17/01/2018
Thứ Tư tuần 2 thường niên
Thánh Antôn viện phụ.
Lễ nhớ.
* Thánh Antôn là tổ phụ của các đan sĩ Ai Cập. Người chào đời quãng năm 250. Sau khi song
thân qua đời, đáp lại lời mời gọi của Tin Mừng: “Nếu anh muốn nên hoàn thiện thì hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo rồi hãy đến theo tôi”, người rút lui vào sa mạc sống đời khổ chế và đền tội. Nhiều bạn hữu đã đến theo người, sống nếp sống khắc khổ để có thể kết hợp mật thiết với Thiên Chúa. Người cũng có
công nâng đỡ các tín hữu trong thời kỳ hoàng đế Đi-ô-cơ-lê-xi-a-nô bách hại đạo, người cũng trợ giúp thánh Athanaxiô đối phó với phái Ariô. Người qua đời năm 356.
Bài Ðọc I: (năm
II) 1 Sm 17, 32-33. 37. 40-51
"Ðavít đã dùng
dây ném đá và đá mà thắng tên Philitinh".
Trích sách Samuel quyển
thứ nhất.
Trong những ngày ấy,
khi người ta dẫn Ðavít đến trước Saolê, thì Ðavít nói với Saolê rằng: "Ðừng
ai lo sợ gì cả. Tôi đây, tôi tớ của bệ hạ, tôi sẽ ra chiến đấu với tên
Philitinh". Saolê nói cùng Ðavít rằng: "Ngươi không thể chống cự và
chiến đấu với tên Philitinh đó đâu, vì ngươi còn bé nhỏ, mà anh ta là một chiến
sĩ từ lúc còn niên thiếu".
Ðavít liền đáp:
"Chúa đã từng cứu tôi thoát khỏi nanh vuốt sư tử và gấu, Người sẽ giải
thoát tôi khỏi tay tên Philitinh đó". Saolê mới nói với Ðavít: "Ngươi
hãy đi và Chúa ở cùng ngươi".
Ðavít lấy cây gậy mà
chàng quen cầm trong tay. Chàng lựa năm viên đá bóng láng dưới khe nước, bỏ vào
bị chăn chiên mà chàng thường đeo bên mình.
Tay chàng cầm trành
ném đá ra ứng chiến với tên Philitinh. Tên Philitinh có vệ sĩ cầm khí giới đi
trước, tiến lại gần Ðavít. Khi tên Philitinh thấy Ðavít, thì khinh bỉ chàng, vì
chàng là một thanh niên hồng hào đẹp trai. Tên Philitinh nói với Ðavít:
"Tao có phải là chó đâu mà mày cầm gậy đến với tao?" Rồi tên
Philitinh nhân danh các thần của y mà nguyền rủa Ðavít. Anh ta nói với Ðavít:
"Mày hãy lại đây, tao sẽ phân thây mày cho chim trời và thú đồng ăn thịt".
Ðavít đáp lại:
"Còn mi, mi cầm gươm, giáo, lao mà đến với ta, thì ta đến với mi nhân danh
Chúa các đạo binh, Thiên Chúa các đoàn quân Israel mà hôm nay mi đã nhục mạ.
Chúa sẽ trao mi vào tay ta, ta sẽ đánh và chặt đầu mi, và hôm nay ta sẽ ném
thây quân sĩ Philitinh cho chim trời và thú đồng, để khắp hoàn cầu biết rằng
Israel có một Thiên Chúa, và toàn thể cộng đồng này nhận biết rằng: "Chúa
không dùng gươm giáo mà giải phóng, vì Người là chủ trận chiến, Người sẽ trao
các ngươi vào tay chúng ta".
Vậy tên Philitinh vùng
lên, tiến lại gần Ðavít, và Ðavít hối hả chạy đến nghinh chiến với tên
Philitinh. Ðavít thò tay vào bị, lấy viên đá, rồi dùng dây ném đá mà phóng vào
trán tên Philitinh, viên đá trúng lủng trán hắn, và hắn liền té sấp xuống đất.
Và Ðavít đã dùng dây ném đá và đá mà chiến thắng và hạ sát tên Philitinh. Nhưng
vì Ðavít không có sẵn gươm, nên cậu chạy lại đứng trên mình tên Philitinh, lấy
gươm của hắn, rút ra khỏi vỏ và chặt đầu hắn.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 143, 1. 2.
9-10
Ðáp: Ôi Ðá Tảng của con, chúc tụng Chúa! (c. 1a)
Xướng: 1) Ôi Ðá Tảng của
con, chúc tụng Chúa, là Ðấng rèn luyện cho tay con biết đấu tranh, cho các ngón
tay con thiện nghề chinh chiến. - Ðáp.
2) Chúa là Tình thương
và là chiến luỹ, là Ðấng phù trợ và giải phóng con. Chúa là khiên thuẫn, là chỗ
con nương náu, Ngài bắt chư dân phải khuất phục con. - Ðáp.
3) Ôi Thiên Chúa, con
sẽ hát mừng Ngài bài ca mới, với cây đàn mười dây, con sẽ ca mừng Ngài, vì Ngài
đã ban cho các vua chiến thắng, đã giải phóng Ðavít là tôi tớ của Ngài. - Ðáp.
Alleluia: Ga 6, 64b và
69b
Alleluia, alleluia! -
Lạy Chúa, lời của Chúa là thần trí và là sự sống. Chúa có những lời ban sự sống
đời đời. - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 3, 1-6
"Trong ngày
Sabbat được cứu sống hay là giết chết?"
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu lại
vào hội đường và ở đó có một người khô bại một tay. Người ta để ý quan sát xem
Chúa có chữa bệnh trong ngày Sabbat không, để tố cáo Người. Chúa bảo người có
tay khô bại rằng: "Ngươi hãy đứng ra giữa đây". Rồi Người bảo họ: "Trong
ngày Sabbat được làm sự lành hay sự dữ? Ðược cứu sống hay là giết chết?"
Nhưng họ thinh lặng. Bấy giờ Người thịnh nộ đưa mắt nhìn họ và buồn phiền vì
lòng họ chai đá, Người bảo bệnh nhân rằng: "Hãy giơ tay ra". Người đó
giơ tay ra và tay anh ta được lành. Lập tức, những người biệt phái đi ra bàn
tính với những kẻ thuộc phái Hêrôđê chống đối Người và tìm cách hại Người.
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Phản ứng của
Chúa Giêsu
Trong diễn văn đọc
trước ngoại giao đoàn bên cạnh Toà Thánh nhân dịp Năm Mới 1996, Ðức Gioan
Phaolô II đã mạnh mẽ tố giác các đàn áp Kitô hữu; Ngài nhận định như sau:
"Người ta không thể đàn áp mãi hàng triệu tín hữu, nghi ngờ hoặc chia rẽ họ,
mà những hành động đó lại không đưa đến những hậu quả tiêu cực, chẳng những đối
với uy tín của các quốc gia trên trường quốc tế, mà cả trong nội bộ các xã hội
liên hệ; trái lại, những mối quan hệ tốt giữa các Giáo Hội và nhà nước góp phần
vào sự hòa hợp mọi thành phần trong xã hội".
Vừa đàn áp, vừa kêu gọi
tin tưởng, chỉ có người mù quáng mới không thấy được sự mâu thuẫn trong hành động
của mình. Người mù lòa ít ra còn biết mình không thấy, nhưng kẻ mù quáng vốn có
mắt, nhưng lại không nhìn thấy.
Trong Tin Mừng hôm
nay, Chúa Giêsu có một phản ứng trước sự mù quáng của những người Biệt phái.
Chúng ta cứ tưởng tượng một bệnh nhân đang quằn quại trong đau khổ cần được một
bàn tay săn sóc chữa trị, thì người ta lại nại đến luật ngày Hưu lễ để bắt bẻ
và cấm chế. Thánh sử Marcô như muốn tô đậm phản ứng của Chúa trước thái độ mù
quáng như thế, khi viết: "Chúa Giêsu giận dữ rảo mắt nhìn họ, buồn khổ vì
lòng chai đá của họ". Chúa Giêsu vốn là Ðấng hiền lành và khiêm nhường
trong lòng. Chúng ta hãy chiêm ngưỡng thái độ của Ngài đối với những người khốn
khổ, các bệnh nhân, các tội nhân, những người bị đẩy ra bên lề xã hội, Ngài đồng
bàn với họ, cảm thông với họ, tha thứ cho họ.
Chúa Giêsu tỏ ra cảm
thông tha thứ đối với mọi tội lỗi của con người, duy chỉ có một thái độ Ngài
không bao giờ chấp nhận và tha thứ, đó là thói giả hình và mù quáng. Do yếu đuối,
con người sa ngã là chuyện bình thường, nhưng nhắm mắt khép kín tâm hồn để
không nhận ra mình yếu đuối cũng như nhân danh đạo lý và pháp luật để khước từ
yêu thương, để loại trừ người khác, Chúa Giêsu gọi đó là tội chống lại Thánh Thần,
tội không thể tha thứ được. Thật thế, khi con người không còn nhận ra thân phận
tội lỗi yếu đuối của mình, khi con người khước từ yêu thương, thì mọi tương
quan với Thiên Chúa cũng hoàn toàn bị cắt đứt. Chúa Giêsu không ngừng lên án
thái độ giả hình và mù quáng của những người Biệt phái; Ngài cũng luông kêu gọi
các môn đệ đề cao cảnh giác trước men Biệt phái.
Nguyện xin Chúa giúp
chúng ta ghi tạc Lời Chúa để tránh khỏi men giả hình và mù quáng ấy. Xin Ngài
cho chúng ta một tâm hồn nhạy cảm để nhận ra thân phận yếu đuối bất toàn của
chúng ta và đáp lại tiếng gọi thống hối và hoán cải không ngừng của Chúa. Xin
Ngài ban cho chúng ta một trái tim luôn biết rung động trước nỗi đau khổ của đồng
loại và đôi tay luôn biết rộng mở để săn sóc chữa trị và san sẻ trao ban cho mọi
người.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày
Một Tin Vui’)
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Thứ Tư, Tuần II TN
Bài đọc:
I Sam 17:32-33, 37, 40-51; Mk 3:1-6.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phải tin tưởng nơi uy quyền của Thiên Chúa.
Tôn giáo hiện hữu là để
đưa con người tới Thiên Chúa. Để làm việc này, con người cần giữ luật. Bao lâu
con người tuân giữ những luật Thiên Chúa truyền, con người giữ mối liên hệ tốt
lành với Thiên Chúa. Nhưng con người đã không thể giữ mãi mối liên hệ với Thiên
Chúa vì họ phạm tội; và như thế, con người cần dâng lễ vật để đền tội và nối lại
mối liên hệ với Thiên Chúa. Đó là lý do chức tư tế và luật dâng lễ vật hiện hữu.
Theo từ ngữ Latin, từ ngữ dùng để chỉ tư tế là pontifex, có nghĩa
người xây cầu để nối giữa 2 điểm. Tư tế là người xây cầu để nối giữa Thiên Chúa
và con người bằng dâng các lễ vật hy sinh. Theo truyền thống Do-thái, lễ vật hy
sinh chỉ có thể đền những tội vô tình xúc phạm đến Luật mà thôi; những tội cố
ý, không lễ vật hy sinh nào có thể đền được. Tác giả Thư Do-thái nhìn thấy sự bất
toàn của chức tư tế và các lễ vật hy sinh trong Đạo Do-thái; ông nhận ra con
người cần một phẩm trật tư tế cao trọng hơn phẩm trật tư tế theo Aaron, và một
lễ vật hy sinh cao trọng hơn máu chiên bò, để có thể tha thứ các tội cho con
người, và cung cấp cho con người cách thức an toàn để nối lại mối liên hệ với
Thiên Chúa sau khi phạm tội.
Trong Bài Đọc I, năm
chẵn, trẻ David tình nguyện đi chiến đấu với tên khổng lồ Philistine, vì cậu
tin uy quyền của Thiên Chúa sẽ giúp cậu chiến thắng. Vì biến cố vĩ đại này, Thiên
Chúa chuẩn bị lòng dân chúng dành chấp nhận David làm vua thay thế Saul. Trong
Phúc Âm, Chúa Giêsu tức giận vì nhóm Pharisees lòng chai dạ đá: trong khi Ngài
muốn chữa lành con người khỏi mọi tội lỗi và bệnh hoạn, tật nguyền, nhưng họ
luôn tìm cách để tố cáo và luận tội Ngài.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
2/ Bài đọc I (năm chẵn): Không phải nhờ gươm, nhờ giáo mà Đức Chúa ban chiến thắng.
Đây là câu truyện nói
lên uy quyền của Thiên Chúa. Thoạt nhìn, không ai có thể nghĩ David sẽ thắng
tên Philistine; ngay cả vua Saul là người to lớn nhất trong Israel cũng phải đầu
hàng. Khi David tỏ ý định muốn đi chiến đấu với tên khổng lồ Philistine, vua
Saul nói với David: "Con không thể đến với tên Philistine ấy để chiến đấu
với nó, vì con chỉ là một đứa trẻ, còn nó là một chiến binh từ khi còn trẻ."
Nhưng David tin tưởng vào uy quyền Thiên Chúa, ông nói: "Đức Chúa là Đấng
đã giật con khỏi vuốt sư tử và vuốt gấu, chính Người sẽ giật con khỏi tay tên
Philistine này." Vua Saul nói với David: "Con hãy đi, xin Đức Chúa ở
với con!" Cậu cầm gậy chăn chiên trong tay, chọn lấy năm hòn đá cuội dưới
suối, bỏ vào túi chăn chiên, vào bị của cậu, rồi tay cầm dây phóng đá, cậu tiến
về phía tên Philistine.
(1) Tên Philistine cậy
vào thể lực của mình: Khi thấy có người Israel tiến lên, tên Philistine từ từ
tiến lại gần David, đi trước mặt nó là người mang thuẫn. Tên Philistine nhìn,
và khi thấy David, nó khinh dể cậu, vì cậu còn trẻ, có mái tóc hung và đẹp
trai. Tên Philistine nói với David: "Tao là chó hay sao mà mầy cầm gậy đến
với tao?" Và tên Philistine lấy tên các thần của mình mà nguyền rủa David.
Tên Philistine nói với David: "Đến đây với tao, tao sẽ đem thịt mày làm mồi
cho chim trời và dã thú."
(2) David chiến đấu
nhân danh Thiên Chúa: David bảo tên Philistine: "Mày mang gươm, mang giáo,
cầm lao mà đến với tao. Còn tao, tao đến với mày nhân danh Đức Chúa các đạo
binh là Thiên Chúa các hàng ngũ Israel mà mày thách thức."
- David tin tưởng nơi
Thiên Chúa sẽ ban chiến thắng, không chỉ chiến thắng cá nhân giữa cậu và tên
Philistine, mà còn chiến thắng giữa quân đội Israel trên quân đội Philistines:
"Ngay hôm nay Đức Chúa sẽ nộp mày vào tay tao, tao sẽ hạ mày và làm cho đầu
mày lìa khỏi thân. Ngay hôm nay tao sẽ đem xác chết của quân đội Philistine làm
mồi cho chim trời và dã thú."
- Cậu tin chiến thắng
là nhờ Danh Chúa, Đấng dựng nên trời đất, chứ không nhờ gươm giáo. David nói với
tên Philistine: "Toàn cõi đất sẽ biết rằng có một Thiên Chúa che chở
Israel, và toàn thể đại hội này sẽ biết rằng không phải nhờ gươm, nhờ giáo mà Đức
Chúa ban chiến thắng, vì chiến đấu là việc của Đức Chúa và Người sẽ trao chúng
mày vào tay chúng tao!"
(3) Kết quả của cuộc
chiến: "Khi tên Philistine bắt đầu xông lên và đến gần để đương đầu với
David, thì David vội vàng chạy từ trận tuyến ra để đương đầu với tên
Philistine. David thọc tay vào bị, rút từ đó ra một hòn đá, rồi dùng dây phóng
mà bắn trúng vào trán tên Philistine. Hòn đá cắm sâu vào trán, khiến nó ngã sấp
mặt xuống đất. Thế là David thắng tên Philistine nhờ dây phóng và một hòn đá. Cậu
hạ tên Philistine và giết nó. Nhưng trong tay David không có gươm. David chạy lại,
đứng trên xác tên Philistine, lấy gươm của nó, rút khỏi bao, kết liễu đời nó và
dùng gươm chặt đầu nó."
Vì vua Saul bất tuân lệnh
của Thiên Chúa, Ngài đã truất phế Saul khỏi ngôi vua. Thiên Chúa đã sai ngôn sứ
Samuel xức dầu phong vương cho trẻ David, và Ngài muốn dùng chiến thắng này để
chuẩn bị lòng dân chúng để tiếp nhận David làm vua thay thế Saul. Điều này một
lần nữa chứng minh: một khi Thiên Chúa đã chọn ai, Ngài sẽ ban ơn đủ cho người ấy
thi hành nghĩa vụ của mình.
3/ Phúc Âm: Đức Giêsu giận dữ rảo mắt nhìn họ, buồn khổ vì lòng họ chai
đá.
3.1/ Xung đột ý kiến giữa
Chúa Giêsu và Nhóm Pharisees: Chỉ trong hai
câu mô tả ngắn ngủi, Marcô cho chúng ta nhìn thấy sự xung đột giữa hai bên: “Đức
Giêsu lại vào hội đường. Ở đó có một người bị bại tay. Họ rình xem Đức Giêsu có
chữa người ấy ngày Sabbath không, để tố cáo Người.” Trong khi Chúa Giêsu chính
thức rao giảng và chữa lành dân chúng trong các hội đường, Nhóm Pharisees cũng
có mặt. Mục đích của họ không phải để nghe giảng, nhưng để “rình xem” Chúa
Giêsu có chữa bệnh trong ngày Sabbath.
3.2/ Hai phản ứng khác
nhau:
(1) Phản ứng của của
Chúa Giêsu: Khi nhìn thấy người bại tay, Chúa Giêsu động lòng thương anh, và
Ngài muốn chữa lành, nên bảo anh: "Anh trỗi dậy, ra giữa đây!" Ngài
có thể bảo anh ngày mai trở lại, hay bảo anh đi đến một nơi nào đó cho khuất mắt
những người đang rình; nhưng để dạy cho họ có cơ hội hiểu biết đúng đắn về ngày
Sabbath, Chúa Giêsu mời gọi họ đối thoại với Ngài: "Ngày Sabbath, được
phép làm điều lành hay điều dữ, cứu mạng người hay giết đi?" Nhưng họ làm
thinh. Đức Giêsu giận dữ rảo mắt nhìn họ, buồn khổ vì lòng họ chai đá. Người bảo
anh bại tay: "Anh giơ tay ra!" Người ấy giơ ra, và tay liền trở lại
bình thường.
(2) Phản ứng của Nhóm
Pharisees: Làm thinh không nói có thể vì không biết câu trả lời; nhưng họ đã biết
câu trả lời: phải luôn làm việc lành trong cả ngày Sabbath, và phải luôn cứu mạng
người; nhưng vì họ sợ nếu phải công nhận những gì Chúa Giêsu dạy trước mặt mọi
người, họ phải tin theo và làm những gì Ngài đòi hỏi nên họ làm thinh. Không phải
chỉ có thế, nhưng sau khi ra khỏi đó, Nhóm Pharisees lập tức bàn tính với phe
Herode, để tìm cách giết Đức Giêsu.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Tội lỗi làm chúng ta
xa cách Thiên Chúa; nhưng qua Đức Kitô là Thượng Tế theo phẩm trật Melkizedek,
chúng ta đã có con đường an toàn để nối lại tình nghĩa với Ngài.
- Chúng ta hãy vâng lời
làm theo những gì Đức Kitô dạy. Nếu không hiểu, hãy chịu khó bỏ thời giờ để
nghiên cứu học hỏi; đừng ngoan cố như những người biệt-phái để cố tình sống
trong tội lỗi của mình.
- Chúng ta có chiến thắng
được ba thù là nhờ uy quyền của Thiên Chúa, chứ không do sức lực, tài năng, và
sự khôn ngoan của cá nhân.
- Tôn giáo không phải
chỉ là tuân theo những luật lệ cứng nhắc, nhưng trước hết là tâm tình đồng cảm
với những khổ đau của nhân loại. Chúng ta hãy cố gắng và tìm cách để làm vơi đi
những khổ đau của tha nhân.
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.
17/01/2018
THỨ TƯ TUẦN 2 TN
Mc 3,1-6
Mc 3,1-6
LUẬT BÁC ÁI LÀ TRÊN HẾT
“Ngày sa-bát được phép làm điều lành hay điều dữ, cứu mạng
người hay giết đi?” (Mc 3,4)
Suy niệm: Vào thế kỷ thứ II trước công nguyên, người Hy Lạp cai trị
nước Do Thái; vua An-ti-ô-khô Ê-pi-phan theo đuổi chính sách Hy Lạp hoá dân bị
trị, do đó du nhập lối sống truỵ lạc và thờ ngẫu tượng vào xã hội Do Thái. Ông
gặp sự chống đối mãnh liệt của những người Do Thái trung thành với lề luật và giao
ước mà Gia-vê đã ký kết với cha ông họ. Những người Do Thái nhiệt thành này đã
hình thành nhóm Ha-si-đim – nghĩa là những người đạo đức – là tiền thân của
nhóm Biệt Phái vào thời Chúa Giê-su; gọi thế vì họ có một lối sống hết sức khác
biệt: rất thông thạo Thánh Kinh và giữ luật hết sức tỉ mỉ. Họ đã khởi đầu với
những ý hướng rất tốt đẹp, nhưng tiếc thay họ đã đi quá xa: giữ luật cách cứng
nhắc đến nỗi vì thế mà đang tâm không giúp đỡ anh chị em trong những cơn bệnh
hoạn tật nguyền!
Mời Bạn: Ngày Chúa Nhật, chúng ta
nghỉ ngơi nhưng không phải để “sa đà,” “xả láng” trong đủ mọi thứ vui chơi giải
trí. Trái lại chúng ta được mời gọi thánh hoá ngày Chúa Nhật theo ý Chúa muốn
qua việc tham dự thánh lễ cách trọn vẹn và sốt sắng, dành thì giờ để chia sẻ
tình bác ái với anh chị em đang sống chung quanh mình.
Chia sẻ: Bạn đang tham gia công tác tông đồ nào trong ngày Chúa Nhật?
Sống Lời Chúa: Rủ một người bạn cùng đi
tham dự thánh lễ hoặc cùng tham gia một hoạt động tông đồ.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, suốt tuần lễ con lam lũ với bao lo toan của cuộc
sống, xin cho con biết thánh hóa ngày Chúa nhật bằng việc thờ phượng Chúa và sống
trọn đức ái để làm cho tình yêu Chúa luôn sống trong anh chị em con.
(5 phút Lời Chúa)
Anh giơ tay ra! (17.1.2018 – Thứ tư Tuần 2 Thường niên)
Có bao nhiêu bàn tay, dù không bại liệt, nhưng chẳng bao giờ bình thường vì chẳng bao giờ dám đưa ra để trao và để nhận, để nắm và để buông.
Suy niệm:
Bài Tin Mừng hôm nay là
cao điểm của năm cuộc tranh luận
giữa Đức Giêsu với các
kinh sư hay người Pharisêu (Mc 2, 1-3, 6).
Đó là các cuộc tranh luận
về quyền tha tội của Đức Giêsu,
về chuyện Ngài ăn uống
với người thu thuế, chuyện môn đệ không ăn chay,
chuyện môn đệ bứt lúa
ngày sabát, và cuối cùng là chuyện Ngài chữa bệnh.
Trong hội đường, vào một
ngày sabát, một người có bàn tay bị teo đi dự lễ.
Các người Pharisêu rình
xem Đức Giêsu có chữa cho anh ấy không.
để có cớ tố cáo Ngài.
Đức Giêsu chủ động đưa âm
mưu của họ ra ánh sáng.
Ngài muốn công khai hóa
và chính thức hóa việc làm của mình,
bởi vậy Ngài mới nói với
người bị tật rằng: “Anh hãy trỗi dậy ra giữa đây!”
Như thế mọi người trong
hội đường đều thấy được anh.
Rồi Ngài đặt câu hỏi với
các người đang rình rập Ngài
về điều được phép làm
trong ngày sabát:
được làm điều tốt hay
điều xấu, cứu sống hay giết chết?
Câu trả lời tưởng như quá
rõ ràng,
nhưng ta nên nhớ rằng
chữa bệnh ngày sabát bị coi như lao động.
Chỉ được chữa bệnh ngày
sabát khi đó là một bệnh nguy tử.
Anh bại tay không phải là
người lâm cơn bệnh nguy tử.
Nếu hoãn lại đến ngày mai
mới chữa anh, thì có vẻ cũng chẳng sao.
Nhưng Đức Giêsu đã không
chấp nhận sự trì hoãn này.
Đối với Ngài, làm điều
tốt là chữa ngay cho anh.
Ngài không đợi anh ấy gần
chết mới cứu sống.
Cứu sống là cho con người
được sống hạnh phúc dồi dào hơn.
Một bàn tay héo khô, teo
tóp, bại liệt,
một bàn tay đàn ông chẳng
còn làm việc được, chẳng còn tự phục vụ được,
một bàn tay đã chịu tật
nguyền như thế từ bao giờ,
theo Đức Giêsu, bàn tay
ấy phải được chữa lành ngay khi có thể.
“Hãy giơ tay ra!”
Người ấy đã giơ tay ra và
tay anh trở lại bình thường.
Giơ tay ra là điều trước
kia anh mong muốn mà không làm được.
Bây giờ anh có thể giơ
tay để nắm lấy một bàn tay khác,
và cảm được sự ấm áp chân
thành của tình bạn.
Có bao nhiêu bàn tay, dù
không bại liệt, nhưng chẳng bao giờ bình thường
vì chẳng bao giờ dám đưa
ra để trao và để nhận, để nắm và để buông.
Trước sự thinh lặng chai
đá của các kẻ chống đối,
Đức Giêsu vừa giận vừa
buồn (c.5).
Ngài chấp nhận trả giá
cho quyết định của mình.
Ngài đã chữa bệnh chỉ
bằng một lời nói, chứ không bằng đụng chạm.
Thế nên theo Luật Môsê,
Ngài vẫn không bị coi là đã vi phạm ngày sabát.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa,
lúc đầu chúng con chỉ
muốn cầm tay nhau
để làm thành một vòng
tròn khép kín.
Sau đó chúng con hiểu
rằng
cần phải buông tay nhau
để nhận những người bạn
mới,
để vòng tròn được mở rộng
đến vô cùng
và trái tim được lớn lên
mãi.
Lạy Chúa, chúng con biết
rằng
cần phải nối vòng tay lớn
xuyên qua các đại dương
và lục địa.
vòng tay người nối với
người,
vòng tay con người nối
với Tạo Hóa.
Chúng con thích Chúa
đứng chung một vòng tròn
với tất cả loài người
chúng con,
nắm lấy tay chúng con
và đưa chúng con lên cao.
Ước gì việc Chúa giang
tay trên thập giá
giúp chúng con biết cầm
lấy tay nhau
và nhận nhau là anh em.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
HÃY NÂNG TÂM HỒN LÊN
17 THÁNG GIÊNG
Xây Dựng Một Bầu
Khí
Sống Hoạt Yêu
Thương
Nhiều khía cạnh khác của
đời sống gia đình cũng cần được quan tâm. Chẳng hạn, chúng ta không được phép
quên quyền lợi của phụ nữ, trẻ em và người già lão. Và cũng có những quyền lợi
của gia đình xét như một toàn thể – tôi đã đề cập đến những quyền này trong
Tông Huấn Familiaris consortio. Tòa Thánh đã đúc kết những quyền này trong bản
“Hiến Chương Quyền Của Gia Đình”.
Tất cả các quyền ấy đều
rất quan trọng; nhưng ở đây tôi muốân đề cập một cách đặc biệt đến quyền được
giáo dục của con cái. Trách nhiệm giáo dục con cái mình là một trách nhiệm rất
quan trọng của cha mẹ – qua đó họ giúp con cái mình đạt đến mức trưởng thành đầy
đủ trong tất cả các giá trị căn bản nhất của đời sống. Công Đồng Vatican II nêu
rõ: “Vai trò giáo dục này quan trọng đến nỗi nếu thiếu sót thì khó lòng bổ khuyết
được. Thực vậy, chính cha mẹ có nhiệm vụ tạo cho gia đình một bầu khí thấm nhuần
tình yêu cũng như lòng thành kính đối với Thiên Chúa và tha nhân, để giúp cho
việc giáo dục toàn diện con cái trong đời sống cá nhân và xã hội trở nên dễ
dàng. Do đó, gia đình là trường học đầu tiên dạy các đức tính xã hội cần thiết
cho mọi đoàn thể.” (GD 3).
Gương Thánh Nhân
THÁNH ANTÔN
VIỆN PHỤ
VIỆN PHỤ
1. Đôi dòng
tiểu sử.
Hôm nay Giáo Hội cho chúng ta mừng lễ kính thánh Antôn. Thánh Antôn hôm
nay Giáo Hội mừng kính không phải là thánh Antôn Padua quen thuộc mà mọi người
chúng ta kính mến. Antôn thành Paduahoặc Antôn thành
Lisboa, sinh ngày 15 tháng 8 năm 1195 và qua đời ngày 13 tháng 6 năm 1231,
là một linh mục Công giáo người Bồ Đào Nha và là tu sĩ Dòng Phanxicô. Còn thánh
Antôn chúng ta mừng kính hôm nay được gọi là thánh Antôn viện phụ sinh
tại Cosma bên AiCập vào khoảng năm 250 và qua đời vào ngày 17/1/356.
Nhìn lại cuộc đời của Ngài, chúng ta phải nhận là Ngài có nhiều may mắn.
Cha mẹ Ngài là người giầu có, quí phái. Ngài và cô em gái luôn được sống trong
sự bao bọc ấm cúng của gia đình.
Lúc ngài được 18 tuổi thì cha mẹ Ngài lần lượt ra đi để lại cho hai anh
em một gia tài kếch xù. Hai anh em tiếp tục sống đùm bọc yêu thương nhau. Với số
của cải cha mẹ để lại, hai anh em có thể sống một cuộc sống dư dật và thật
thoải mái. Thế nhưng ý Chúa nhiệm mầu, Người đã kêu gọi Antôn dâng hiến cuộc đời
cho Người.
Hôm đó trong ngôi nhà nguyện nhỏ dâng cúng thánh Augustinô, Lời Chúa vang
lên: "Nếu con muốn trở nên trọn lành, hãy về bán hết gia tài, phân
phát cho kẻ nghèo khó" (Mt 19,21). Lời Tin Mừng đó đã làm cho
Antôn suy nghĩ vì hai anh em đang có thật nhiều tiền của. Nghe những Lời đó
Antôn tưởng như Chúa đang nói với chính mình nhưng chưa biết phải làm gì. Và
Chúa Nhật sau đó, Lời Chúa lại vang lên như một chỉ dẫn: "Anh em đừng
lo lắng về ngày mai: ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy."(Mt
6,34). Thế là con đường đã quá rõ. Antôn nhất định áp dụng đến cùng Lời Chúa dạy,
và nhất quyết theo Chúa đến cùng. Ngài về nhà, chia vườn đất cho người nghèo
trong làng, bán đồ đạc lấy tiền bố thí cho người nghèo khó. Ban đầu
ngài còn để lại chút ít để nuôi mình và cô em gái, nhưng khi suy nghĩ đến LờiChúa:
"Con đừng bận tâm đến ngày mai", Ngài lại đem bán tất cả những cái
còn lại lấy tiền cho người nghèo. Xong việc, ngài gởi cô em vào một cộng đoàn
Trinh nữ, rồi quyết tâm bỏ thế gian.
Năm 35 tuổi, Antôn quyết tâm đi vào sa mạc để sống đời khổ tu và kết hợp
hoàn toàn mật thiết với Thiên Chúa. Tiếng tăm nhân đức và sự khôn ngoan của
Ngài lan tỏa rất xa. Nhiều khách thập phương đã kéo đến xin Ngài chỉ giáo.
Năm 327, khi được tin hoàng đế Maximinô Đaia ra chỉ bách hại công giáo,
và tại Alexandria sắp có cuộc xử tử một số tín hữu trung kiên, thánh nhân liền
nhất định xuống khích lệ anh em đồng đạo và mong được cùng chết vì Chúa Kitô.
Vì thế, Ngài cùng với một anh em khác xuôi dòng sông Nil, đáp thuyền vào tận
thành phố, rồi Ngài ngang nhiên tiến thẳng vào tòa án, khuyến khích tín hữu giữ
vững đức tin; không kể gì đến các quan và dân ngoại. Ngài can đảm sống gần các
vị tử đạo cho đến giây phút cuối cùng trên đấu trường. Nhưng ý Chúa không muốn
ban cho thánh Antôn triều thiên tử đạo. Chúa muốn Ngài thành một tấm gương can
đảm chiến đấu và cầu nguyện, ăn chay cho đại gia đình trụ trì, tuy nhiên thánh
nhân vẫn lưu lại đô thị Alexandria cho đến khi ngọn lửa bách hại tắt hẳn mới
quay gót về cộng đồng của mình.
Và từ đây cho đến cuối đời, Ngài dựng lều trên sườn núi Gokzin, suốt ngày
đón tiếp mọi người: các tu sĩ, các tín hữu và cả lương dân.
Sống được 105 tuổi, thánh Antôn biết mình kiệt sức và giờ về thiên quốc sắp
tới, Ngài liền hội các tu sinh lại quanh giường khuyên bảo họ lần sau cùng.
Ngài cũng dậy các môn đệ đừng ướp xác và làm ma chay theo kiểu người Ai Cập.
Sau cùng thánh nhân giơ tay chúc lành cho tất cả các thày và phó linh hồn trong
tình yêu vô biên của Chúa. Hôm ấy là ngày 17.1.365.
Năm 561, xác thánh nhân được cải táng trong nhà thờ kính thánh Gioan Tiền
Hô tại Alexandria. Các Giáo Hội Trung Ðông đã sùng kính thánh Antôn đầu tiên,
sau đó tràn qua Âu Châu và Giáo Hội đã chính thức tôn phong Ngài lên bậc hiển
thánh.
2. Bài học.
Cuộc đời của thánh Antôn để lại cho chúng ta rất nhiều bài học. Nhưng đặc
biệt nhất vẫn là bài học về lòng yêu mến Lời Chúa. Đối với Antôn thì Lời Chúa
chính là Kim Chỉ Nam, là lẽ sống cũng như là ánh sáng luôn hướng dẫn cuộc đời của
mình. Ngài luôn đi tìm thánh ý của Thiên Chúa, can đảm đem những soi sáng của
Chúa vào cuộc đời của mình.
Được cha mẹ để lại cho một gia tài kếch xù, Antôn đã không nghĩ như
người phú hộ trong Tin Mừng Luca. Người phú hộ trong Tin Mừng Luca nhìn vào
đống tài sản trời ban cho đã nghĩ ngay đến việc hưởng thụ. Ông đã vẽ ra cho
mình một tương lai mà nhiều nhà chú giải Kinh Thánh gọi là bỉ ổi: "Lúc ấy
ta sẽ nhủ lòng: hồn ta hỡi, mình bây giờ ê hề của cải, dư xài nhiều năm. Thôi,
cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã!"(Lc 12,19).
Antôn đã không nghĩ như vậy. Ngài đã đi tìm ý Chúa và sau khi được Chúa
soi sáng qua Lời Chúa trong Tin Mừng, Antôn đã bán tất cả và cho đi tất cả
không giữ lại cho mình cái gì. Rồi sau khi được soi sáng cũng qua Lời Chúa
trong Tin Mừng Antôn đã bỏ tất cả và sống đời phó thác cho Chúa.
Năm 35 tuổi thánh nhân muốn rút hẳn vào sa mạc. Với một số lương thực vừa
đủ sáu tháng Ngài băng qua sông Nil, trèo lên một ngọn núi cao gần Atfite và ở
đó suốt 20 năm, không tiếp đón ai, trừ mấy mấy người bạn hàng năm hai lần đem
lương thực tới cho Ngài.
Ngài có ý tránh xa thế tục, nhưng hương thơm nhân đức lại lôi kéo nhiều
người khách thập phương đến thăm. Ban đầu thánh nhân còn tìm lẽ nọ lẽ kia, bày
ra kế nọ kế kia để thoái thác, nhưng được ít lâu vì số người đến mỗi ngày một
đông, lại nhất định tìm mọi cách để gặp mặt đấng thánh nên thánh nhân buộc lòng
phải ra đón tiếp họ.
Năm 305, ý Chúa là muốn Ngài bỏ đời ẩn tu để đi lập các tu viện. Vâng ý
Chúa, Ngài lập nhiều tu viện các cộng đồng tu hành và huấn dụ về đời sống thiêng
liêng.Theo kinh nghiệm bản thân, Ngài bày tỏ cho các tu sĩ những mưu mô xảo quyệt
của satan, chỉ cho họ những khí giới chiến đấu hữu hiệu hơn cả là cầu
nguyện, ăn chay, làm dấu thánh giá và thái độ coi khinh chúng.
Đó là cuộc đời của một vị thánh. Chúng ta cám ơn Chúa đã để lại cho chúng
ta tấm gương của một con người đã cố gắng đi theo tiếng gọi của Chúa, sống một
cuộc đời siêu thoát thánh thiện đễ nên gương sáng cho mọi người.
Lạy Chúa, Chúa đã cho thánh An-tôn, viện phụ sống một đời phi thường trong
sa mạc để phụng sự Chúa. Xin Chúa nhận lờingài nguyệngiúp cầu thay mà cho chúng
con biết quên mình để một niềm yêu mến Chúa trên hết mọi sự.
Lm. Giuse Đinh Tất Quý
17 Tháng Giêng
Cứ Ðể Yên Như Thế
Trong một tác phẩm có tựa đề "Quyển
Phúc Âm thứ 5", một tác giả người Italia là ông Mario Pomilio có tưởng tượng
ra một mẩu chuyện như sau: Sau thời kỳ bách hại tại Roma, các tín hữu bắt đầu
xây cất nhà thờ. Ðâu đâu người ta cũng thấy mọc lên nhà thờ. Tên của Ðức Mẹ và
các Thánh được đặt cho các nhà thờ. Nhưng người ta vẫn chưa thấy có nhà thờ nào
mang tên của Ngôi Lời. Thấy thế thánh Gioan mới đến báo cáo với Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu bèn ra lệnh cho thánh Phêrô khởi công xây cất một nhà thờ dâng kính
cho Ngôi Lời.
Con người đã có một thời được mệnh
danh là người xây dựng vĩ đại của Giáo Hội mới đi rảo khắp nơi để thu tập vật
tư. Thánh Mathêô đã cung cấp đá. Thánh Marcô mang vôi đến. Thánh Luca tặng những
cây trụ lớn. Còn Thánh Gioan thì cúng đá cẩm thạch để làm bàn thờ và vàng để
làm nhà tạm..
Với tất cả những vật liệu cần thiết,
Thánh Phêrô hớn hở bắt tay vào việc xây cất. Nhưng thời gian trôi qua, công sức
đã tiêu hao quá nhiều mà người thợ xây Phêrô mới chỉ hoàn tất được việc đặt nền
móng cho ngôi nhà thờ. Thấm mệt, vị thủ lãnh các tông đồ mới cầu xin Chúa:
"Lạy Chúa, xin ban thêm cho con đủ sức để hoàn thành ngôi Nhà Thờ".
Chúa Giêsu mới trả lời: "Cứ để
yên như thế. Ngươi hãy nhớ rằng cứ mỗi người đi ngang qua công trình này đều có
thể mang đến một viên gạch, một ít vôi để xây tường và thế hệ này qua thế hệ
khác, những cột trụ Ðền Thờ sẽ được dựng lên".
Có
hai sự kiện xem ra tương phản nhau: tại Tây Phương, nhiều nhà thờ bị đóng cửa
hoặc đem ra bán đấu giá, vì giáo dân không đủ cấp số hoặc không còn người lui tới
nhà thờ. Trong khi đó thì tại Việt Nam, nhu cầu sửa chữa hoặc xây nhà thờ mới mỗi
ngày một gia tăng.
Có
thể có hai quan niệm sống đạo đằng sau hai sự kiện ấy. Nhiều người Tây Phương
cho rằng sống đạo là sống Công Bình và Bác Aùi, chứ không nhất thiết phải đến
nhà thờ. Trong khi đó thì có người lại trách cứ rằng nhiều người Việt Nam chỉ
giữ đạo hình thức, họ thích biểu dương tôn giáo, họ thích rước sách, họ đọc
kinh làu làu, họ siêng năng đến nhà thờ, nhưng họ xem thường những đòi hỏi của
Công Bình và Bác Ái
Kỳ
thực, giữ đạo trong nhà thờ mà không sống đạo bên ngoài nhà thờ là một thiếu
sót, nếu không muốn nói là một thái độ giả hình mà Chúa Giêsu đã lên án gắt
gao. Nhưng sống Công Bình và Bác Aùi mà không múc lấy sức sống từ việc gặp gỡ
Chúa nơi nhà thờ cũng là một thiếu sót. Người Kitô đích thực múc lấy sức sống từ
Ðức Kitô và diễn đạt sức sống ấy qua cuộc sống thường ngày. Có nhà thờ để cầu
nguyện nhưng cũng có chợ đời để gặp gỡ Chúa. Người Kitô hướng về Trời cao,
nhưng vẫn còn bám lấy cõi Ðất. Người Kitô đến nhà thờ, mà để quay trở lại cuộc
sống. Và cuộc sống cũng sẽ trở nên cằn cỗi, nếu nó không được nuôi dưỡng bằng
lương thực Thần Linh.
"Hãy trở nên những viên đá sống động". Ðó là ơn gọi của người Kitô
chúng ta. Hãy trở thành những viên đá sống động không chỉ để xây dựng ngôi nhà
thờ bằng gỗ đá, nhưng là để xây ngôi Ðền Thờ của cuộc sống. Cuộc sống có trở
thành Ðền Thờ để gặp gỡ Chúa qua những gặp gỡ với tha nhân, qua những xây dựng
Hòa Bình và yêu Thương, thì Ðền Thờ gỗ đá mới sống động.
Trích sách Lẽ Sống
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét