse là “người công chính,” muốn bỏ Mẹ Maria cách kín
đáo; nhưng khi được Thiên Thần mộng báo, đã vâng theo ý Thiên Chúa và chấp nhận
Bà Maria và Chúa Giêsu về nhà mình.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Đức Chúa, sự công chính của chúng ta.
1.1/ Giòng dõi David từ
chỗ hy vọng tan tành tới chỗ hòan tất của lời hứa: Khi người Do-Thái sống trong nơi lưu đày, chắc họ đã nhận
thấy hy vọng của họ vào những gì Thiên Chúa đã chúc lành cho họ qua Tổ-phụ
Jacob và những lời tiên tri của Isaiah, quyển I, Micah, và các tiên tri khác bị
tan tành theo mây khói. Làm sao có thể khôi phục lại đất nước trong hòan cảnh
lưu đày? Làm sao có thể khôi phục lại vương triều của giòng dõi Judah để Đấng Cứu
Thế xuất hiện? Nhưng Tiên Tri Jeremiah vẫn hy vọng: “Này, sẽ tới những ngày - sấm
ngôn của Đức Chúa - Ta sẽ làm nẩy sinh cho nhà David một chồi non chính trực. Vị
vua lên ngôi trị vì sẽ là người khôn ngoan tài giỏi trong xứ sở, vua sẽ thi
hành điều chính trực công minh.”
1.2/ Vua công chính: “Thời bấy giờ, Judah sẽ được cứu thoát, Israel được sống
yên hàn.
Danh hiệu người ta tặng vua ấy sẽ là: "Đức Chúa, sự công chính của chúng ta."
Danh hiệu người ta tặng vua ấy sẽ là: "Đức Chúa, sự công chính của chúng ta."
(1) Đấng đưa con cái
Israel lên khỏi đất Ai-Cập: chỉ biến cố Xuất Hành, khi Thiên Chúa đưa dân ra khỏi
đất nô lệ của Ai-Cập qua sự lãnh đạo của Moses và Aaron.
(2) Đấng đã đưa dòng
dõi nhà Israel ra khỏi đất phương Bắc: chỉ sự hồi hương và tái thiết quốc gia
cùng Đền Thờ, khi Thiên Chúa giải thóat dân khỏi cảnh lưu đày ở Babylon.
2/ Phúc Âm: Chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội.
Tin Mừng Matthêu tường
thuật hòan cảnh đính hôn của cha mẹ Chúa Giêsu như sau: “Sau đây là gốc tích Đức
Giêsu Kitô: Bà Maria, mẹ Người, đã đính hôn với ông Giuse.
Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa
Thánh Thần. Ông Giuse, chồng bà, là người công chính và không muốn tố giác bà,
nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo.”
2.1/ Nỗi khó khăn của
Thánh Giuse: Để hiểu lời tường thuật của
Matthêu, chúng ta phải hiểu phong tục của Do-Thái liên quan tới việc kết nghĩa
vợ chồng. Giống như phong tục Việt-Nam, có 3 giai đọan:
(1) Hứa hôn: Khi hai
trẻ còn nhỏ, cha mẹ hai bên muốn kết nghĩa sui gia; nên cha mẹ hai bên hứa hẹn
với nhau, sẽ gả con cho nhau khi hai trẻ tới tuổi lập gia đình. Đây chỉ là một
lời hứa và không bị ràng buộc về khía cạnh pháp lý. Nếu hai trẻ không đồng ý
hay hai cha mẹ đổi ý, lời hứa không còn hiệu lực.
(2) Đính hôn: Đó là từ
chính xác Matthêu dùng để chỉ hòan cảnh của Ông Giuse và Bà Maria hôm nay. Khi
gia đình hai bên và hai trẻ đồng ý tiến tới, họ bước vào giai đọan đính hôn để
tìm hiểu nhau kỹ càng hơn trong thời hạn một năm. Trong giai đọan này, theo luật
Do-Thái, lời hứa bị ràng buộc, hai người được coi như vợ chồng; mặc dù chưa được
“ăn ở” với nhau như vợ chồng. Nếu chồng không tiến tới, ông phải làm đơn xin ly
dị và nêu rõ lý do. Nếu chồng chết trong giai đọan này, người vợ được gọi là
“góa phụ đồng trinh.”
(3) Thành hôn: Sau thời
hạn đính hôn một năm, hai người tiến tới giai đọan chính thức thành vợ chồng.
Nỗi khó khăn của Ông
Giuse, như trình thuật nói, vì ông là người công chính nên ông không thể dung
thứ tội lỗi cho Bà Maria. Theo Lề Luật, Ông phải tố cáo Bà Maria để bị ném đá
cho tới chết vì đứa con trong bào thai không phải là của Ông. Nhưng Ông chắc
cũng linh tính một trường hợp đặc biệt liên quan đến Bà Maria và đứa con trong
bụng, nên cuối cùng Ông quyết định lìa bỏ Bà cách âm thầm kín đáo.
2.2/ Ý muốn của Thiên
Chúa: Trong khi Ông đang toan tính như vậy,
thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng: "Này ông Giuse, con
cháu David, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do
quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ
là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ." Tên Giêsu
là tiếng Hy-Lạp dịch từ tiếng Do-Thái Joshua, có nghĩa là “giải thóat hay cứu độ.”
Chúa Giêsu được gọi là Đấng Giải Thóat, Cứu Thế, hay Chuộc Tội, vì Ngài gánh tội
và giải thóat cho nhân lọai khỏi tội.
Sứ Thần của Thiên Chúa
biết những gì Ông Giuse đang suy nghĩ và cung cấp câu trả lời cho Ông: người
con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Để hiểu “quyền năng Chúa
Thánh Thần,” chúng ta cần hiểu vai trò của Chúa Thánh Thần trong chương trình của
Thiên Chúa. Truyền thống Do-Thái hiểu 4 công việc chính của Thánh Thần:
(1) Ngài là Sự Thật,
Ngài đem sự thật từ Thiên Chúa đến cho con người. Chúa Giêsu hứa với các môn đệ
Ngài: “Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn.
Người sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ
nói lại, và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến” (Jn 16:13).
(2) Ngài làm cho con
người hiểu và nhận ra sự thật. Thánh Gioan hiểu rõ: Nếu không có Thánh Thần
giúp sức, con người không thể hiểu những gì Chúa Giêsu mặc khải: “Nhưng Đấng Bảo
Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi
điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Jn 14:26).
(3) Ngài hiện diện với
Thiên Chúa ngay từ khi sáng tạo vũ trụ. Ngài là hơi thở của Thiên Chúa: để phát
ra Lời (Ngôi Hai) và ban hơi thở và sự sống cho muôn lòai. Tác giả của Thánh Vịnh
33 hiểu rõ sứ vụ của Ba Ngôi Thiên Chúa trong việc sáng tạo: “Một Lời Chúa
phán làm ra chín tầng trời, một hơiChúa thở tạo thành muôn tinh tú”
(Psa 33:6). Sự khôn ngoan của Thiên Chúa phải có Hơi (pneuma) và Lời (logos) để
tạo thành vũ trụ.
(4) Ngài cũng là
nguyên nhân chính của “đổi mới và tái tạo.” Thị kiến của Tiên Tri Ezekiel về
“Ruộng Xương Khô” là một ví dụ cho công việc này của Thánh Thần: “Người lại bảo
tôi: "Ngươi hãy tuyên sấm gọi thần khí; tuyên sấm đi, hỡi con người! Ngươi
hãy nói với thần khí: Đức Chúa là Chúa Thượng phán thế này: Từ bốn phương trời,
hỡi thần khí, hãy đến thổi vào những người đã chết này cho chúng được hồi
sinh." Tôi tuyên sấm như Người đã truyền cho tôi. Thần khí liền nhập vào
những người đã chết; chúng được hồi sinh và đứng thẳng lên: Đó là cả một đạo
quân lớn, đông vô kể” (Eze 37:9-10). Cùng với Chúa Thánh Thần, Chúa Giêsu tới để
đổi mới và ban sinh lực cho con người. Ngài tiêu diệt tội lỗi trong con người
cũ và ban ơn thánh để làm cho con người trở nên con người mới tinh tuyền và
thánh thiện.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Vì chúng ta đều phạm
tội, chúng ta không thể trở nên công chính bằng sức mình.
- Chúng ta chỉ có thể
trở nên công chính bằng tin vào Đức Kitô, Đấng gánh tội và giải thóat chúng ta
khỏi mọi quyền lực của tội lỗi.
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.
18/12/2017
THỨ HAI TUẦN 3 MV
Mt 1,18-24
Mt 1,18-24
VÂNG THEO Ý CHÚA
“Trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi
tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta.” Khi tỉnh giấc,
ông Giuse làm như sứ thần dạy và đón vợ về nhà.” (Mt 1,23-24)
Suy niệm: Các sách
Tin Mừng không tường thuật bất kỳ lời nào của thánh Giu-se, ngay cả lúc tìm thấy
trẻ Giê-su trong Đền thờ. Sự thinh lặng ấy, đối với gia đình, hàm chứa yêu
thương; còn đối với Thiên Chúa, có nghĩa là vâng phục, vâng phục khi chân thành
giữ Luật của Thiên Chúa. Con trẻ Giê-su được tám ngày tuổi, ngài giữ luật cắt
bì và đặt tên cho con. Con trẻ được bốn mươi ngày tuổi, ngài đem con lên Đền Thờ
để tiến dâng con cho Thiên Chúa cũng đúng theo luật. Thinh lặng là bầu khí cho
cuộc sống kết hợp thân mật với Chúa; vì thế mà thánh Giu-se dễ dàng nhận ra ý
Chúa và vâng theo. Khi băn khoăn về bào thai trong lòng Ma-ri-a, Giu-se tìm kiếm
Thiên Chúa và vâng phục ý Ngài để đón nhận Ma-ri-a. Khi gia đình gặp cơn nguy
khốn, thánh Giu-se tìm gặp Thiên Chúa để vâng theo, đem gia đình thoát cơn bách
hại. Tìm kiếm thánh ý Thiên Chúa và thinh lặng vâng theo là gương mẫu của thánh
Giu-se cho chúng ta.
Mời Bạn: Mùa Vọng nhắc nhở chúng
mình đón nhận và vâng phục Chúa Giê-su, Con Thiên Chúa làm người. Theo gương
thánh Giu-se, bạn gìn giữ lề luật Thiên Chúa và luôn suy niệm tìm thánh ý Ngài.
Chia sẻ: Bạn có sáng kiến gì để thúc đẩy việc đọc và suy niệm Lời
Chúa?
Sống Lời Chúa: Trang hoàng bàn thờ và đặt
Kinh Thánh ở chỗ trang trọng như sự khởi đầu chương trình đọc, suy niệm và sống
với Chúa Giê-su.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin ngự đến và biến đổi gia đình con kể từ hôm
nay.
(5 phút Lời Chúa)
Đừng ngại (18.12.2017 – Thứ hai)
Ðể Con Thiên
Chúa làm người, cần tiếng Xin Vâng của Maria, nhưng cũng cần tiếng Xin Vâng khiêm tốn của Giuse.
Suy niệm:
Tin Mừng Luca nói đến
việc truyền tin cho Ðức Mẹ,
còn Tin Mừng Mátthêu lại
nói đến việc truyền tin cho Giuse.
Sứ thần Chúa giải tỏa nỗi
lúng túng và bối rối của ông,
khi báo cho ông hay
thai nhi nơi người vợ
chưa cùng ông chung sống
là do quyền năng Thánh
Thần.
Sứ thần mời gọi ông cứ
đón nhận Maria làm vợ,
và chấp nhận thai nhi như
con mình.
Giuse đã nói tiếng Xin
Vâng.
Ông đón lấy những mầu
nhiệm mà ông không hiểu hết.
Maria là một mầu nhiệm.
Người con sắp sinh ra bởi
Thánh Thần cũng là mầu nhiệm.
Giuse đã để cho các mầu
nhiệm vây bọc mình.
Cả cuộc đời Giuse là
chiêm ngắm các mầu nhiệm
diễn ra một cách bình
thường, sát bên ông.
Và chính cuộc đời của ông
cũng là một mầu nhiệm.
Giuse chấp nhận ý định
của Thiên Chúa
dù nó phá vỡ ước mơ ông
ấp ủ từ lâu.
Ông muốn làm chồng cô
Maria, người ông yêu mến,
nhưng Thiên Chúa lại muốn
ông làm bạn của cô thôi.
Ông muốn là cha của một
đàn con đông đúc,
nhưng ông chỉ là cha nuôi
của Ðức Giêsu.
Bề ngoài, Giuse vẫn gánh
trách nhiệm làm chồng, làm cha,
nhưng căn tính sâu xa của
ông, ít ai biết.
Ông sống một mình mầu
nhiệm đời ông trước Thiên Chúa.
Giuse đã mau mắn nói
tiếng Xin Vâng.
Ông luôn bị đánh thức vào
lúc đang an nghỉ.
Sứ thần Chúa bảo ông trỗi
dậy để làm điều gì đó.
Ông bỏ dở giấc ngủ và lên
đường giữa đêm khuya.
Từ Nadarét lên Bêlem, từ
Bêlem đi Ai cập, rồi lại trở về.
Giuse chịu trách nhiệm về
những kho báu Chúa giao.
Vâng phục một cách đơn
sơ: đó là thái độ của Giuse.
Hôm nay có thể Chúa không
nói với tôi qua giấc mơ,
nhưng qua bao con đường
khác,
rất riêng tư, mà chỉ mình
tôi cảm nhận được.
Nếu tôi mau mắn nói tiếng
Xin Vâng như Giuse,
tôi sẽ góp phần vào việc
cứu độ cả thế giới.
Ðể Con Thiên Chúa làm
người, cần tiếng Xin Vâng của Maria,
nhưng cũng cần tiếng Xin
Vâng khiêm tốn của Giuse.
Nhận Maria đang mang thai
về nhà mình,
và đặt tên cho Hài Nhi
trong tư cách một người cha:
những hành động ấy đã cho
Giuse một chỗ đứng đặc biệt
trong lịch sử cứu độ.
Chúng ta không thể đoán
được điều gì sẽ xảy ra,
nếu như Giuse cứ cương
quyết bỏ Ðức Maria.
Nhờ Giuse, Ðức Giêsu đã
là người thuộc nhà Ðavít.
Những lời hứa của Thiên
Chúa đã ứng nghiệm (x. 2Sm 7,13).
Cùng với Giuse, xin được
gọi tên Con Thiên Chúa là Giêsu.
Cùng với cả vũ hoàn, xin
gọi tên Ngài là Emmanuel.
Giêsu là
Thiên-Chúa-ở-với-ta cho đến tận thế.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
sống cho Chúa thật là điều khó.
Thuộc về Chúa thật là một thách đố cho con.
Chúa đòi con cho Chúa tất cả
để chẳng có gì trong con lại không là của Chúa.
Chúa thích lấy đi những gì con cậy dựa
để con thực sự tựa nương vào một mình Chúa.
Chúa thích cắt tỉa con khỏi những cái rườm rà
để cây đời con sinh thêm hoa trái.
Chúa cương quyết chinh phục con
cho đến khi con thuộc trọn về Chúa.
Xin cho con dám ra khỏi mình,
ra khỏi những bận tâm và tính toán khôn ngoan
để sống theo những đòi hỏi bất ngờ của Chúa,
dù phải chịu mất mát và thua thiệt.
Ước gì con cảm nghiệm được rằng
trước khi con tập sống cho Chúa
và thuộc về Chúa
thì Chúa đã sống cho con
và thuộc về con từ lâu. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
HÃY NÂNG TÂM HỒN LÊN
18 THÁNG MƯỜI HAI
Con Người Góp Phần
Hoàn Thành Việc
Thiên Chúa Đến
Trong biến cố thăm viếng,
trước hết Êlizabét ca ngợi lòng tin của Đức Ma-ri-a: “Em thật có phúc vì đã tin
rằng mọi điều Chúa phán cùng em sẽ được thực hiện” (Lc 1,45).
Thật vậy, khi được
truyền tin, Đức Maria đã ưng thuận và bày tỏ lòng vâng phục trong đức tin. Sự
ưng thuận này – tiếng ‘fiat’ này của Mẹ – là khoảnh khắc có tầm quyết định. Mầu
nhiệm Nhập Thể là một mầu nhiệm thần linh, song đồng thời đó cũng là một mầu
nhiệm của con người. Quả vậy, Đấng mặc lấy xác phàm ấy chính là Con Thiên Chúa,
là Ngôi Lời Thiên Chúa. Tuy nhiên, đồng thời, thân xác của Người cũng hoàn toàn
là thân xác nhân loại : Đây là điều kỳ diệu trong nhiệm cục cứu độ của Thiên
Chúa.
Vào chính khoảnh khắc
mà Đức Ma-ri-a nói lên lời ‘fiat’ (xin vâng): “Xin thực hiện cho tôi như lời sứ
thần nói,” thì Chúa Con có thể thưa lên với Chúa Cha: “Cha đã chuẩn bị cho con
một thân thể.” Như vậy, việc Thiên Chúa đến cũng đã được hoàn tất xuyên qua
hành động của con người, xuyên qua niềm vâng phục trong đức tin.
Hạnh Các Thánh
18 Tháng Mười Hai
Chân Phước Anthony
Grassi
(1592-1671)
(1592-1671)
Anthony mồ côi cha khi
lên 10 tuổi, nhưng ngài đã học được nơi người cha sự sùng kính Ðức Mẹ Loreto.
Khi còn là học sinh trung học, ngài thường đến nhà thờ của các cha Oratorian,
và gia nhập dòng này khi mới 17 tuổi.
Từng nổi tiếng là một
học sinh giỏi, nên không bao lâu ngài được mệnh danh là "cuốn tự điển sống"
trong cộng đồng tu sĩ, ngài có thể hiểu Kinh thánh và thần học cách mau chóng.
Trong một thời gian, ngài bị dằn vặt bởi sự quá đắn đo cân nhắc, nhưng cho đến
khi cử hành Thánh Lễ đầu tiên, sự bình thản đã chiếm ngự toàn thể con người
ngài.
Vào năm 1621, khi 29
tuổi, Anthony bị sét đánh khi đang cầu nguyện trong nhà thờ ở Loreto. Ngài được
đưa vào bệnh viện, và ai cũng nghĩ là ngài sẽ chết. Một vài ngày sau, khi tỉnh
dậy, ngài nhận ra rằng căn bệnh đau bao tử dai dẳng của ngài đã biến mất. Quần
áo cháy nám của ngài được tặng cho nhà thờ Loreto như một kỷ niệm biến cố lớn
trong đời.
Quan trọng hơn nữa,
ngài cảm thấy cuộc đời mình lệ thuộc hoàn toàn vào Thiên Chúa. Sau đó, hàng năm
ngài đều hành hương đến Loreto để dâng lời cảm tạ.
Ngài cũng nổi tiếng là
cha giải tội đơn sơ và thẳng thắn, lắng nghe người xưng tội, và chỉ bảo họ sống
phù hợp với lương tâm. Năm 1635, ngài được chọn làm bề trên Tu Viện Fermo, và
được tái đắc cử nhiều nhiệm kỳ cho đến khi ngài qua đời. Ngài là vị bề trên trầm
lặng và hiền từ không biết thế nào là khắt khe. Nhưng quy luật của dòng luôn được
ngài duy trì và buộc mọi tu sĩ phải tôn trọng.
Ngài từ chối các chức
vụ dân sự ở ngoài xã hội, và dùng thời giờ để đi thăm người đau yếu, người hấp
hối hay bất cứ ai cần đến sự giúp đỡ của ngài. Khi về già, ngài được Chúa ban
cho ơn nhận biết tương lai, là một ơn sủng ngài dùng để cảnh giác hay khuyên bảo
người khác. Nhưng tuổi tác cũng đem lại nhiều thử thách. Ngài phải chấp nhận sự
mất mát các khả năng bên ngoài. Trước hết là khả năng rao giảng, là điều đương
nhiên xảy đến khi ngài bị rụng răng. Sau đó, ngài không còn nghe xưng tội được
nữa. Sau cùng, sau một lần bị ngã, ngài phải nằm liệt giường. Chính đức tổng
giám mục phải đến ban Mình Thánh cho ngài hằng ngày. Một trong những công việc
sau cùng của ngài là hoà giải được sự tranh cãi kịch liệt giữa hai thầy dòng.
Trích từ
NguoiTinHuu.com
18 Tháng Mười Hai
Cái Nhìn Của Một Tướng Lãnh
Ðại tướng Marbot,
trong tập ký sự, có kể lại một hôm, khi còn là thiếu úy, vua Nã Phá Luân sai
ông làm một việc cực kỳ nguy hiểm. Ðó là giữa đêm khuya, luồn qua bọn lính tuần
tiễu đối phương, bắt một người lính Áo đứng canh bên kia bờ sông Danube, tra khảo
để xem tình thế của địch quân. Sau bao nhiêu cố gắng không thể tưởng tượng được,
toán quân của thiếu úy vượt qua được khúc sông và bắt được ba người lính Áo.
Sau khi đã hoàn thành công tác, họ đẩy thuyền ra xa, chèo về. Bỗng dòng nước cuốn
mạnh đẩy một gốc cây lớn xô mạnh vào thuyền. Tiếng động đó đã báo động bọn lính
tuần tiễu Áo. Họ vùng lên bắn xối xả.
Trong cơn nguy biến
cùng cực ấy, viên thiếu úy bỗng nhìn thấy một ánh lửa tỏa ra từ sườn núi chỗ
đóng quân bên kia bờ. Viên thiếu úy đã hiểu rằng, Nã Phá Luân đã theo dõi cuộc
xô xát và đang chăm chú nhìn từ cửa sổ của ông.
Ðôi mắt phượng
hoàng của Nã Phá Luân đã xé tan bóng tối để gửi đến cho những người lính trẻ sự
cổ vũ khuyến khích. Viên thiếu úy có cảm tưởng như nhà vua đã quên hết cả một đạo
binh để chỉ nhìn về phía anh. Sự chăm chú theo dõi của nhà vua đã đem lại cho
những người lính trẻ sự phấn khởi để giúp họ vượt qua được khó khăn và trở về
an toàn.
Một cái nhìn của một vị
tướng lãnh đã có sức nâng đỡ người lính chiến giữa trận địa như thế, cũng vậy,
Chúa cũng đã chăm chú theo dõi và nhìn mỗi người chúng ta như thể chỉ có mỗi
người chúng ta là đáng được chú ý. Thiên Chúa không chăm sóc chúng ta như chăm
sóc một đàn cừu trong đó mỗi con vật chỉ là một con số. Thiên Chúa yêu thương
chúng ta bằng một tình yêu biệt loại. Người gọi tên từng người trong chúng ta.
Người đối xử với chúng ta như thể chỉ có ta là người duy nhất hiện hữu trên trần
gian này.
Trích sách Lẽ Sống
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét