28/01/2018
Chúa Nhật tuần 4 Thường Niên năm B
(phần I)
Bài Ðọc I: Ðnl 18,
15-20
"Ta sẽ gầy dựng
một tiên tri và Ta sẽ đặt lời Ta vào miệng người".
Trích sách Ðệ Nhị Luật.
Môsê nói với dân chúng
rằng: "Chúa là Thiên Chúa các ngươi, sẽ gầy dựng giữa các ngươi và giữa những
anh em các ngươi, một tiên tri như ta: các ngươi sẽ nghe lời người, như các
nguơi đã xin cùng Chúa là Thiên Chúa các ngươi ở Horeb khi có cuộc đại hội, và
các ngươi nói rằng: Tôi không muốn nghe tiếng Chúa là Thiên Chúa tôi nữa, tôi
không muốn thấy ngọn lửa vĩ đại này nữa, kẻo tôi phải chết. Và Chúa phán cùng
tôi: sự họ đã nói, là tốt. Ta sẽ gầy dựng giữa anh em của họ một tiên tri như
ngươi; Ta sẽ đặt vào miệng người những lời của Ta, người sẽ nói cho họ biết tất
cả những điều Ta sẽ truyền cho người. Và nếu kẻ nào không nghe lời của Ta mà
người sẽ nói nhân danh Ta, chính Ta sẽ xét xử nó. Nhưng tiên tri nào tự phụ,
nhân danh Ta mà nói lời Ta không truyền phải nói, hoặc nhân danh các thần khác
mà nói, thì sẽ chết".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 94, 1-2.
6-7. 8-9.
Ðáp: Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người: các bạn đừng
cứng lòng (c. 8).
Xướng: 1) Hãy tới,
chúng ta hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hô Ðá Tảng cứu độ của ta! Hãy ra trước
thiên nhan với lời ca ngợi, chúng ta hãy xướng ca để hoan hô Người. - Ðáp.
2) Hãy tiến lên, cúc
cung bái và sụp lạy, hãy quỳ gối trước nhan Chúa, Ðấng tạo thành ta. Vì chính
Người là Thiên Chúa của ta, và ta là dân Người chăn dẫn, là đoàn chiên thuộc ở
tay Người. - Ðáp.
3) Ước chi hôm nay các
bạn nghe tiếng Người: "Ðừng cứng lòng như ở Mêriba, như hôm ở Massa trong
khu rừng vắng, nơi mà cha ông các ngươi đã thử thách Ta, họ đã thử Ta mặc dầu
đã thấy công cuộc của Ta". - Ðáp.
Bài Ðọc II: 1 Cr 7,
32-35
"Người nữ đồng
trinh lo lắng việc Chúa, để nên thánh".
Trích thư thứ nhất của
Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, tôi ước
mong anh em khỏi phải lo lắng. Người không có vợ thì lo lắng việc Chúa, và tìm
cách làm đẹp lòng Chúa. Nhưng người đã có vợ thì lo lắng việc đời này, và tìm
cách làm đẹp lòng vợ mình, và họ bị chia xẻ. Cũng thế, người phụ nữ không có chồng
và đồng trinh thì lo lắng việc Chúa, để nên thánh phần xác và phần hồn. Còn người
phụ nữ đã có chồng thì lo lắng việc đời này, và tìm cách làm đẹp lòng chồng
mình. Tôi nói thế vì ích lợi cho anh em, chứ không phải để gài bẫy anh em đâu,
nhưng là để hướng dẫn anh em đến đời sống đoan chính và hoàn toàn khắng khít với
Chúa.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 1, 14 và
12
Alleluia, alleluia! -
Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta; những ai đón nhận Người, Người sẽ ban
cho quyền làm con cái Thiên Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 1, 21-28
"Ngài giảng dạy
người ta như Ðấng có uy quyền".
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Marcô.
(Ðến thành Capharnaum)
ngày nghỉ lễ, Chúa Giêsu vào giảng dạy trong hội đường. Người ta kinh ngạc về
giáo lý của Người, vì Người giảng dạy người ta như Ðấng có uy quyền, chứ không
như các luật sĩ.
Ðang lúc đó, trong hội
đường có một người bị thần ô uế ám, nên thét lên rằng: "Hỡi ông Giêsu
Nadarét, có chuyện gì giữa chúng tôi và ông? Ông đến để tiêu diệt chúng tôi
sao? Tôi biết ông là ai, là Ðấng Thánh của Thiên Chúa". Chúa Giêsu quát bảo
nó rằng: "Hãy im đi và ra khỏi người này!" Thần ô uế liền dằn vặt người
ấy, thét một tiếng lớn, rồi xuất khỏi người ấy. Mọi người kinh ngạc hỏi nhau rằng:
"Cái gì vậy? Ðấy là một giáo lý mới ư? Người dùng uy quyền mà truyền lệnh
cho cả thần ô uế và chúng vâng lệnh Người". Danh tiếng Người liền đồn ra
khắp mọi nơi, và lan tràn khắp vùng lân cận xứ Galilêa.
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Sống
Theo Thần Khí
Tiếp nối tư tưởng của
2 Chúa nhật trước, hôm nay Phụng vụ còn muốn cho chúng ta được nhìn thấy Ðức
Yêsu hoạt động ở Galilêa, để không những chúng ta hiểu rõ vai trò cứu thế của
Người hơn, nhưng cũng để chúng ta nhìn vào Người mà nhận ra ơn gọi của mình.
Chúng ta sẽ thấy Người
vượt xa hình ảnh vị tiên tri mà sách Thứ luật đã nói tới. Việc Người trừ quỷ có
một ý nghĩa rất sâu xa. Và vì thế chúng ta được kêu gọi đi vào nếp sống đặc biệt
mà Người đã mở ra.
1. Vị Tiên Tri Của
Sách Thứ Luật
Chúng ta biết Thứ luật
là cuốn sách cuối cùng trong bộ Ngũ thư tức là 5 quyển sách đầu của bộ Cựu Ước.
Nó được trình bày như là những lời di chúc của Môsê. Ông sắp lìa trần nên cố gắng
nhắn nhủ dân những lời cuối cùng để họ thi hành khi vào đất hứa. Ông lấy lại luật
pháp của Giao ước Sinai, quảng diễn ra cho phù hợp với hoàn cảnh của dân sắp đặt
chân vào đất Canaan. Chính vì vậy mà các dịch giả bản 70 gọi quyển sách này là
Thứ luật, tức là quyển luật pháp thứ 2, quảng diễn luật pháp 10 giới răn đã được
ban hành ở núi Sinai, là luật pháp thứ nhất.
Nhưng sự thật không
đơn sơ như vậy.
Rất nhiều sách trong bộ
Cựu Ước không phải là tác phẩm của một người, viết trong một giai đoạn nào nhất
định. Nhiều quyển là kết quả sưu tầm góp nhặt nhiều bản văn ở nhiều thời đại
khác nhau về cùng một vấn đề. Sách Thứ luật đây là một thí dụ. Có lẽ nói đã
thành hình vào khoảng giữa thế kỷ 7 trước Công nguyên, nghĩa là 5, 6 trăm năm
sau khi Môsê từ trần. Nhưng nó có rất nhiều đoạn đã manh nha từ thời Môsê. Và
nhất là hết mọi đoạn trong sách này đều căn cứ vào luật pháp Môsê mà nó có ý dẫn
giải và áp dụng. Gọi nó là Thứ luật chỉ đúng theo nghĩa đó; chứ không phải hết
mọi trang trong sách này đều chú giải luật pháp đâu.
Bài đọc I hôm nay chẳng
hạn. Rút từ sách Thứ luật nhưng lại bàn về vấn đề tiên tri, và nói về vị tiên
tri mà Thiên Chúa hứa ban cho dân sau khi Môsê lìa trần. Chúng ta có thể hình
dung bối cảnh của bài Kinh Thánh này như sau.
Bấy giờ dân Dothái sắp
vào hứa địa hay mới vào được ít lâu. Chỗ nào họ cũng gặp tà giáo. Và nơi các
dân tộc chung quanh cũng vậy. Những thứ tôn giáo sơ khai này lại có nhiều điều
hấp dẫn. Ðặc biệt vai trò của các thầy bói, bà đồng và của các nhà tiên tri thật
là quan trọng. Dân chúng mê tín luôn luôn tìm đến những con người tự tôn là
giao cảm được với thần minh để biết ý trời và hậu vận. Người có óc khoa học
ngày nay coi đó là bịp bợm; và người có đức tin chân chính nghĩ đó là "những
việc do ma quỷ bày đặt".
Tác giả sách Thứ luật
còn đi xa hơn. Ông thấy có nghĩa vụ phải cảnh giác dân Chúa. Ông để cho Môsê
nói với dân rằng: khi ngươi vào Ðất hứa sẽ không được gặp thấy nơi người nào
người bói quẻ hay phù chú, người lên đồng lên bóng hay chiêm tinh hoặc chiêu hồn.
Ngươi phải hoàn hảo đối với Thiên Chúa. Bù lại, Người sẽ cho xuất hiện từ giữa
các anh em ngươi một tiên tri như ta, tức là như Môsê đây. Và sở dĩ Người cho
như vậy là vì chính ngươi đã xin khi ở dưới chân núi Sinai. Ngày ấy nghe tiếng
Chúa, ngươi đã rụng rời và ngươi nài xin Người đừng nói thẳng với ngươi nữa, một
xin Người dùng trung gian một người từ giữa các anh em người để đến nói với
ngươi nhân danh Người. Kẻ ấy mới thật là tiên tri, vì người chỉ đến nói nhân
danh Chúa. Ngươi phải nghe lời người vì đó là Lời Chúa� Còn ngươi sẽ không được nói tự ý mình hoặc nhân danh thần
nào khác.
Nội dung bài sách Thứ
luật hôm nay là như vậy. Vừa cảnh giác dân vừa hứa hẹn với dân những điều tốt đẹp.
Dân đừng bắt chước kẻ ngoại tin vào phù thủy và bói quẻ. Thiên Chúa sẽ ban cho
dân những vị tiên tri đích thực: luôn luôn chỉ nói nhân danh Chúa. Và điều này
đã xảy ra trong lịch sử dân Chúa. Israel vẫn có các vị tiên tri của Chúa ở giữa
mình.
Tuy nhiên Israel vẫn
trông chờ một vị tiên tri như Môsê. Và vì thế bài sách Thứ luật hôm nay còn nói
về Ðấng Thiên Sai cứu thế sẽ đến. Người sẽ là vị tiên tri trổi vượt trên hết mọi
tiên tri. Người chính là Ðức Yêsu Kitô đã khiến người ta phải kinh ngạc như
chúng ta vừa nghe đọc trong bài Tin Mừng.
2. Nhà Tiên Tri Ðầy Uy
Quyền
Thánh Marcô, tác giả
bài Tin Mừng có vẻ lúng túng trước những điều nghe thấy trong hội đường
Capharnaum. Ðức Yêsu vừa vào đó với các môn đệ. Chắc là theo như thông lệ chủ hội
đường đã mời Người đọc và giải thích Kinh Thánh. Lập tức người ta đã thấy ngay
đây là một giáo lý khác thường. Người nói có uy quyền lạ lùng, khác hẳn các luật
sĩ xưa nay. Hay Người là vị tiên tri đặc biệt mà sách Thứ luật đã nói? Người ta
chưa hết ngạc nhiên thì này có tiếng hét lên. Tiếng quỷ nhập ở trong một người
đã công khai thú nhận: "Ngài đến tiêu diệt chúng tôi ư? Tôi biết Ngài là Ðấng
Thánh của Thiên Chúa mà!". Ðức Yêsu liền bảo nó câm miệng lại và ra khỏi
người đó. Lập tức nói vâng lời. Mọi người lại kinh ngạc. Lời của Người sao mà
uy quyền đến thế? Thần ô uế cũng phải vâng theo.
Khi thuật truyện như vậy
rõ ràng thánh Marcô chú ý đến cách Ðức Yêsu giảng dạy. Người dùng câu truyện trừ
quỷ để minh chứng uy quyền giảng dạy của Ðức Kitô. Người lồng câu truyện đó vào
giữa một bài tường thuật mà đoạn đầu và đoạn cuối đều nói về việc người ta kinh
ngạc trước lời giảng dạy của nhà tiên tri mới. Chỉ có như vậy mới hiểu được vì
sao ma quỷ đã không tru trếu lên ngay khi Ðức Yêsu vừa mới bước chân vào hội đường.
Marcô để cho Người lên tiếng dạy dỗ đã, rồi ma quỷ mới được kêu lên, hầu làm chứng
Lời của Người có giá trị trừ quỷ. Và như thế Người không phải là vị tiên tri đặc
biệt sao?
Ðàng khác, khi mô tả
việc trừ quỷ, Marcô đã khéo gói ghém nhiều yếu tố quan trọng... Thường thường vị
trừ quỷ phải lên tiếng trước ra lệnh trục xuất thần ô uế ra khỏi người ta. Nhất
là nếu có thể, Người phải gọi đích danh quỷ ra, vì biết được tên ai là khống chế
được người đó. Nhưng ở đây, chính quỷ lại bị bó buộc tru trếu trước. Nó xưng
tên Ðức Yêsu Nadarét và chân tướng của Người ra. Có lẽ nó hy vọng áp đảo được
Người. Nhưng Người đã ra lệnh bắt nó phải câm và phải ra khỏi người ta. Người
thật là vị trừ quỷ siêu việt. Hơn nữa, có thể nói, Người không cần trừ quỷ. Lời
giảng của Người có giá trị xua đuổi nó rồi.
Thành ra chúng ta có
thể nhận xét thêm: khi mô tả việc trừ quỷ như trong bài Tin Mừng hôm nay, thánh
Marcô dường như một đàng muốn chú trọng đến uy quyền của Ðức Yêsu khi giảng dạy
và đàng khác cũng muốn lưu ý chúng ta về uy quyền của Lời Chúa hiện nay đang được
rao giảng ở trong Giáo Hội. Nói cách khác, trong bài Tin Mừng này, thánh Marcô
vừa muốn giới thiệu Ðức Kitô là nhà tiên tri xuất sắc, vừa muốn nói đến uy quyền
của Lời rao giảng Phúc Âm hiện nay. Hình như người muốn khẳng định rằng: cũng
như Lời Ðức Yêsu rao giảng ngày trước đã có uy quyền xua đuổi tà thần thế nào,
thì hiện nay cũng vậy, Lời rao giảng về Người ở trong Hội Thánh cũng sẽ giải
thoát người ta khỏi vòng nô lệ tà thần.
Tuy nhiên thánh Marcô
cũng muốn đề phòng mọi lạm dụng. Người không muốn cho người ta kêu tên Chúa
Yêsu một cách vô cớ, tức là một cách không xứng đáng. Vì thế sách Tin Mừng của
người luôn luôn cấm người ta nói đến danh tánh Ðức Yêsu. Phải đợi đến khi Thánh
giá được dựng lên, người ta mới được quyền tuyên xưng Ðức Yêsu là Con Thiên
Chúa (15,39). Nghĩa là theo thánh Marcô, chỉ những ai chấp nhận đi qua mầu nhiệm
thập giá mới hiểu được Chúa và mới được quyền đọc tên Chúa, mới có Thánh Thần
giúp đỡ để kêu tên Yêsu khiến ma quỷ, tội lỗi rời xa.
Do đó ngoài việc giới
thiệu Ðức Yêsu là vị tiên tri đặc biệt như bài sách Thứ luật đã gợi lên, và
ngoài việc khẳng định Lời Chúa hiện nay vẫn đầy uy quyền ở trong Hội Thánh, bài
Tin Mừng hôm nay còn muốn cảnh giác chúng ta, đừng tưởng được nghe Lời Chúa và
kêu tên Người là đủ để xua đuổi được tà thần ra khỏi tâm hồn và đời sống của
mình; nhưng còn phải cùng Ðức Yêsu đi qua mầu nhiệm thánh giá nữa. Có kết hợp với
mầu nhiệm Tử nạn của Người, chúng ta mới có sự sống mới Người đem xuống trần
gian. Bấy giờ chúng ta mới dễ chấp nhận lời khuyên của bài thư Phaolô hôm nay.
3. Sống Theo Thần Khí
Bài thư này tiếp nối
thư Chúa nhật trước. Thánh tông đồ đang khuyên nhủ giáo dân Côrintô. Người nói
thời buổi đã đến lúc sung mãn. Ðức Yêsu Kitô đã giáng thế, tử nạn và phục sinh,
tức là đã khai trương một nếp sống mới. Người không đưa môn đệ ra khỏi thế gian
nhưng họ không còn thuộc về thế gian nữa, tức là không ở trong luật lệ của tà
thần và tội lỗi nữa. Họ có thể vẫn cưới xin và sống bậc gia đình, nhưng đừng để
xác thịt làm khổ mình. Hơn nữa ơn của mầu nhiệm phục sinh còn có thể giúp họ sống
vượt khỏi các đòi hỏi của xác thịt. Người ta có thể sống bậc đồng trinh và độc
thân, và sống như vậy sẽ đỡ nhiều lo âu hơn khi sống có gia đình.
Những lo âu nào? Có phải
những lo âu về đời sống vật chất cho gia đình không? Hay là những lo âu về đời
sống xã hội? Ở đây, thánh Phaolô không có ý nói đến những lo âu như thế. Ðàng
khác ai mến Chúa yêu người mà không phải để tâm săn sóc đến đời sống vật chất
và xã hội của người khác? Chính việc săn sóc này, cũng là nghĩa vụ phải chu
toàn để đưa Nước Chúa đến chỗ Trời mới và Ðất mới. Ở đây thánh Phaolô nói đến
những lo âu về tình yêu, tức là những ràng buộc của lòng mến. Người đồng trinh vì
mến Chúa thì chỉ lo đẹp lòng Chúa. Còn người lập gia đình còn phải lo đẹp lòng
bạn mình. Một đàng có trái tim toàn khối; còn đàng kia có trái tim chia sẻ. Và
chắc chắn như vậy.
Nhưng không phải ai ai
cũng được ơn gọi sống độc thân vì Nước Trời. Tuy nhiên ở bậc nào mọi người cũng
phải sống đoan chính, và khắng khít với Chúa không hề lơi, bởi vì Chúa phục
sinh đang ở giữa chúng ta và chúng ta đang ở trong thời buổi sung mãn.
Như vậy bài thư Phaolô
cũng như bài Tin Mừng Marcô. Cả hai đều khẳng định Ðức Kitô đã đến và đem vào
thế gian, không những một giáo lý mới, mà còn một uy lực mới, để chúng ta sống
xa được sức mạnh của tà thần. Như vậy, Người là vị tiên tri mà sách Thứ luật đã
loan báo. Thế nên chúng ta không được tin vào những tiên tri của thế gian. Họ
không nói tư tưởng của Chúa mà chỉ đưa ra những ý nghĩ của lòng họ hoặc của các
ngẫu tượng họ thờ. Nghe theo lời họ sẽ bị rơi vào vòng kìm hãm của tà thần mà đời
sống nặng nề xác thịt là một dấu hiệu. Ðem những lời đó đến so với Lời Chúa giảng
dạy trong Hội Thánh, chúng ta sẽ thấy chúng la lên và dằn vặt chúng ta: lúc ấy
niềm tin vào Lời Chúa và quyết tâm thi hành thánh ý Người sẽ giải cứu và ban
bình an cho chúng ta. Hôm nay, chúng ta thử đưa những lời Thánh Kinh vừa nghe đọc
vào lòng xem. Có thể chúng ta sẽ thấy mau mau đến với Chúa trong Thánh Thể để
được bình an. Giả có như vậy thì quả thật chúng ta cũng còn có phước và đã được
phúc do Thánh lễ này.
(Trích dẫn từ tập
sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục
Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Chủ Nhật IV Thường Niên, Năm B
Bài đọc: Deut
18:15-20; I Cor 7:32-35; Mk 1:21-28.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Vai
trò của ngôn sứ
Ngôn sứ hay tiên tri là người nói thay cho Thiên Chúa, chứ không phải là những
người nói trước về tương lai. Trong Cựu Ước, ngôn sứ chỉ là một thiểu số nhỏ,
được Thiên Chúa tuyển chọn giữa dân để nói thay cho Ngài, nhất là trong thời miền
Bắc và miền Nam bị rơi vào tay ngọai bang và bị lưu đày.
Các Bài Đọc hôm nay tập trung trong vai trò của vị ngôn sứ. Trong Bài Đọc I,
tác-giả Sách Đệ Nhị Luật cho biết lịch sử tại sao có ngôn sứ, và vai trò quan
trọng trong sứ vụ trung gian giữa Thiên Chúa và con người. Trong Bài Đọc II,
Thánh Phaolô giải thích cho cộng đòan Corintô biết lý do cụ thể của những người
không có gia đình, họ có nhiều thời giờ hơn để làm những chuyện của Thiên Chúa.
Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu là vị Ngôn Sứ Tối Cao, vì Ngài là chính Lời của Thiên
Chúa. Ngài giảng dạy như một ngôn sứ có uy quyền chứ không giống các Kinh-sư;
và Ngài có quyền trục xuất thần ô uế ra khỏi con người.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Lời tiên tri về vị ngôn sứ Thiên Chúa hứa ban:
1.1/ Sự cần thiết của
ngôn sứ: Truyền thống Do-Thái tin khi một
người nhìn thấy Thiên Chúa, người đó sẽ phải chết. Trong Cựu Ước, Thiên Chúa
không xuất hiện để nói với dân, nhưng Ngài dùng những nhà lãnh đạo như Moses và
Aaron, để thực thi những gì Thiên Chúa muốn. Để chứng nhận uy tín của những người
lãnh đạo này, Thiên Chúa cho dân thấy một phần quyền năng của Ngài như khi dân
Israel được triệu tập ở Horeb trong ngày đại hội. Nhưng dân chúng không thể chịu
đựng nổi, dù chỉ một phần uy quyền của Thiên Chúa, nên họ nói với Moses:
"Chúng tôi không dám nghe tiếng Đức Chúa, Thiên Chúa của chúng tôi nữa,
chúng tôi không dám nhìn ngọn lửa lớn này nữa, kẻo phải chết."
Vì lý do này, con người có lời hứa của Thiên Chúa: “Từ giữa anh em, trong số
các anh em của anh em, Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, sẽ cho xuất hiện một
ngôn sứ như tôi để giúp anh em; anh em hãy nghe vị ấy.” Nói cách khác, ngôn sứ
là người được chọn giữa con người, để trở thành trung gian giữa Thiên Chúa và
con người. Lời hứa này ám chỉ tất cả các ngôn sứ trong Cựu Ước Thiên Chúa gởi đến
cho con người. Tuy nhiên, đó cũng là lời hứa về Đức Kitô, vị Ngôn Sứ tòan hảo của
Thiên Chúa. Ngài cũng là người giữa con người, nhưng có uy quyền và sự khôn
ngoan của Thiên Chúa. Ngài là người trung gian hòan hảo giữa Thiên Chúa và con
người.
1.2/ Mối liên hệ bộ ba giữa
Thiên Chúa, ngôn sứ, và con người: Một sự hiểu
biết về mối liên hệ này sẽ giúp chúng ta nhận ra bổn phận và trách nhiệm của từng
người:
(1) Thiên Chúa và ngôn sứ: Thiên Chúa chọn ngôn sứ và gởi ông đến với dân để
giúp họ, ông không tự chọn mình để làm ngôn sứ. Bổn phận của ngôn sứ là nói những
gì Thiên Chúa muốn nói với dân như lời Thiên Chúa phán: "Ta sẽ đặt những Lời
của Ta trong miệng người ấy, và người ấy sẽ nói với chúng tất cả những gì Ta
truyền cho người ấy.”
(2) Ngôn sứ và con người: Con người phải vâng nghe những gì ngôn sứ nói với họ;
vì “kẻ nào không nghe những lời của Ta, những lời người ấy nói nhân danh Ta,
thì chính Ta sẽ hạch tội nó.” Lời của Thiên Chúa là lời của ngôn sứ; bất tuân lời
ngôn sứ là bất tuân Thiên Chúa, và con người sẽ phải chịu trách nhiệm trước
Thiên Chúa. Con người dễ khinh thường các ngôn sứ, lý do vì ngôn sứ cũng là người
yếu đuối như họ; chẳng lạ gì mà con người hay có thái độ, “gần chùa gọi bụt bằng
anh!” Con người không được quên họ là ngôn sứ của Thiên Chúa.
(3) Ngôn sứ và Thiên Chúa: Ngôn sứ phải nói những gì Thiên Chúa nói; vì “ngôn sứ
nào cả gan nhân danh Ta mà nói lời Ta đã không truyền cho nói, hoặc nhân danh
những thần khác mà nói, thì ngôn sứ đó phải chết.” Ngôn sứ phải chịu trách nhiệm
trước Thiên Chúa, vì ông có trách nhiệm nói Lời của Thiên Chúa. Các ngôn sứ dễ
có khuynh hướng không nói Lời của Thiên Chúa, vì những lý do sau:
- Con người không muốn nghe sự thật vì sự thật mất lòng. Họ thích nghe những gì
vui vẻ, tếu táo, không đòi suy nghĩ, và nhất là không khơi dậy mặc cảm tội lỗi
nơi những việc họ đang làm. Khán giả cũng không thích ngôn sứ nói đến tội lỗi,
chết chóc, chiến tranh, hy sinh, từ bỏ, chịu đau khổ, vác Thánh Giá; vì thế, vị
ngôn sứ dễ tránh né những chủ đề này.
- Sợ những hậu quả xảy ra: không trở nên nổi danh, bị khán giả ghét bỏ, và có
thể nguy hiểm đến tính mạng nếu động chạm đến nhà cầm quyền và các thế lực mạnh.
- Dùng danh Thiên Chúa để mưu cầu lợi lộc: nói khôi hài để được khán giả ưa
thích, nói vuốt đuôi để được thăng quan tiến chức, và nói văn chương để tỏ cho
khán giả tài năng của mình.
2/ Bài đọc II: Làm đẹp lòng Thiên Chúa hay đẹp lòng người đời?
2.1/ Ngôn sứ có bổn phận
làm đẹp lòng Thiên Chúa: Truyền thống
Do-Thái rất chú trọng đến đời sống gia đình, và coi đó như một bổn phận thánh.
Chỉ có một trường hợp miễn trừ cho một người không phải kết hôn là để có nhiều
thời giờ nghiên cứu Lề Luật của Chúa. Trong cộng đòan tín hữu Côrintô, có lẽ
cũng có sự so sánh giữa 2 ơn gọi: độc thân để làm việc cho Chúa và ơn gọi gia
đình; ơn gọi nào tốt hơn? Thánh Phaolô cho các tín hữu một cái nhìn thiết thực
qua hai ví dụ:
(1) Các nam tu: “Đàn ông không có vợ thì chuyên lo việc Chúa, họ tìm cách làm đẹp
lòng Người; còn người có vợ thì lo lắng việc đời: họ tìm cách làm đẹp lòng vợ,
thế là họ bị chia đôi.”
(2) Các nữ tu: “Cũng vậy, đàn bà không có chồng và người trinh nữ thì chuyên lo
việc Chúa, để thuộc trọn về Người cả hồn lẫn xác. Còn người có chồng thì lo lắng
việc đời: họ tìm cách làm đẹp lòng chồng.”
Lý luận căn bản của Thánh Phaolô: Vì người độc thân không phải lo nghĩ đến người
phối ngẫu nên họ có thời giờ và dành mọi tập trung lo việc của Thiên Chúa. Người
có gia đình phải dành thời giờ và lo lắng cho người phối ngẫu, nên họ sẽ có ít
giờ hơn để lo việc của Thiên Chúa, và tâm trí họ bị chia đôi. Đấy là chưa kể thời
giờ phải lo cho các con nữa.
2.2/ Hãy chu tòan bổn phận
trong ơn gọi của mình: Điều quan trọng không
ở chỗ là tranh luận xem ơn gọi nào quan trọng hơn ơn gọi nào; nhưng ở chỗ mọi
người hãy chu tòan ơn gọi của mình. Nếu ở bậc độc thân mà không chịu lo việc của
Thiên Chúa, cũng chẳng làm lợi gì cho Ngài. Bậc nào cũng phải cộng tác với nhau
và góp phần vào việc làm vinh quang Thiên Chúa.
3/ Phúc Âm: Chúa Giêsu là ngôn sứ kiểu mẫu của Thiên Chúa.
3.1/ Uy quyền giảng dạy: “Đức Giêsu và các môn đệ đi vào thành Capernaum. Vào ngày
Sabbath, Người vào hội đường giảng dạy. Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của
Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư.”
Trình thuật không nói rõ sự khác biệt giữa Chúa Giêsu và các Kinh-sư, nhưng
chúng ta có thể dựa vào những trình thuật khác, nhất là xung đột ý kiến giữa
Ngài và họ, để liệt kê một số điều như sau:
(1) Chúa Giêsu chú trọng đến tâm hồn bên trong như: kính sợ Thiên Chúa, lòng
thương xót, thực thi ý Thiên Chúa, và bảo vệ sự sống; trong khi các Kinh-sư chú
trọng đến việc giữ các lễ nghi và Lề Luật hời hợt bên ngòai: giữ ngày Sabbath
và các luật thanh tẩy (Mk 2:23-24).
(2) Chúa Giêsu không sợ nói và đối diện sự thật (Mk 3:23-27); trong khi các Biệt-phái
và Kinh-sư luôn tìm cách che đậy những toan tính gian ác trong tâm hồn (Mk
3:2-6).
3.2/ Uy quyền trên các thần
ô uế: Truyền thống Do-Thái tin có nhiều quỉ
thần trong thế giới, và chúng thường sống trong những nơi nhơ bẩn, hoang dã, và
huyệt mả. Chúng thường đe dọa những khách độc hành, đàn bà có thai, cô dâu chú
rể, và trẻ em ra ngòai ban đêm. Chúng thường họat động nhiều vào giữa trưa và
khỏang thời gian giữa mặt trời lặn và mặt trời mọc. Có nhiều thứ quỉ thần khác
nhau, và chúng thường chuyển những tính xấu của chúng tới những người chúng sở
hữu như quỉ mù, phong cùi, dâm dục … Chúa Giêsu nhiều lần khai trừ quỉ thần ra
khỏi con người như trình thuật hôm nay, và ngày xưa, “chức trừ quỉ” là một
trong 7 chức thánh được ban cho các linh mục.
(1) Chúa Giêsu không sợ áp lực của khán giả: Trình thuật kể ngay sau khi Chúa
Giêsu giảng dạy xong; lập tức, trong hội đường của họ, có một người bị thần ô uế
nhập, la lên rằng: "Ông Giêsu Nazareth, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà
ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của
Thiên Chúa!" Chúng ta không ngạc nhiên về điều này, vì sứ vụ của Chúa
Giêsu và sứ vụ của quỉ thần hòan tòan đối nghịch nhau: Ngài đến để giải thóat
con người khỏi mọi quyền lực của tội; trong khi các quỉ thần cố gắng giữ con
người làm nô lệ cho tội.
(2) Chúa Giêsu trục xuất quyền lực ô uế đang ở trong khán giả: Ngài quát mắng
nó: "Câm đi, hãy xuất khỏi người này!" Thần ô uế lay mạnh người ấy,
thét lên một tiếng, và xuất khỏi anh ta. Điều khác biệt giữa Chúa Giêsu và các
nhà trừ quỉ khác, Ngài dùng uy quyền của chính Ngài biểu tỏ qua mệnh lệnh ngắn
và đơn giản; chứ không nhân danh một thứ quyền lực khác, và phải xử dụng một
công thức cố định.
(3) Khán giả được chữa lành: Khi chứng kiến những gì Chúa Giêsu làm, mọi người
đều kinh ngạc đến nỗi họ bàn tán với nhau: "Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới
mẻ, người dạy lại có uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải
tuân lệnh!"
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta đều là những ngôn sứ của Thiên Chúa. Bổn phận của chúng ta là phải
tìm hiểu, nói, sống, và làm chứng cho sự thật.
- Chúng ta sẽ phải đương đầu với những quyền lực chống lại sự thật của thế gian
và ma quỉ. Hậu quả có thể là không được chấp nhận, phỉ báng, tù đày, và ngay cả
nguy hiểm tính mạng.
- Chúng ta không được sợ hãi, để rồi thay vì nói sự thật của Thiên Chúa, chúng
ta nói những gì khán giả muốn nghe. Hãy nhớ chúng ta phải chịu trách nhiệm trước
mắt Thiên Chúa; Ngài sẽ đòi nợ máu chúng ta về sự hư đi của những người chúng
ta đã không có can đảm nói sự thật cho họ.
- Chúng ta phải tôn trọng những người có bổn phận rao giảng Tin Mừng, cho dẫu họ
nói những gì chúng ta không muốn nghe, nhưng là sự thật của Thiên Chúa.
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.
28/01/2018
CHÚA NHẬT TUẦN 4 TN – B
Mc 1,21-28
Mc 1,21-28
LỜI SỨC MẠNH VÀ SỰ SỐNG
Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng
dạy như một Đấng có uy quyền. (Mc
1,22)
Suy niệm: Trong khi các kinh sư, là các chuyên viên về luật, chỉ dựa vào lời các
bậc thầy để giải thích sách Luật, Đức Giê-su giảng dạy như không có một thẩm
quyền nào cao hơn. Ngài giải thích Kinh Thánh như đó là lời thốt ra từ chính bản
thân Ngài, rõ ràng và dứt khoát, với thẩm quyền tối thượng của Thiên Chúa.
Chính cung cách đặc biệt này đã thuyết phục cử tọa, khiến họ sửng sốt. Lời uy
quyền ấy không chỉ đánh động tâm hồn người nghe, nhưng còn có sức xua trừ ma quỷ.
Đang khi các thầy trừ quỷ của Do Thái và dân ngoại phải dùng nhiều nghi lễ và
thần chú rườm rà, Đức Giê-su chỉ cần phán một lời, quỷ dữ phải gào thét và xuất
khỏi người bị ám.
Mời Bạn: Thượng Hội Đồng Giám Mục thế giới năm 2008 mời gọi: “Hãy để Lời
Chúa vang lên lúc khởi đầu ngày sống, ngõ hầu Chúa là người nói đầu hết. Hãy để
Lời Chúa vang vọng trong anh chị em vào buổi tối, để Chúa là người nói cuối
cùng.” Bạn hãy ghi nhận và thực hiện lời mời gọi trên, để bạn, gia
đình, và cộng đoàn bạn được Lời Chúa hướng dẫn 24/24 giờ mỗi ngày.
Chia sẻ: Lý tưởng bạn đang theo đuổi có hợp với người môn đệ Chúa
Ki-tô không? Lời Ngài có là ánh sáng soi lối cho bạn trong cuộc sống không?
Sống Lời Chúa: Tôi tâm niệm lời Thánh Vịnh: “Hôm nay, ước gì anh em nghe tiếng
Chúa. Người phán: Anh em đừng cứng lòng nữa.”
Cầu nguyện: Lạy Chúa, cảm tạ Chúa đã ban cho con ơn gọi làm người và
làm con Chúa. Xin cho con sống tốt đẹp ơn gọi này, để thuộc trọn về Chúa và xứng
đáng với tình yêu Chúa. Amen.
(5 phút Lời Chúa)
HÃY XUẤT KHỎI NGƯỜI NÀY (28.1.2018 – Chúa nhật 4 Thường niên, Năm B)
Trong thực tế, quỷ mang dáng dấp xinh đẹp và hấp dẫn. Nó tấn công ta bằng những thủ đoạn tinh tế, ngọt ngào. Nó nắm rõ điểm yếu nhất của từng cá nhân, tập thể.
Suy niệm:
Một ông thợ ở Nadarét
được mời giảng trong hội đường.
Máccô không cho ta biết
Ðức Giêsu đã giảng gì.
Chỉ biết nội dung của lời
giảng thì mới mẻ,
và cách giảng thì khác
hẳn với các kinh sư.
Kinh sư thì giải thích
Kinh Thánh với thẩm quyền.
Còn Ðức Giêsu giải thích
Kinh Thánh với uy quyền.
Ngài chẳng phải dựa vào
sách vở, vào truyền thống có sẵn.
Một cách mới mẻ và đầy uy
quyền,
Ðức Giêsu loan báo Triều
đại Thiên Chúa đã đến,
triều đại của Xatan phải
bị đẩy lui.
Quả vậy, sự hiện diện của
Ngài trong hội đường ngày hôm ấy
đã khiến cho thần ô uế phải
chường mặt ra và khiếp sợ.
Ðức Giêsu ra lệnh: “Hãy
câm đi và xuất khỏi người này”.
Thần ô uế chẳng muốn từ
bỏ căn nhà nó đã ở.
Nó chỉ ra sau khi đã vật
vã người ấy và thét lên.
Ðức Giêsu đã chiến thắng
và giải phóng ta khỏi nô lệ.
Ngài khai mở Nước Thiên
Chúa trên mặt đất.
Nhưng cuộc chiến với
Xatan còn kéo dài đến tận thế.
Chúng ta phải cộng tác để
Nước Chúa mau thành tựu.
Quỷ thường được vẽ như
một con vật xấu xí đáng sợ.
Nếu thế thì ta rất dễ
nhận ra nó,
và nó cũng khó lòng cám
dỗ được ta.
Trong thực tế, quỷ mang
dáng dấp xinh đẹp và hấp dẫn.
Nó tấn công ta bằng những
thủ đoạn tinh tế, ngọt ngào.
Nó nắm rõ điểm yếu nhất
của từng cá nhân, tập thể.
Xưa nay, người bị quỷ
nhập thực sự chắc không nhiều.
Nhưng hẳn nhiều người bị
quỷ lèo lái mà không biết.
Kitô giáo không bịa ra
quỷ để hù dọa tín đồ.
Quỷ là những mãnh lực xấu
xa, cố kéo ta xa Chúa.
Chúng chống lại Thiên
Chúa và hạnh phúc đích thực của con người.
Quỷ phỉnh phờ con người
bằng thứ hạnh phúc giả tạo.
“Nếu ông sấp mình thờ lạy
tôi, tôi sẽ cho tất cả”.
Làm gì có hạnh phúc vững
bền khi ta quay lưng với Thiên Chúa!
Chúng ta tự hào mình
không bị quỷ ám.
Nhưng thế giới hôm nay
vẫn bị ám ảnh bởi nhiều thứ khác:
tham vọng và dục vọng, sợ
hãi và oán thù, ích kỷ và hưởng thụ...
Có những điều vốn không
xấu cũng trở thành ngẫu tượng:
tiền bạc, tiện nghi, thời
trang, công việc làm ăn, phim ảnh...
Cái ám nào cũng làm ta
bớt tự do, bớt là mình.
Cái ám từ ngoài vào, ở
lại trong ta và không chịu ra.
Cái ám khi trở thành
tuyệt đối thì làm ta trở nên ô uế.
Nó bắt ta phải nghĩ, phải
sống như theo một lập trình.
Ta không thể làm khác,
không thắng được bản năng và thói quen.
Ta thấy mình bất lực, nên
cần Ðấng Thánh của Thiên Chúa.
“Hãy xuất ra khỏi người
này”:
Hôm nay Chúa muốn nói với
tà thần ở trong tôi như vậy.
Tôi cầu xin Ngài trục
xuất khỏi tôi điều gì?
“Hãy xuất ra khỏi thế
giới này”:
Nhờ ơn Chúa, tôi cũng
phải ra lệnh cho ma quỷ như vậy.
Cầu nguyện:
Lạy Cha,
thế giới hôm nay cũng như hôm qua
vẫn có những người bơ vơ lạc hướng
vì không tìm được một người để tin;
vẫn có những người đã chết từ lâu
mà vẫn tưởng mình đang sống;
vẫn có những người bị ám ảnh bởi thần ô uế,
ô uế của bạc tiền, của tình dục, của tiếng tăm;
vẫn có những người mang đủ thứ bệnh hoạn,
bệnh hoạn trong lối nhìn, lối nghĩ, lối sống;
vẫn có những người bị sống bên lề xã hội,
dù không phải là người phong...
Xin Cha cho chúng con nhìn thấy họ
và biết chạnh lòng thương
như Con Cha.
Nhưng trước hết,
xin cho chúng con
nhìn thấy chính bản thân chúng con.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
28 THÁNG GIÊNG
Làm Việc Là Một Quyền
Căn Bản
Tầm mức toàn cầu của vấn
đề lao động đang thúc bách chúng ta phải khẩn trương làm một cái gì đó. Không
thể chần chừ thêm nữa. Đó là một trong những quan điểm của Thông Điệp Laborem
exercens, cũng đồng nhịp với nhu cầu cần phải có những sự cộng tác quốc tế
thông qua những hiệp ước và những bản thỏa thuận. “Căn bản của những hiệp ước
này phải nhắm đến việc liệu sao cho có thêm việc làm cho người ta. Quyền làm việc
là quyền căn bản của mọi người, và những người cùng làm việc như nhau phải được
hưởng thù lao tương ứng với nhau. Phải liệu sao cho mức sống của người lao động
trong mọi xã hội có thể bớt bộc lộ những sự chênh lệch khủng khiếp về mức lương
bổng – là điều vốn bất công và thậm chí có thể châm ngòi cho những phản ứng bạo
động” (Số 18). Vì thế, ở đây các nhà lãnh đạo quốc gia phải đứng trước một công
cuộc có qui mô rất lớn.
Bản thân người lao động
cũng có thể đóng góp vào công cuộc lớn lao này, bằng cách hiện diện trong những
tổ chức quốc tế nơi mà họ có một tiếng nói đầy sức tác động, chẳng hạn Tổ Chức
Lao Động Quốc Tế.
Trong phạm vi quốc gia
mình, người lao động được kỳ vọng tác động vào công luận. Tại những nước dân chủ,
điều đó có thể góp phần tạo ra những chính sách đặt nền tảng không phải trên sự
phân biệt đối xử nhưng là trên cơ sở rằng người ta có quyền được nuôi sống
chính mình và gia đình mình một cách thích đáng. Chúng ta phải nắm vững nhãn
quan này về thiện ích của toàn thể gia đình nhân loại, một nhãn quan đòi hỏi
chúng ta phải vượt qua những sự chênh lệch quá lớn giữa các quốc gia – về vấn đề
việc làm và về tiềm lực kinh tế.
Hạnh Các Thánh
28 Tháng Giêng
Thánh Tôma Aquinas
(1225 - 1274)
Mọi
người đều đồng ý rằng Thánh Tôma Aquinas là tiếng nói trổi vượt của truyền thống
Công Giáo về lý lẽ và về sự mặc khải của Thiên Chúa. Ngài là một bậc thầy vĩ đại
của Giáo Hội Công Giáo thời trung cổ, và được vinh danh với tước vị Tiến Sĩ Hội
Thánh và Tiến Sĩ Thiên Thần.
Lúc
năm tuổi, ngài được cha mẹ cho vào tu viện Biển Ðức ở Monte Cassino với hy vọng
ngài sẽ thích lối sống ấy và trở nên một tu viện trưởng. Trong tu viện, các thầy
giáo đều ngạc nhiên về sự tiến bộ của ngài, và mọi bạn cùng lớp đều thua kém
ngài về việc học cũng như việc trau dồi nhân đức.
Khi đến tuổi khôn được
lựa chọn con đường cho chính mình, Thánh Tôma đã khước từ mọi sự của thế gian
và quyết tâm chọn Dòng Ða Minh trái với ý định của cha mẹ. Năm 1239, lúc mười bảy
tuổi, ngài gia nhập Dòng Ða Minh ở Naples. Theo lệnh của bà mẹ, ngài bị các anh
em bắt cóc và giam ở nhà trên một năm trời. Gia đình còn đi xa hơn nữa bằng
cách dùng một cô gái điếm đến dụ dỗ ngài. Nhưng tất cả mọi cố gắng ấy đều vô hiệu,
Thánh Tôma vẫn kiên trì với ơn gọi. Như một phần thưởng cho sự trung tín này,
Thiên Chúa đã ban cho ngài ơn thanh sạch tuyệt đối, mà nhờ đó ngài xứng đáng với
tước vị là "Tiến Sĩ Thiên Thần."
Sau
khi tuyên khấn ở Naples, ngài theo học ở Cologne với vị thầy nổi tiếng là Thánh
Albert Cả. Ở đây ngài có biệt danh là "bò câm", vì ngài to con và thường
im lặng, nhưng thực sự ngài là một người rất giỏi. Vào năm hai mươi hai tuổi,
ngài được bổ nhiệm để dạy học tại hai thành phố. Ðồng thời ngài cũng bắt đầu
công bố các sáng tác của ngài. Bốn năm sau, ngài được gửi đến Balê. Vào năm ba
mươi mốt tuổi, ngài đậu bằng tiến sĩ.
Ở
Balê, ngài được vinh dự làm bạn với Vua Louis (sau này được phong thánh). Năm
1261, Ðức Urbanô IV gọi ngài về Rôma để dạy học, và ngài nhất quyết từ chối mọi
vinh dự của một chức sắc trong giáo hội. Không những Thánh Tôma có tài viết, mà
ngài còn có tài giảng thuyết với nhiều kết quả tốt đẹp.
Sự
đóng góp lớn lao của ngài cho Giáo Hội Công Giáo là các trước tác. Sự đồng nhất,
sự hài hòa và sự liên tục của đức tin và lý lẽ, của mặc khải và kiến thức loài
người, được thấy đầy dẫy trong các văn bản của ngài.
Tập
"Summa Theologica" là công trình sau cùng của ngài đề cập đến toàn thể
thần học Công Giáo, nhưng không may chưa được hoàn tất. Ngài ngưng sáng tác sau
khi cử hành Thánh Lễ vào ngày 6 tháng Mười Hai, 1273. Ðược hỏi lý do, ngài trả
lời, "Tôi không thể tiếp tục... Tất cả những gì tôi viết, đối với tôi dường
như chỉ là cọng rơm so với những gì tôi được thấy và những gì tôi được mặc khải."
Ngài từ trần ngày 7 tháng Ba, 1274.
Thánh Tôma là một trong những thần học gia vĩ đại và ảnh hưởng đến mọi thời đại.
Ngài được phong thánh năm 1323 và được Ðức Giáo Hoàng Piô V tuyên xưng là Tiến
Sĩ Hội Thánh.
Lời Bàn
Chúng ta có thể coi Thánh Tôma Aquinas như một gương mẫu xuất chúng của Công
Giáo trong ý nghĩa sâu rộng, toàn bộ và bao quát. Một lần nữa chúng ta phải quyết
tâm sử dụng đến lý lẽ, là món quà của Thiên Chúa, để học hỏi và hiểu biết. Ðồng
thời, chúng ta cũng phải cảm tạ Thiên Chúa vì ơn ích do sự mặc khải của Ngài,
nhất là qua Ðức Giêsu Kitô.
Lời Trích
"Do đó chúng ta phải nói rằng sự nhận biết bất cứ chân lý nào đều cần đến
sự trợ giúp của Thiên Chúa, để sự hiểu biết đó được Ngài thúc đẩy đến hành động.
Nhưng họ không cần một khai sáng mới ngoài sự khai sáng tự nhiên của họ, để hiểu
biết chân lý trong mọi sự, ngoại trừ một vài chân lý vượt quá sự hiểu biết tự
nhiên" (Summa Theologica, 1-2, 109, 1).
Trích từ NguoiTinHuu.com
28 Tháng Giêng
Nhân Vô Thập Toàn
Theo một cổ truyện của người Hồi Giáo, thì
Nasruddin là hiện thân của những người độc thân khó tính. Trong một buổi trà dư
tửu hậu, khi được hỏi về lý do tại sao ông không bao giờ lập gia đình,
Nasruddin đã giải thích như sau: "Suốt cả tuổi thanh niên, tôi đã dành trọn
thời giờ để tìm kiếm người đàn bà hoàn hảo. Tại Cairo, thủ đo của Ai Cập, tôi
đã gặp một người đàn bà vừa đẹp vừa thông minh, với đôi mắt đen ngời như hạt
oliu. Ðẹp và thông minh, nhưng người đàn bà này không có vẻ dịu hiền chút nào.
Tôi đành bỏ Cairo để đi Baghdad, thủ đô Iraq, để may tìm ra người đàn bà lý tưởng
tôi hằng mơ ước. Tại đây, tôi đã tìm thấy một người đàn bà hoang hảo như tôi
mong muốn, nghĩa là nàng vừa đẹp, vừa thông minh và cũng có tấm lòng quảng đại
nữa. Nhưng chỉ có điều là hao chúng ta không bao giờ có đồng quan điểm với nhau
về bât cứ điều gì.
Hết người đàn bà này đến người đàn bà
khác: người được điều này, người thiếu điều kia. Tôi tưởng mình sẽ không bao giờ
tìm được người đàn bà lý tưởng cho cuộc đời. Thế rồi, một hôm tôi gặp được
nàng, người đàn bà cuối cùng trong cuộc tìm kiếm của tôi. Nàng kết hợp tất cả
những đức tính mà tôi hằng mong muốn, nghĩa là nàng vừa đẹp, vừa thông minh, vừa
quảng đại tử tế. Nàng đúng là người đàn bà hoàn hảo.
Nhưng cuối cùng, tôi đành phải quyết ở
độc thân suốt đời. Các bạn có biết tại sao không? Nàng cũng đang đi tìm một người
đàn ông hoàn hảo. Và tôi đã được nàng chấm như một người đàn ông còn quá nhiều
thiếu sót.
Người
đàn ông suốt đời độc thân trong câu chuyện trên đây đã quên một trong những quy
luật cơ bản nhất của cuộc sống: đó là luật thích nghi. Thay vì bắt người khác
và cuộc sống phải thích nghi với chúng ta, chính chúng ta phải là người thích
nghi với người khác và cuộc sống. người đàn ông trong câu chuyện đã tìm được
người đàn bà lý tưởng, nhưng chỉ tiếc rằng ông chưa biết trở thành một người
đàn ông lý tưởng để có thể ăn đời ở kiếp với người đàn bà ấy.
Tâm
lý thông thường của con người là thích đòi hỏi người khác hơn là đòi hỏi chính
mình. Chúng ta đòi hỏi người khác phải thế này thế nọ với chúng ta, nhưng chúng
ta quên rằng chúng ta chưa làm những gì người khác cũng trông chờ nơi chúng ta.
Chúa Giêsu đã đề ra cho chúng ta khuôn vàng thước ngọc để xử sự trong cuộc sống:
"Những gì ngươi không muốn người khác làm cho ngươi, thì ngươi cũng đừng
làm điều đó cho người khác". Nếu chúng ta không muốn ai đối xử bất công với
chúng ta, chúng ta hãy sống công bình. Nếu chúng ta không muốn ai cư xử hẹp hòi
ích kỷ với chúng ta, chúng ta hãy sống quảng đại, độ lượng. Nếu chúng ta không
muốn người khác cau có với chúng ta, chúng ta hãy luôn mang bộ mặt của tươi
vui, phấn khởi đến với người.
Trích sách Lẽ Sống
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét