Trang

Chủ Nhật, 28 tháng 1, 2018

29-01-2018 : THỨ HAI - TUẦN IV MÙA THƯỜNG NIÊN

29/01/2018
Thứ Hai tuần 4 thường niên


Bài Ðọc I (Năm II): 2 Sm 15, 13-14. 30; 16, 5-13a
"Chúng ta hãy trốn khỏi Absalon. Hãy để Sêmê nguyền rủa theo lệnh của Chúa".
Trích sách Samuel quyển thứ hai.
Trong những ngày ấy, có kẻ đến báo tin cho Ðavít rằng: "Toàn dân Israel hết lòng theo Absalon. Ðavít liền nói cùng các cận thần của ông ở Giêrusalem rằng: "Hãy chỗi dậy, chúng ta trốn đi, vì chúng ta không sao thoát khỏi tay Absalon. Các ngươi hãy ra mau đi, kẻo nó đến bắt chúng ta, gây tai hại cho chúng ta và dùng gươm giết hết dân thành". Ðavít trèo lên núi Cây Dầu, ông vừa leo vừa khóc lóc, đi chân không, đầu phủ khăn. Toàn dân theo ông cũng trùm đầu, vừa leo vừa khóc. Vậy vua Ðavít đến Bahumrim. Và này xuất hiện một người thuộc dòng họ Saolê, tên là Sêmê, con ông Giêra. Anh ta vừa đi vừa nguyền rủa, rồi ném đá Ðavít và những cận vệ của vua. Toàn thể dân chúng và tất cả binh sĩ đều đi hai bên tả hữu nhà vua. Vậy Sêmê nguyền rủa nhà vua rằng: "Hỡi kẻ khát máu, người của Bêlial, xéo đi, xéo đi! Chúa đã đổ trên đầu ngươi tất cả máu của nhà Saolê mà ngươi đã tiếm vị. Thiên Chúa đã trao vương quốc vào tay Absalon, con ngươi. Này tai hoạ hành hạ ngươi, vì ngươi là một tên khát máu". Bấy giờ Abisai con trai của Sarvia, tâu vua rằng: "Cớ sao thằng chó chết này nguyền rủa đức vua tôi? Ðể tôi đi lấy đầu nó". Vua phán rằng: "Hỡi con của Sarvia, Ta với khanh có liên hệ gì đâu? Cứ để mặc nó nguyền rủa. Vì Chúa bảo nó: 'Hãy nguyền rủa Ðavít', ai dám hỏi nó: 'Tại sao ngươi hành động như vậy?'" Và Ðavít nói với Abisai và toàn thể các cận vệ rằng: "Kìa, con trai bởi lòng ta sinh ra, mà còn tìm giết ta, phương chi con của Giêmini đây. Hãy để nó nguyền rủa theo lệnh Chúa. Biết đâu Chúa sẽ nhìn thấy nỗi khổ tâm của ta, và hôm nay, Người sẽ đổi lời dữ ra hạnh phúc cho ta". Ðavít và các cận vệ của ông cứ tiếp tục đi.
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 3, 2-3. 4-5. 6-7
Ðáp: Lạy Chúa! Xin Chúa đứng lên, xin cứu vớt con! (c. 8).
Xướng: 1) Thân lạy Chúa, nhiều thay người bách hại con, nhiều thay người nổi dậy chống con. Về con, nhiều kẻ thốt ra lời: "Hết trông hắn được Chúa trời cứu độ". - Ðáp.
2) Nhưng, lạy Chúa, Chúa là thuẫn hộ thân con, là vinh quang con, Chúa cho con ngẩng đầu lên. Con lên tiếng kêu cầu tới Chúa, và Chúa đã nghe con từ núi thánh của Ngài. - Ðáp.
3) Con nằm xuống và đã ngủ ngon, rồi thức khoẻ vì Chúa đỡ nâng con. Con không kinh hãi ức triệu người ở chung quanh đồn trú hại con. Lạy Chúa! Xin Chúa đứng lên, xin cứu vớt con! - Ðáp.
  
Alleluia: Tv 129, 5
Alleluia, alleluia! - Con hy vọng rất nhiều vào Chúa, linh hồn con trông cậy ở lời Chúa. - Alleluia.

Phúc Âm: Mc 5, 1-20
"Hỡi thần ô uế, hãy ra khỏi người này".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu và các môn đệ sang bờ biển bên kia, đến địa hạt Giêrasa. Chúa Giêsu vừa ở thuyền lên, thì một người bị quỷ ô uế ám từ các mồ mả ra gặp Người. Người đó vẫn ở trong các mồ mả mà không ai có thể trói nổi, dù dùng cả đến dây xích, vì nhiều lần người ta đã trói anh ta, gông cùm xiềng xích lại, nhưng anh ta đã bẻ gãy xiềng xích, phá gông cùm, và không ai có thể trị nổi anh ta. Suốt ngày đêm anh ta ở trong mồ mả và trong núi, kêu la và lấy đá rạch mình mẩy. Thấy Chúa Giêsu ở đàng xa, anh ta chạy đến sụp lạy Người và kêu lớn tiếng rằng: "Hỡi ông Giêsu, Con Thiên Chúa Tối Cao, ông với tôi có liên hệ gì đâu? Vì danh Thiên Chúa, tôi van ông, xin chớ hành hạ tôi". Nhưng Chúa Giêsu bảo nó rằng: "Hỡi thần ô uế, hãy ra khỏi người này". Và Người hỏi nó: "Tên ngươi là gì?" Nó thưa: "Tên tôi là cơ binh, vì chúng tôi đông lắm". Và nó nài xin Người đừng trục xuất nó ra khỏi miền ấy.
Gần đó, có một đàn heo đông đảo đang ăn trên núi, những thần ô uế liền xin Chúa Giêsu rằng: "Hãy cho chúng tôi đến nhập vào đàn heo". Và Chúa Giêsu liền cho phép. Các thần ô uế liền xuất ra và nhập vào đàn heo, rồi cả đàn chừng hai ngàn con lao mình xuống biển và chết đuối. Những kẻ chăn heo chạy trốn và loan tin đó trong thành phố và các trại. Người ta liền đến xem việc gì vừa xảy ra. Họ tới bên Chúa Giêsu, nhìn thấy kẻ trước kia bị quỷ ám ngồi đó, mặc quần áo và trí khôn tỉnh táo, và họ kinh hoảng. Những người đã được chứng kiến thuật lại cho họ nghe mọi sự đã xảy ra như thế nào đối với người bị quỷ ám và đàn heo. Họ liền xin Chúa Giêsu rời khỏi ranh giới họ. Khi Người xuống thuyền, kẻ trước kia bị quỷ ám xin theo Người. Nhưng người không cho mà rằng: "Con hãy về nhà với thân quyến, và loan truyền cho họ biết những gì Thiên Chúa đã làm cho con và đã thương con". Người đó liền đi và bắt đầu tuyên xưng trong miền thập tỉnh, tất cả những gì Chúa Giêsu đã làm cho anh ta, và mọi người đều thán phục.
Ðó là lời Chúa.


Suy Niệm: Số phận của Chúa Giêsu

Người Do thái thời Chúa Giêsu có một cái nhìn rất miệt thị đối với dân ngoại, họ xem dân ngoại là những kẻ sống dưới ách nô lệ của ma quỷ, do đó cũng cư trú trong những vùng nhơ bẩn chẳng kém gì bãi tha ma. Nhưng đối với Chúa Giêsu, ranh giới giữa Do thái và dân ngoại không còn nữa. Ngài không chỉ đến với dân Do thái, mà cả với dân ngoại nữa. Chính cho dân ngoại mà Chúa Giêsu cũng mang ơn cứu độ đến, và ơn cứu độ ấy được thánh Marcô mô tả bằng những hình ảnh rất sống động: Chúa Giêsu trục xuất cả một đạo binh ma quỷ ra khỏi người bị quỷ ám, nguyên một bầy heo lao mình xuống biển. Tin Mừng được loan báo cho dân ngoại qua miệng người vừa được chữa lành.
Thế nhưng, sự thành công của Chúa Giêsu dưới cái nhìn của Marcô thật là yếu ớt. Dường như tất cả những người mà Ngài tìm đến đều có thái độ dè dặt đối với Ngài. Chỉ có ma quỷ là kẻ duy nhất biết rõ Ngài là ai nhưng chẳng bao giờ có thể hoán cải được nữa. Các luật sĩ và biệt phái thì càng lúc càng tỏ ra chai lỳ, bà con thân thuộc thì chỉ nhìn về Ngài với những tính toán vụ lợi, đám đông dân chúng thì không nhận ra được ý nghĩa đích thực của sứ mệnh thiên sai của Ngài, còn dân ngoại thì nài nỉ Ngài quay trở lại quê hương Ngài để họ khỏi phải mang họa vào thân, và khi Chúa Giêsu chiến thắng được ma quỷ, thì đó cũng là lúc loài người tẩy chay Ngài. Trong một tình thế bi đát như vậy, cái chết trên Thập giá là chuyện tất yếu đối với Chúa Giêsu. Trong cái nhìn của Marcô, mỗi cuộc gặp gỡ của Chúa Giêsu với người đương thời của Ngài là một tiên báo về cuộc tử nạn của Ngài, Ngài là một con người triền miên bị khước từ.
Suy nghĩ về số phận của Chúa Giêsu, chúng ta cũng được mời gọi nhìn lại thân phận của người Kitô hữu chúng ta trong trần thế. Là môn đệ Chúa Giêsu, là chấp nhận lội ngược dòng. Không thể đi theo Chúa Giêsu mà lại sống theo triết lý: người ta sao, tôi vậy. Làm chứng cho Ðấng đã từng bị khước từ, người Kitô hữu bị khước từ đã đành, mà ngay cả khi phục vụ một cách vô vụ lợi, họ cũng không hẳn được người đời thương mến. Nói như thánh Phaolô: bổ khuyết những gì còn thiếu trong cuộc Tử nạn của Chúa Giêsu, đó là số phận của người Kitô hữu trong trần thế này.
Nguyện xin Chúa ban thêm can đảm và sức mạnh, để chúng ta kiên trì trong mọi khổ đau vì Danh Ngài.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)



LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Thứ Hai Tuần 4 TN
Bài đọc II Sam 15:13-14, 30, 16:5-13a; Mk 5:1-20.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Gian nan thử luyện đức tin.
Cuộc đời con người là bãi chiến trường chống lại ba kẻ thù: ma quỉ, thế gian, và xác thịt. Để chống lại ba kẻ thù nặng ký này, con người cần luyện tập để có một đức tin vững mạnh nơi Thiên Chúa. Để luyện tập đức tin, con người cần có những gian nan thử thách, bắt đầu từ những thử thách nhỏ, dần dần tới chỗ to lớn hơn. Nếu phải đương đầu ngay với thử thách to lớn, con người sẽ ngã quị ngay.
Các Bài Đọc hôm nay xoay quanh việc thử luyện đức tin. Trong Bài đọc I, năm chẵn, David phải đương đầu với rất nhiều thử thách trong gia đình cũng như ngoài xã hội sau khi phạm tội; nhưng ông vẫn kiên nhẫn tỏ lòng ăn năn sám hối. Ông hy vọng Thiên Chúa sẽ đoái thương nhìn tới và tha thứ tội lỗi cho ông. Trong Phúc Âm, một người hầu như đã hoàn toàn bị điều khiển bởi quyền lực của quỉ thần, được Chúa Giêsu chữa lành. Sau khi đã được giải thoát, anh muốn đi theo làm môn đệ Chúa; nhưng Ngài truyền cho anh ở lại địa phương, và loan truyền cho dân chúng biết những gì Ngài đã làm cho anh.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
2/ Bài đọc I (năm chẵn): "Lòng người Israel đã theo Absalom."
2.1/ Những nỗi khổ của vua David: Truyền thống Đông phương tin thứ tự của việc cai trị bắt đầu từ tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Nếu con người chưa tu thân, họ không thể tề gia, trị quốc hay bình thiên hạ. Trường hợp của vua David là một ví dụ cho tiến trình này.
(1) Bị dằn vặt vì tội lỗi: Trong một giây phút yếu lòng, David đã để cho tình dục thống trị và đã ăn nằm với bà Batsheba. Từ tội này kéo qua tội khác, ông đã phạm tội giết Uriah, chồng bà Batsheba để chạy tội và đoạt vợ người, bằng cách truyền cho Joab gởi Uriah ra tuyến đầu mà không có đủ sức mạnh hậu thuẫn để ông phải tử thương. Tất cả những việc làm mờ ám của David không thoát khỏi con mắt Thiên Chúa, Đấng nhìn thấu tâm can; Ngài sai ngôn sứ Nathan đến phơi bày tội lỗi của David. Tuy Ngài hứa sẽ tha tội; nhưng David phải chịu mọi hình phạt.
(2) Xáo trộn gia đình: Vì đã mang tội ngoại tình, David không thể phân xử công minh khi con vua là Amnon hãm hiếp em cùng cha khác mẹ của mình là Tamar, em ruột của Absalom. Khi thấy vua cha không làm gì cả, Absalom tức giận nên đã bày mưu giết Amnon. Từ đó, mối hận thù giữa hai cha con ngày càng thêm nặng. Trong trình thuật hôm nay, David phải chạy trốn Absalom, vì nghe tin "lòng người Israel đã theo Absalom."
(3) Xáo trộn quốc gia: Từ xáo trộn gia đình dẫn tới xáo trộn quốc gia. Vua David bảo toàn thể triều thần ở với vua tại Jerusalem: "Đứng lên! Chúng ta chạy trốn đi, vì chúng ta sẽ không thoát được Absalom. Đi cho mau, kẻo chẳng mấy chốc nó đuổi kịp chúng ta, giáng tai hoạ xuống chúng ta và dùng lưỡi gươm giết dân thành." Vua David lên dốc Cây Olive, vừa lên vừa khóc, đầu trùm khăn, chân đi đất, và toàn dân đi với vua ai cũng đầu trùm khăn, vừa lên vừa khóc.
2.2/ Chỉ có David là người hiểu rõ lý do của tất cả sự việc.
(1) Vua David bị Shimei nguyền rủa: Khi vua David chạy trốn đến Bahurim, có một người tên là Shimea, con ông Gera, thuộc cùng một thị tộc với nhà Saul. Y vừa đi ra vừa nguyền rủa và ném đá vào vua David và tất cả bề tôi vua, mặc dầu có toàn thể quân đội và toàn thể các dũng sĩ ở bên phải và bên trái vua. Shimea nguyền rủa vua David: "Cút đi, cút đi, tên khát máu, thằng vô lại! Đức Chúa đã đổ xuống đầu mày tất cả máu của nhà Saul, người đã bị mày chiếm ngôi, và Đức Chúa đã trao vương quyền vào tay Absalom, con mày. Và này, mày phải tai hoạ, vì mày là tên khát máu!"
(2) David biết bàn tay Thiên Chúa trong những việc đang xảy ra: Thấy sự việc xảy ra, ông Abishai thưa với vua: "Tại sao thằng chó chết này dám nguyền rủa đức vua là chúa thượng tôi? Xin cho tôi qua chặt đầu nó!" David trả lời: "Chuyện của ta can gì đến các ngươi, Nếu nó nguyền rủa và nếu Đức Chúa bảo nó: "Hãy nguyền rủa David," thì ai dám hỏi: "Tại sao mày làm như thế?" Rồi vua David nói với ông Abishai và tất cả bề tôi: "Này con trai ta, do chính ta sinh ra mà còn tìm hại mạng sống ta, huống chi là tên Benjamin này! Cứ để nó nguyền rủa, nếu Đức Chúa đã bảo nó. May ra Đức Chúa sẽ đoái nhìn đến nỗi khổ cực của ta và Đức Chúa sẽ trả lại cho ta hạnh phúc, thay vì lời nguyền rủa của nó hôm nay."
3/ Phúc Âm: Chúa Giêsu giải thoát một người khỏi làm nô lệ cho quỉ thần.
3.1/ Người bị quỉ ám sống trong nghĩa trang: Gerasa là Kursi ngày nay, nằm phía bên kia của Biển Hồ. Vùng này có rất nhiều núi đá, thích hợp cho việc chôn cất người chết. Hiện nay, còn rất nhiều dấu vết của mồ mả. Như đã đề cập đến trong bài trước, nghĩa trang là chỗ ở của quỉ thần, và đêm tối là thời gian hoạt động của họ. Khi Chúa Giêsu đã dùng quyền năng để truyền cho sóng biển phải im lặng để sang tới vùng đất của dân Gerasa; người lại dùng quyền năng để giải thoát một người khỏi làm nô lệ cho quỉ thần.
3.2/ Chúa Giêsu đương đầu với quyền lực của quỉ thần: Cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và thần ô uế cho chúng ta thấy quyền lực của quỉ thần trên con người. Có lúc người bị quỉ ám xưng mình là tôi: "Lạy ông Giêsu, Con Thiên Chúa Tối Cao, chuyện tôi can gì đến ông? Nhân danh Thiên Chúa, tôi van ông đừng hành hạ tôi!" Có lúc, anh xưng mình là chúng tôi: “Tên tôi là đạo binh, vì chúng tôi đông lắm.” Một đạo binh của quân đội Rôma có khỏang 6,000 binh lính; điều này xác định con người có thể bị giam giữ bởi rất nhiều quỉ thần. Việc quỉ thần xin cho nhập vào đàn heo có khỏang chừng 2,000 con cũng là một bằng chứng cho thấy số đông của quỉ thần.
3.3/ Chúa Giêsu đương đầu với cám dỗ của thế gian: Với một phép lạ như thế, một người chờ đợi dân làng sẽ mừng vui và mời Chúa Giêsu ở lại với họ; nhưng phản ứng của dân Gerasa hoàn toàn ngược lại. Họ không muốn thay đổi vì đã quá quen với quỉ thần: “Họ đến cùng Đức Giêsu và thấy kẻ bị quỷ ám ngồi đó, ăn mặc hẳn hoi và trí khôn tỉnh táo, chính người này đã bị đạo binh quỷ nhập vào. Họ phát sợ.” Thay vì phải sợ quyền lực của quỉ thần, họ sợ Người có quyền lực trên quỉ thần! Họ coi của cải vật chất hơn linh hồn con người: Họ không muốn phải hy sinh của cải vật chất, cho dù cứu được một mạng người. Họ lên tiếng nài xin Người rời khỏi vùng đất của họ.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Đức tin là quà tặng quí giá Thiên Chúa ban để giúp chúng ta chiến đấu chống lại ba thù. Nếu không có đức tin, chúng ta không thể đứng vững trước những gian nan của cuộc đời.
- Để có một đức tin vững mạnh, chúng ta cần luyện tập. Gian nan không thể thiếu để giúp chúng ta luyện tập đức tin.
- Tội lỗi không chỉ mang đến những đau khổ cho cá nhân; nhưng còn làm thiệt hại đến gia đình, quốc gia và xã hội.
- Chúng ta cần luyện tập đức tin mỗi ngày và bắt đầu bằng vượt qua những gian nan thử thách nhỏ. Nếu không chịu luyện tập, chúng ta không thể nào đương đầu với gian nan thử thách lớn sẽ đến trong cuộc đời.
Lm. Anthony ĐINH MINHTIÊ, OP.

29/01/2018
THỨ HAI TUẦN 4 TN
Mc 5,1-20

CAO RAO DANH CHÚA

Kẻ trước kia đã bị quỷ ám ra đi và bắt đầu rao truyền trong miền Thập Tỉnh tất cả những gì Đức Giê-su đã làm cho anh. (Mc 5,20)

Suy niệm: Trước cảnh cả đàn heo trên hai ngàn con lao xuống Biển Hồ Ga-li-lê chỉ trong nháy mắt, dân làng miền Ghê-ra-sa, phần thì sợ hãi, phần thì tiếc của, đã mời Chúa “rời khỏi vùng đất của họ.” Trái lại, người trước đây bị quỷ ám, sau khi được chữa lành, đã “ra đi và rao truyền những gì Chúa đã làm cho anh.” Nhữngngười dân miền Ghê-ra-sa hẳn cũng nhận biết dấu lạ Chúa làm, nhưng điều đó chẳng đem lại cho họ mối lợi nào mà lại bị thiệt hại một khối tài sản không hề nhỏ. Họ coi người anh em đồng hương của họ có giá trị không bằng đàn heo. Còn người trước đây bị quỷ ám thì cảm nghiệm và xác tín dấu lạ Chúa làm là cho chính anh, để anh được chữa lành, để trả lại cho anh phẩm giá của một con người, và hơn nữa, phẩm giá của người môn đệ Chúa Ki-tô.

Mời Bạn: Nhận biết mình và anh chị em mình được Chúa yêu thương và cứu chuộc, chúng ta nhớ rằng mình được Chúa sai đi loan truyền Danh Chúa cho người khác. Chúa không đòi hỏi chúng ta phải đi đâu xa, Người muốn chúng ta loan truyền danh của Người ngay giữa lòng đời chúng ta đang sống. Bạn có nhận ra những cơ hội để sống điều đó không?

Sống Lời Chúa: Mỗi ngày tôi dành thời gian cầu nguyện, để cảm nhận ơn lành Chúa ban và để loan truyền cho tha nhân biết những việc kỳ diệu Chúa đã làm vì yêu thương nhân loại.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho con xác tín rằng Chúa vẫn luôn ở bên con, để con an bình, và luôn nỗ lực làm rạng danh thánh Chúa bằng đời sống Ki-tô hữu tốt lành của mình. Amen.
(5 phút Lời Chúa)


 Tên tôi là đo binh (29.1.2018 – Th hai Tun 4 Thường niên)
Thế gii chúng ta sng thì văn minh hơn, khoa hc hơn, hnh phúc hơn, nhưng vn không thiếu cnh nhng người sng như b ám, như b ma nhp.


Suy nim:
Trừ quỷ là việc Đức Giêsu vẫn hay làm.
Bài Tin Mừng hôm nay kể chuyện Ngài trừ quỷ ở vùng đất dân Ngoại.
Tài kể chuyện của Máccô được thể hiện rõ nét qua bài Tin Mừng này.
Hiếm khi có câu chuyện sống động và ly kỳ đến thế!
Đức Giêsu và các môn đệ vượt biển để đến vùng đất Ghêrasa.
Vừa ra khỏi thuyền thì gặp ngay người bị ám bởi thần ô uế.
Anh sống ở nơi mồ mả, nơi thường được coi  là chỗ ở của quỷ ma.
Anh mạnh ghê gớm đến nỗi không xiềng xích nào có thể kiềm chế được.
Sống cô độc, đe dọa người khác, tự hành hạ và làm hại chính bản thân,
đó là thân phận bi đát mà anh không sao thoát khỏi (cc. 3-5).
Rõ ràng anh hoàn toàn bị quỷ dữ chiếm đoạt, chẳng còn chút tự do.
Nhưng lạ thay, chính anh lại chạy đến với Đức Giêsu để gặp Ngài.
Quỷ dữ nơi anh biết rõ Đức Giêsu là ai, là Con Thiên Chúa Tối Cao.
Nhưng cái biết đó lại khiến nó phải run sợ xin Ngài đừng hành hạ (c. 7).
Quỷ dữ biết danh tánh của Đức Giêsu, nhưng không chế ngự được Ngài.
Bây giờ Ngài bắt nó phải khai danh tánh của nó, trước khi Ngài hành động.
Hóa ra đây không phải là một quỷ, mà là một lũ quỷ đông đảo (c. 9).
Đạo binh quỷ này khẩn khoản xin Đức Giêsu một ơn,
đó là chỉ đuổi chúng ra khỏi người này, chứ đừng đuổi ra khỏi vùng này,
vì chúng hy vọng sẽ tìm được một con mồi khác (c. 10).
Đạo binh thần ô uế xin được nhập vào đàn heo vốn bị coi là ô uế.
Sự đồng ý của Đức Giêsu khiến toàn bộ những gì ô uế bị hủy diệt.
Ngài đã thanh tẩy chẳng những anh bị quỷ ám, mà cả vùng anh ở nữa.
Khi người bị quỷ ám được tự do, anh ấy trở nên khác xưa.
Anh ngồi đó, ăn mặc hẳn hoi, trí khôn tỉnh táo (c. 15).
Người dân trong vùng khiếp sợ nên xin Đức Giêsu đi khỏi đất của họ.
Chỉ có anh vừa được trừ quỷ là xin ở với Ngài như môn đệ (c. 18).
Nhưng ơn gọi làm môn đệ phải đến từ Thầy Giêsu.
Ngài khuyên anh nên về nhà, ở lại vùng đất của mình,
để loan báo mọi điều Chúa đã làm cho anh và thương xót anh (c. 19).
Anh đã vâng lời và trở nên người loan báo về Đức Giêsu nơi dân Ngoại.
Đối với anh, Đức Giêsu chính là Chúa.
Thế giới chúng ta sống thì văn minh hơn, khoa học hơn, hạnh phúc hơn,
nhưng vẫn không thiếu cảnh những người sống như bị ám, như bị ma nhập.
Có những người sống trong cô độc và trở nên nguy hiểm cho tha nhân.
Có những kẻ tự giết mình từng ngày trước khi tự tử.
Tru tréo và lấy đá rạch mình không phải là chuyện hiếm (c. 5).
Ăn mặc hẳn hoi và trí khôn tỉnh táo
là niềm mơ ước của biết bao gia đình có người thân bị bệnh.
Bệnh tâm thần là căn bệnh mà ít nhiều chúng ta đều dễ mắc.
Lắm khi con người thấy bó tay, không tự mình giải thoát mình được.
Xin Chúa Giêsu tiếp tục trừ quỷ cho chúng ta, cho vùng đất chúng ta sống.
Xin Ngài tiếp tục tẩy trừ sự ô uế đang thao túng ở lòng con người.
Cầu nguyn:

Lạy Chúa Giêsu,
ai trong chúng con cũng thích tự do,
nhưng mặt khác chúng con thấy mình dễ bị nô lệ.
Có nhiều xiềng xích do chính chúng con tạo ra.

Xin giúp chúng con được tự do thực sự :
tự do trước những đòi hỏi của thân xác,
tự do trước đam mê của trái tim,
tự do trước những thành kiến của trí tuệ.

Xin giải phóng chúng con khỏi cái tôi ích kỷ,
để dễ nhận ra những đòi hỏi tế nhị của Chúa,
để nhạy cảm trước nhu cầu bé nhỏ của anh em.

Lạy Chúa Giêsu,
xin cho chúng con được tự do như Chúa.
Chúa tự do trước những ràng buộc hẹp hòi,
khi Chúa đồng bàn với người tội lỗi
và chữa bệnh ngày Sabát.
Chúa tự do trước những thế lực đang ngăm đe,
khi Chúa không ngần ngại nói sự thật.
Chúa tự do trước khổ đau, nhục nhã và cái chết,
vì Chúa yêu mến Cha và nhân loại đến cùng.

Xin cho chúng con đôi cánh của tình yêu hiến dâng,
để chúng con được tự do bay cao.

Lm Antôn Nguyn Cao Siêu, SJ


Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
29 THÁNG GIÊNG
Làm Việc – Con Đường Nên Thánh
Trong đời sống, rõ ràng có một bậc thang các giá trị. Chúng ta đề cao lao động. Đúng. Chúng ta đề cao con người hơn, trong quan hệ với lao động. Điều này thậm chí càng đúng hơn. Nhưng con người cần một cái gì đó vượt quá chính mình. Con người cần cơm bánh hằng ngày, vâng, nhưng con người không sống duy chỉ nhờ vào cơm bánh.
Con người luôn luôn được nội tâm mình thôi thúc kiếm tìm một cái gì đó khác. Những kho báu giấu ẩn trong thâm sâu cõi lòng con người thật nhiều vô kể. Lương thức, mỹ cảm, lòng quảng đại, hoài niệm, hy vọng, thao thức về huyền nhiệm, cảm thức đạo đức và luân lý, khát vọng công lý, khát vọng tự do, khả năng liên đới và cộng tác … – tất cả những điều ấy tiềm ẩn trong sâu thẳm trái tim con người.
Càng vượt qua chính mình hơn, con người càng trở thành ‘người’ hơn. Đó chính là chân trời của những giá trị tâm linh. Những giá trị ấy vượt ngoài kinh nghiệm giác quan và tạo thành thế giới siêu nhiên.
Như vậy, những suy tư của tôi hôm nay lại trở về với cốt lõi của Tin Mừng lao động. Khi Giáo Hội sát cánh với người lao động và khi Giáo Hội nỗ lực thăng tiến phẩm giá của họ – không phân biệt chủng tộc, niềm tin, giai cấp – thì đấy là Giáo Hội đang thực thi sứ mạng được Đức Kitô trao phó cho mình. Đức Kitô đã và vẫn đang tiếp tục là đồng minh và là trạng sư vĩ đại nhất của con người. Vì loài người chúng ta và để cứu rỗi chúng ta – như ta tuyên xưng trong Kinh Tin Kính – Người đã từ trời xuống thế để làm một con người ở giữa chúng ta.
Bất cứ ai tin vào Người sẽ tìm thấy ánh sáng soi dẫn mình tại mỗi bước quặt cuộc đời. Dưới ánh sáng Thập Giá Đức Kitô, lao động là một con đường hoàn thiện nhân bản và là một tiếng gọi siêu nhiên. Đó là một con đường nên thánh.
Ngày nay, sau Công Đồng, người giáo dân Công Giáo chúng ta đạt được một bước trưởng thành hơn, và chiều kích tâm linh của lao động cũng được nhận thức nhiều hơn. Đó là một linh đạo phải được đào sâu thêm mãi qua việc nỗ lực xây dựng tình huynh đệ chân thành đích thực, và qua việc nỗ lực làm thấm nhập ơn bình an của Đức Kitô vào môi trường lao động.



Hạnh Các Thánh
29 Tháng Giêng
    Thánh Genevieve


Thánh Genevieve sinh khoảng năm 422 ở Nanterre, là ngôi làng nhỏ bé cách Balê chừng bốn dặm. Ngay khi còn nhỏ, thánh nữ đã tận hiến cuộc đời cho Ðức Giêsu. Sau khi cha mẹ từ trần, Genevieve sống với bà nội. Ngài dành nhiều thời giờ để cầu nguyện hàng ngày, do đó, ngài rất gần gũi với Ðức Giêsu và muốn đem Tin Mừng đến cho mọi người. Genevieve là một con người tử tế, độ lượng. Ngài giúp đỡ tha nhân theo kiểu cách riêng của ngài.

    Lúc bấy giờ, dân chúng ở Balê đang trốn chạy vì một đạo quân ghê gớm sửa soạn đến tấn công họ. Thánh nữ bước ra can thiệp. Ngài khuyên dân chúng hãy tin tưởng vào Thiên Chúa. Ngài nói nếu họ ăn năn sám hối, họ sẽ được bảo vệ. Dân chúng thi hành như lời ngài bảo, và đạo quân hung dữ người Huns bỗng dưng quay bước. Thành phố không sứt mẻ một chút gì.

    Thánh Genevieve thi hành đức bác ái và vâng phục ý Chúa mọi ngày trong đời sống, chứ không chỉ lúc nào có nhu cầu. Ngài không bao giờ bỏ cuộc khi cố gắng thi hành công việc tốt lành. Sự trung thành với Chúa Giêsu và sự can đảm là những chứng tích đặc biệt mà ngài để lại cho chúng ta.

    Noi gương ngài, chúng ta hãy cầu nguyện cho các nhà lãnh đạo. Xin Thiên Chúa dẫn dắt họ để đem lại ích lợi cho mọi người dân.

    Trích từ NguoiTinHuu.com


29 Tháng Giêng

    Ðứng Núi Này Trông Núi Nọ

    
    Một tác giả nọ đã kể lại một câu chuyện ngụ ngôn về con lừa, con rùa và một con ruồi mà tuổi thọ chỉ vỏn vẹn một ngày như sau: Nhận thấy kiếp sống của mình quá vắn või, con ruồi đã than thân trách phận như sau: "Nếu tôi có được nhiều thì giờ hơn, thì có lẽ mọi sự sẽ dễ dàng hơn. Các bạn cứ nghĩ xem: chỉ trong vòng 24 tiếng đồng hồ, tôi phải sinh ra, phải lớn lên, phải học hỏi kinh nghiệm, phải vui hưởng cuộc sống, phải đau khổ, phải già rồi cuối cùng phải chết? Tất cả chỉ diễn ra trong vòng 24 tiếng đồng hồ".

    Con lừa quanh năm ngày tháng chỉ bị đày đọa trong những việc nặng nhọc thì lại than vãn: "Giả như tôi chỉ có 24 tiếng đồng hồ để sinh ra, để sống thì có lẽ tôi sẽ hạnh phúc hơn, bởi vì cái gì tôi cũng nếm thử được một chút và cái gì tôi cũng chỉ phải chịu đựng trong một khoảnh khắc".

    Ðến lượt con rùa, nó phát biểu như sau: "Tôi không hiểu được các bạn. Tôi đã sống được 300 năm nhưng tôi vẫn không thấy đủ giờ để kể hết những kinh nghiệm tôi đã trải qua. Khi được 200 tuổi, tôi chỉ ước mơ được chết cho xong. Tôi thương hại chú ruồi, nhưng tôi lại ghen với ông bạn lừa".

    Sau khi đã kể cho nhau nghe kinh nghiệm sống của mình, xem chừng như không thấy ai thỏa mãn kiếp sống của mình. Người thì than phiền sống quá ngắn, người thì ngán ngẩm vì sống quá lâu. Cuối cùng, ba chú mới rủ nhau đến vấn kế con nhện, vì con nhện vốn được xem là một con vật khôn ngoan. Sau khi nghe mọi lời kể lể, con nhện mới dõng dạc ban cho mỗi con một lời khuyên. Với con rùa, nó nói như sau: "Hỡi lão rùa già, đừng than phiền nữa. Hỏi thử có ai được giàu kinh nghiệm cho bằng lão chưa?".

    Quay sang con ruồi, con nhện ra lệnh: "Hỡi chú ruồi, chú cũng đừng than thân trách phận nữa. Hỏi thử có ai có nhiều trò vui cho bằng chú không?".

    Với chú lừa, thì xem ra lời cảnh cáo của con nhện có vẻ nặng nề hơn cả: "Còn đối với ông bạn lừa, tôi không có lời khuyên nào cho ông bạn cả. Ông bạn là người bất mãn suốt đời. Ông bạn vừa muốn được sống lâu như lão rùa lại vừa muốn sống ngắn ngủi như chú ruồi. Trời nào có thể làm vừa lòng chú".

    Câu chuyện ngụ ngôn trên đây có thể nói lên sự bất mãn thường xuyên trong tâm hồn của con người. Thất bại hay thành công, nghèo hèn hay sang trọng, dốt nát hay thông minh, bệnh tật hay khỏe khoắn. Xem chừng như không bao giờ con người cảm thấy hoàn toàn hài lòng với chính mình, với người khác và với cuộc sống. con người dễ dàng đứng ở núi này nhìn sang núi nọ. Tựu trung, có lẽ sự bất mãn là biểu hiện của một thiếu sót lớn lao trong tâm hồn con người: đó là thiếu sót Tình Yêu. Có tình yêu, người ta sẽ không còn bất mãn. Có tình yêu, xem chừng người ta cũng không màng đến thời gian. Một tác giả nào đó đã nói: "Thời gian qúa chậm đối với những kẻ chờ đợi và sợ hãi. Thời gian lại quá dài đối với những kẻ than phiền. Nhưng với những người đang yêu, thì thời gian không còn nữa".

    Phải chăng tình yêu không là liều thuốc để chữa trị căn bệnh bất mãn trong lòng người? Có chấp nhận chính mình, có yêu thương chính mình, chúng ta sẽ không còn phải than thân trách phận nữa. Có yêu thương tha nhân, chúng ta sẽ thấy được tha nhân là nguồn hạnh phúc của mình. Có yêu đời, chúng ta mới đời dễ thương.

    Trích sách Lẽ Sống


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét