10/02/2018
Thứ Bảy tuần 5 thường niên
Thánh Côláttica, trinh nữ.
Lễ nhớ
* Thánh nữ là em của thánh Biển Đức, nhà lập luật cho các đan sĩ Tây phương. Thánh nữ chào đời ở Nuốc-xi-a, nước Ý, khoảng năm 480. Thánh nữ sống đời thánh hiến ở chân núi Cátxinô, nơi thánh Biển Đức đã lập ra một đan viện nổi tiếng. Thánh nữ qua đời không bao lâu trước anh người (+ năm 547). Chính vì thế, các nữ đan sĩ Biển Đức tôn kính thánh nữ Côláttica như người mẹ tinh thần của mình.
Bài Ðọc I: (Năm
II) 1 V 12, 26-32; 13, 33-34
"Giêroboam đúc
hai con bò vàng".
Trích sách Các Vua quyển
thứ nhất.
Trong những ngày ấy,
Giêroboam nói trong lòng rằng: "Giờ đây vương quốc sẽ trở về với nhà
Ðavít; nếu dân này lên Giêrusalem để tế lễ trong nhà Chúa, thì lòng dân này sẽ
quy thuận với chủ mình là Roboam, vua xứ Giuđa; họ sẽ giết ta và trở về với
Roboam". Bấy giờ, ông triệu tập hội nghị và đúc hai con bò vàng, ông nói với
dân chúng rằng: "Các ngươi không cần phải lên Giêrusalem nữa. Hỡi Israel,
đây những vị thần minh đã dẫn ngươi ra khỏi đất Ai-cập". Ông đặt một con
bò vàng ở Bêthel và một con ở Ðan. Việc đó là dịp tội cho dân Israel, vì dân
chúng lên tận Ðan để thờ con bò vàng. Ông còn xây chùa miếu trên những nơi cao,
đặt các người trong dân làm tư tế, họ không phải là con cháu Lêvi. Ông chọn
ngày rằm tháng tám là ngày lễ trọng, giống như lễ trọng thường cử hành trong xứ
Giuđa. Ông lên bàn thờ để tế những tượng bò mà ông đã đúc, ông làm như thế ở
Bêthel; cũng tại Bêthel, ông đã thiết lập hàng tư tế trong các chùa miếu mà ông
đã xây cất trên những nơi cao.
Sau các sự việc đó,
Giêroboam chẳng những không dứt bỏ đàng tội lỗi, mà trái lại ông còn tiếp tục đặt
ở những nơi cao hàng tư tế chọn trong dân chúng. Do đó, nhà Giêroboam phạm tội,
bị lật đổ và xoá khỏi mặt đất.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 105, 6-7a.
19-20. 21-22.
Ðáp: Lạy Chúa, xin nhớ chúng con khi gia ân huệ cho dân
Ngài (c. 4a).
Xướng: 1) Chúng tôi đã
phạm tội cũng như tổ phụ chúng tôi, chúng tôi đã làm điều gian ác và ăn ở bất
nhân. Tổ phụ chúng tôi, khi còn ở bên Ai-cập, đã không suy xét những việc lạ
lùng của Chúa. - Ðáp.
2) Dân chúng đã đúc
con bò tại Horéb, và lễ bái thần tượng đã đúc bằng vàng. Họ đem vinh quang của
mình đánh đổi lấy hình tượng con bò ăn cỏ. - Ðáp.
3) Họ đã quên Thiên
Chúa là Ðấng cứu độ mình, Ðấng đã làm những điều trọng đại bên Ai-cập, Ðấng đã
làm những điều kỳ diệu trên lãnh thổ họ Cam, và những điều kinh ngạc nơi Biển Ðỏ.
- Ðáp.
Alleluia: Tv. 94, 8ab
Alleluia, alleluia - Ước
gì hôm nay các bạn nghe tiếng Chúa, và đừng cứng lòng - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 8,1-10
"Họ ăn no
nê".
Bài trích Phúc Âm theo
Thánh Marcô.
Trong những ngày ấy,
dân chúng theo Chúa Giêsu đông đảo, và họ không có gì ăn, Người gọi các môn đệ
và bảo: "Ta thương đám đông, vì này đã ba ngày rồi, họ không rời bỏ Ta và
không có gì ăn. Nếu Ta để họ đói mà về nhà, họ sẽ mệt lả giữa đường, vì có nhiều
người từ xa mà đến".
Các môn đệ thưa:
"Giữa nơi hoang địa nầy, lấy đâu đủ bánh cho họ ăn no".
Và người hỏi các ông:
"Các con có bao nhiêu bánh?"
Các ông thưa: "Có
bảy chiếc".
Người truyền dân chúng
ngồi xuống đất, rồi Người cầm lấy bảy chiếc bánh, tạ ơn, bẻ ra và trao cho các
môn đệ phân phát.
Các ông chia cho dân
chúng.
Các môn đệ còn có mấy
con cá nhỏ.
Người cũng đọc lời
chúc tụng và truyền cho các ông phân phát.
Dân chúng ăn no nê và
người ta thu lượm những miếng còn thừa lại được bảy thúng.
Số người ăn độ chừng bốn
ngàn.
Rồi Người giải tán họ,
kế đó Người cùng các môn đệ xuống thuyền đến miền Ðammanutha.
Ðó là Lời Chúa.
Suy Niệm: Lòng quảng đại của Chúa
Tin Mừng hôm nay nêu bật lòng quảng
đại của Chúa Giêsu đối với con người. Sở dĩ Chúa Giêsu đã có thể nuôi sống được
đám đông dân chúng, dù chỉ bắt đầu với bảy chiếc bánh và mấy con cá nhỏ, là vì
Ngài đã chạnh lòng thương xót họ. Mọi sáng kiến bác ái từ thiện và mọi chính
sách phân phối thực phẩm đều phải được khởi đi từ tấm lòng yêu thương, nếu
không chúng ta sẽ dễ bỏ cuộc khi gặp khó khăn, trở ngại, hoặc không sớm thì muộn,
những công việc ấy cũng bị chen vào những ý đồ ích kỷ, vụ lợi.
Một khía cạnh khác, đó là mọi hành vi của Chúa Giêsu đều bắt đầu từ sự thật
của chính Ngài hay của những người khác. Chúa Giêsu đã không khởi sự phép lạ một
cách mơ hồ, nhưng từ chính sự thật của con người, cho dù đó là sự thật yếu kém
đến đâu đi nữa. Ngài đã làm phép lạ từ bảy chiếc bánh và mấy con cái và mấy con
cá nhỏ. Hành vi của Chúa không phải là hành vi đột xuất, bởi vì Ngài vẫn tiếp tục
phục vụ kẻ khác một cách quảng đại như thế ngay cả khi đã chết. Quả thật, các
kiểu nói và từ ngữ trong Tin Mừng hôm nay, cũng chính là các kiểu nói và từ ngữ
được áp dụng cho Bí tích Thánh Thể, như "cầm lấy bánh", "dâng lời
tạ ơn", "bẻ ra, trao cho các môn đệ". Như vậy, phải hiểu Bí tích
Thánh Thể là một hành vi cứu giúp người đói khát, là sự nối dài hành vi quảng đại
của Chúa Giêsu hôm nào, khi từ bảy chiếc bánh và mấy con cá nhỏ, Chúa Giêsu đã
cho đám đông ăn no nê chỉ vì Ngài yêu thương họ.
Ngày hôm nay, để nuôi sống nhân loại, Chúa Giêsu đã lấy chính Thịt Máu
Ngài làm lương thực. Với lương thực này, Ngài tin chắc mọi người sẽ được no thỏa
để phát triển đến mức tối đa. Tuy nhiên, để lương thực ấy đủ cho mọi người thuộc
mọi thế hệ, Chúa Giêsu cần đến sự cộng tác của con người, đặc biệt của Giáo Hội,
bằng cách phân phát, chia sẻ. Ðám đông sẽ vẫn tiếp tục đói khát, nếu hôm ấy,
các Tông đồ không phân phát bánh và cá cho người khác, vì sợ thiếu hay sợ không
còn phần cho mình. Nếu vậy, cảnh đói khát hiện nay vẫn còn, là vì người ta từ
chối phân phát và chia sẻ cho người khác, mà chỉ bo bo giữ lấy cho mình.
Nếu không có tấm lòng yêu thương, thì chẳng những chúng ta không thể có
sáng kiến trong việc cứu giúp người khác, mà còn biện hộ cho khả năng giới hạn
của mình và đình hoãn việc trợ giúp. Những lúc ấy, Bí tích Thánh Thể chúng ta
đón nhận mỗi ngày trở thành vô hiệu: thay vì là nguồn lương thực không bao giờ
cạn thúc đẩy chúng ta quảng đại hiến tặng người khác, nó trở thành gia sản độc
quyền và cằn cỗi của riêng chúng ta.
Xin cho chúng ta ngày càng có tấm lòng yêu thương của Chúa, để những người
xung quanh chúng ta không còn bị đói khát vì sự ích kỷ của chúng ta.
Veritas Asia
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Bảy Tuần V TN2
Bài đọc:
I Kgs 12:26-32; Mk 8:1-10.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Lợi ích và
tai hại của thức ăn
Có những thức ăn nuôi
dưỡng và làm cho con người được sống khỏe; có những thức ăn gây bệnh (cao đường,
cao máu, cao mỡ) và làm con người phải chết. Một con người bình dân sẽ không biết
những hậu quả của thức ăn, nếu không được những nhà chuyên môn cho biết hậu quả
của nó. Để sống khỏe, con người cần tuân theo sự chỉ dẫn của các nhà chuyên
môn. Nếu ngoan cố ăn bậy theo ý mình, con người sẽ phải lãnh hậu quả tai hại của
nó.
Các Bài Đọc hôm nay
liên quan đến những lợi ích và tai hại của thức ăn. Trong
Trong Bài Đọc I, năm
chẵn, vua Jeroboam không chịu nghe lời Thiên Chúa để được chúc lành thịnh vượng,
nhà vua có kế hoạch riêng của mình để được phồn thịnh cho dù phải phản bội
Thiên Chúa.
Trong Phúc Âm, Chúa
Giêsu làm phép lạ cho 4,000 người ăn no nê. Vì của ăn này, tất cả dân chúng trở
nên mạnh khỏe và không bị ngất xỉu dọc đường.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
2/ Bài đọc I (năm chẵn): Nếu dân này cứ lên tế lễ
tại Đền Thờ Đức Chúa ở Jerusalem, thì lòng họ lại quay về với chủ mình là
Rehoboam vua Judah mất thôi.
2.1/ Lý do chính trị: Khi con người được sống trong danh vọng quyền bính, họ
không bao giờ thỏa mãn với những gì đang sở hữu; nhưng luôn có tham vọng bành
trướng thế lực. Jeroboam đã quên hẳn lý do nhà vua được cai trị vương quốc của
mình là Thiên Chúa đã giật 10 chi tộc miền Bắc ra khỏi tay của vua Solomon và
trao quyền điều khiển vào tay nhà vua, khi ông vẫn còn là một thợ xây cất của
Solomon. Thiên Chúa cũng đã giao ước với ông: "Nếu ngươi vâng nghe tất cả
những điều Ta truyền cho ngươi và bước đi theo đường lối của Ta, thi hành điều
chính trực trước nhan Ta mà tuân giữ các giới răn và mệnh lệnh của Ta như David
tôi tớ Ta đã làm, thì Ta sẽ ở với ngươi và xây cho ngươi một ngôi nhà bền vững
như Ta đã xây cho David, và Ta sẽ trao Israel cho ngươi."
(1) Mối lo sợ của nhà
vua: Khi thấy dân chúng của mình cứ tuôn về Jerusalem mỗi ngày lễ để thờ phượng
Thiên Chúa và đóng góp ngân quĩ cho Đền Thờ theo như Lề Luật truyền, vua
Jeroboam nghĩ bụng rằng: "Rồi vương quốc lại trở về nhà David mất thôi! Nếu
dân này cứ lên tế lễ tại Đền Thờ Đức Chúa ở Jerusalem, thì lòng họ lại quay về
với chủ mình là Rehoboam vua Judah, và họ sẽ giết ta để trở về với Rehoboam vua
Judah."
(2) Quyết định chính
trị điên rồ của nhà vua: Để giải quyết mối lo sợ hão huyền, vua quyết định cho
làm hai con bò mộng bằng vàng, rồi nói với dân: "Các ngươi lên Jerusalem
như thế là đủ rồi! Này, Israel, Thiên Chúa của ngươi đây, Đấng đã đưa ngươi lên
từ đất Ai-cập." Nhà vua cho đặt hai tượng bò vàng: một ở đàng đầu tại Dan,
giáp ranh giới với Syria miền Bắc, một ở đàng chân tại Bethel giáp ranh giới với
vương quốc Judah miền Nam.
2.2/ Thay đổi tôn giáo: Vua biết không thể tiêu diệt tôn giáo, nên hướng lòng dân
vào tà thần. Sở dĩ dân chúng tin tưởng những gì vua nói, vì truyền thống
Do-thái tin Thiên Chúa luôn nói với họ qua các nhà lãnh đạo của dân chúng. Bên
cạnh việc đúc hai thần bò vàng, vua Jeroboam còn: "đặt các tư tế lấy từ
đám thường dân, không thuộc hàng con cháu Lêvi... lập một lễ vào ngày mười lăm
tháng tám, giống như lễ vẫn mừng ở Judah, và vua tiến lên bàn thờ. Vua đã làm
như thế tại Bethel mà dâng lễ tế cho các con bò mộng vua đã làm ra. Vua đặt ở
Bethel các tư tế để phục vụ tại các nơi cao mà vua đã thiết lập." Mục đích
của những hành động này là vua muốn triệt hạ tận gốc những thói quen thờ phượng
của dân chúng, để tiện bề cho việc điều khiển.
Nhưng gieo gió sẽ gặt
bão, sóng gió sẽ xảy tới dồn dập cho triều đại của nhà vua và các người kế vị
sau này; không những thế, dân chúng cũng chịu thiệt hại vì những quyết định
điên rồ của nhà vua.
3/ Phúc Âm: Chúa làm phép lạ cho 4,000 người ăn no nê.
3.1/ Phản ứng của Chúa
Giêsu và của các môn đệ:
(1) Chúa Giêsu biết mọi
nhu cầu của con người: phần hồn cũng như phần xác. Những chi tiết của trình thuật
nói lên sự quan tâm và lòng thương xót của Ngài: "Thầy chạnh lòng thương
đám đông, vì họ ở luôn với Thầy đã ba ngày rồi mà không có gì ăn! Nếu Thầy giải
tán, để họ nhịn đói mà về nhà, thì họ sẽ bị xỉu dọc đường. Trong số đó, lại có
những người ở xa đến."
(2) Phản ứng của các
tông-đồ rất thực tế: Trong nơi hoang vắng này, làm sao tìm được bánh cho bằng ấy
người? Lấy tiền đâu mà mua nhiều bánh như vậy? Đó là trách nhiệm của họ, đâu phải
là của chúng ta! Rất nhiều người lãnh đạo phần hồn dựa vào những lý do như thế
để từ chối giúp đỡ giáo dân về phần xác; nhưng bổn phận bác ái là cho hết mọi
người, đâu trừ những nhà rao giảng. Hơn nữa, nhiều người tin vào Chúa không do
những lời giảng cao siêu, nhưng do tấm lòng thương xót của người rao giảng.
3.2/ Phép lạ hóa bánh ra
nhiều: Cần lưu ý có hai phép lạ hóa bánh ra
nhiều trong Tin Mừng của Marcô:
(1) Phép lạ hóa bánh
ra nhiều từ 5 chiếc bánh và 2 con cá để nuôi 5,000 người (Mk 6): Tất cả 4
Thánh-ký đều tường thuật phép lạ này (Mt 14:15-21, Mk 6:34-44, Lk 9:12-17, Jn
6:1-14).
(2) Phép lạ hóa bánh
ra nhiều từ 7 chiếc bánh và vài con cá để nuôi 4,000 người: Chỉ có trong Marcô
trong trình thuật hôm nay, và được nhắc lại trong Mt 16:10.
- Những điều giống
nhau trong 2 phép lạ: Công thức chúc lành như khi lập BT Thánh Thể trong Bữa Tiệc
Ly: “Người cầm lấy bảy chiếc bánh, dâng lời tạ ơn, và bẻ ra, trao cho các môn đệ
để các ông dọn ra. Và các ông đã dọn ra cho đám đông.” Lời thắc mắc của các
tông-đồ: "Ở đây, trong nơi hoang vắng này, lấy đâu ra bánh cho họ ăn
no?"
- Những điều khác nhau
trong 2 phép lạ: Số người hiện diện, số bánh, và số cá. Số bánh còn dư lại: 7
giỏ cho 4,000 và 12 giỏ cho 5,000. Địa điểm phép lạ xảy ra: gần Capernaum, vùng
của Do-thái, cho 5,000; và vùng Decapolis, lãnh thổ của Dân Ngoại, cho 4,000.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta cần tuân
theo sự chỉ dẫn của Thiên Chúa và các nhà chuyên môn, vì có rất nhiều điều
chúng ta không biết, hay vượt quá sự hiểu biết của con người chúng ta.
- Vâng lời những lệnh
truyền của Thiên Chúa không hạn chế sự tự do của chúng ta; nhưng giúp chúng ta
đạt những hậu quả tốt, và vượt qua những cám dỗ của ma quỉ và thế gian.
- Thiên Chúa là Đấng Tốt
Lành và thấu suốt mọi sự. Chúng ta cần tin tưởng tuyệt đối và tuân giữ những gì
Ngài truyền. Vì không một ai trên đời này khôn ngoan hơn Thiên Chúa, chúng ta
phải tuân theo những Lời Ngài dạy hơn là những lời của người đời hay của chúng
ta.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
0/02/2018 - THỨ
BẢY TUẦN 5 TN
Th. Cô-lát-ti-ca, trinh nữ
Mc 8,1-10
GIỮ TRỌN LỜI THỀ KHI BẺ BÁNH
Người cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra, trao cho các môn
đệ để các ông dọn ra cho dân chúng. (Mc 8,6)
Suy niệm: Nhà văn Quyên Di khi suy
niệm về việc Chúa Giê-su “bẻ bánh” đã kể lại sự tích “Đồng Tiền Vạn Lịch” trong
ca dao. Ngày xưa, các đôi nam nữ lấy đồng tiền kẽm bẻ làm đôi, mỗi người giữ một
nửa, thề rằng khi nào hai người nên duyên vợ chồng chung sống với nhau, như hai
mảnh đồng tiền ráp lại thành một đồng tiền đầy đủ lúc đó họ mới trọn vẹn hạnh
phúc. Từ chuyện “bẻ tiền” đến chuyện “bẻ bánh”: Chúa Giê-su không chỉ bẻ đôi tấm
bánh, làm phép lạ cho dân chúng ăn no nê; Ngài còn bẻ tấm bánh trong bữa Tiệc
Ly để biến nó thành Mình Ngài, để con người ăn và được sống và sống dồi dào.
Trong tấm bánh được bẻ ra đó, Ngài trao thân gửi phận cho chúng ta để giữ trọn
lời thề “ở với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế.”
Mời Bạn: Cử chỉ bẻ bánh của Chúa
Giê-su đã trở thành cử chỉ hết sức thân thương: Các môn đệ nhận ra Ngài và nhận
ra nhau mỗi khi cử hành “lễ bẻ bánh.” Bắt chước Chúa Giê-su, bạn hãy “bẻ đôi tấm
bánh đời” để muôn người được “no nê” và sống vui với tình hiệp nhất trong tình
thương Thiên Chúa.
Chia sẻ: Không chỉ bố thí của dư thừa mà còn biết giảm bớt lợi nhuận
để góp phần bảo vệ môi trường, đó chính là cách “bẻ một góc đồng tiền” thời nay
để chia sẻ với những người nghèo thời nay. Bạn có suy nghĩ gì về ý tưởng đó?
Sống Lời Chúa: Luôn trích một chút từ khoản
chi tiêu hằng ngày dành riêng để sẵn sàng chia sẻ cho người nghèo.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, trên
thập giá Chúa đã bẻ tấm bánh thân mình và hiến trao cho chúng con. Xin cho cuộc
đời chúng con trở nên tấm bánh tình yêu, bẻ ra và hiến trao cho muôn người.
(5 Phút Lời Chúa)
Bị xỉu dọc đường (10.2.2018 – Thứ bảy Tuần 5 Thường niên)
Phép lạ bánh hóa nhiều là phép lạ các Kitô hữu làm mỗi ngày, khi họ dám bẻ ra và trao đi tấm bánh của đời họ.
Suy niệm:
Thân xác có những nhu cầu
cơ bản của nó.
Nó biết đói, biết khát,
biết mệt và có thế bị xỉu vì kiệt sức.
Khi Đức Giêsu làm phép lạ
bánh hóa nhiều để nuôi dân,
Ngài cho thấy mình chẳng
hề duy linh hay duy tâm chút nào.
Tin mừng Máccô kể lại hai
phép lạ bánh hóa nhiều.
Lần đầu năm cái bánh và
hai con cá cho năm ngàn người (Mc 6, 32-44).
Bài Tin mừng hôm nay nói
đến một phép lạ bánh hóa nhiều khác,
bảy cái bánh và mấy con
cá nhỏ cho bốn ngàn người ăn.
Lần đầu Đức Giêsu chạnh
lòng thương
vì dân chúng bơ
vơ như chiên không người chăn dắt (Mc 6, 34).
Lần này Ngài chạnh lòng
thương đám đông vì họ không có gì ăn (Mc 8,1).
Đức Giêsu đã giải thích
cặn kẽ các lý do khiến Ngài thương họ:
vì họ đã ở với Ngài ba
ngày rồi mà không có gì ăn (c.2),
vì Ngài sợ họ sẽ bị xỉu
dọc đường nếu nhịn đói mà về nhà,
vì có một số người từ xa
đến (c.3).
Rõ ràng Đức Giêsu quan
tâm đến sức khỏe của đám đông.
Họ đã theo Ngài, ở với
Ngài và được ăn bánh tinh thần trong mấy ngày qua.
Nhưng họ cũng cần tấm
bánh vật chất cho thân xác.
Có thực mới vực được đạo.
Chính Đức Giêsu, chứ
không phải các môn đệ, đã nhận ra điều ấy.
Ngài gọi họ lại để nhắc
họ về nhu cầu của đám đông (c.1).
Bảy cái bánh được Đức
Giêsu bẻ ra và trao cho các môn đệ.
Các môn đệ lại làm cử chỉ
như vậy cho đám đông.
Bẻ ra và trao đi là những
hành vi của bác ái, chia sẻ.
Bẻ ra là chấp nhận bị vỡ,
chẳng còn nguyên vẹn như trước.
Trao đi là chấp nhận mất
mát, chẳng còn giữ lại gì cho mình.
Nhưng chỉ khi dám bẻ ra
và trao đi mới đem lại hạnh phúc dư dật.
Phép lạ bánh hóa nhiều là
phép lạ các Kitô hữu làm mỗi ngày,
khi họ dám bẻ ra và trao
đi tấm bánh của đời họ.
Họ bỗng thấy mình sung
mãn khi người khác được no nê.
Xin Thiên Chúa là Tình
Yêu viết hoa
giúp các bạn trẻ biết
chấp nhận những đòi hỏi và hy sinh của tình yêu
để yêu đối với họ thực sự
là bẻ ra và trao đi.
Cầu nguyện:
Lạy Thiên Chúa là Tình
Yêu,
xin cho con biết nhạy cảm
trước nỗi đau của con người,
những trẻ em bất hạnh,
những phụ nữ bị bạo hành,
những người trẻ mất niềm
hy vọng, những người già neo đơn.
Trong cơn khủng hoảng
hiện nay trên toàn cầu,
có bao người thất nghiệp,
bao người lâm cảnh đói ăn.
Xin cho tim con chạnh
lòng thương như Chúa,
dám chấp nhận sống nghèo
để giúp nhiều người thoát cảnh nghèo,
dám chấp nhận liên đới và
chia sẻ để thế giới được công bằng hơn.
Ước gì khi thế giới ngưng
chiến tranh và các cuộc chạy đua vũ trang,
khi nước giàu chia sẻ cho
nước nghèo,
khi bất công và thù hận
không còn thống trị,
chúng con được hạnh phúc
vì thấy Nước Chúa đã gần bên.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
10 THÁNG HAI
Nghệ Thuật Thánh:
Thấm Đẫm Cái Đẹp Và Sự Thật
Cuộc nhập thể của Con
Thiên Chúa đã đem lại khả năng diễn dịch mầu nhiệm của Thiên Chúa xuyên qua những
dấu hiệu khả giác – để bộc lộ sự hiện diện của Thiên Chúa cho con người. Với biến
cố nhập thể, Ngôi Lời đã đến và trở thành một phần của lịch sử: vị Người-Chúa
này đã được nhìn thấy, được nhận biết, được mến yêu. Nghệ thuật Kitô giáo trình
bày nhân tính hữu hình của Đức Kitô và các hoạt động thần linh của Người – và với
ngôn ngữ sáng tỏ của mình, nó mở ra cho người ta cảm thụ một khía cạnh nào đó
trong bản tính khôn tả của Thiên Chúa.
Vẻ đẹp kết hợp với sự
thật phản chiếu nơi mọi hữu thể, vén mở bí mật thâm sâu của nó cho con cái loài
người. Vì thế, nghệ thuật đích thực là nghệ thuật được bao phủ bằng những dấu
chỉ của vẻ đẹp và chân lý. Bấy giờ, nó sẽ trở thành phổ quát, chân chính và có
thể hiểu được đối với mọi người. Người ta đón nhận nó với niềm vui, và họ sẽ
rút ra từ nó sức khích lệ để thực hiện những điều cao quí.
Giáo Hội đề cao nghệ
thuật đích thực, bởi vì Giáo Hội nhìn thấy trong đó một sự diễn tả căn bản của
văn hóa và của nhân tính. Giáo Hội cũng xác tín rằng đức tin có thể và vốn thường
tác động trong các tác phẩm nghệ thuật một vai trò thúc đẩy – tác động thúc đẩy
này đụng chạm đến trái tim và tâm linh của người ta. Công Đồng Vatican II đã nhận
định: “Trong những hoạt động cao quí nhất của tài năng con người, rất đáng kể đến
mỹ thuật, nhất là nghệ thuật tôn giáo mà tột đỉnh của nghệ thuật này chính là
nghệ thuật thánh. Tự bản tính, nghệ thuật thánh nhằm diễn tả một cách nào đó vẻ
đẹp vô biên của Thiên Chúa qua những tác phẩm nhân loại; nghệ thuật này càng
làm cho Thiên Chúa được ca tụng và tôn vinh hơn, một khi những tác phẩm đó
không nhắm chủ đích nào khác ngoài sự góp phần tích cực vào việc đạo đức là hướng
tâm trí người ta về cùng Chúa.” (PV 122)
- suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 10/02
Thánh Scholastica,
Đồng trinh
1V 12, 26-32; Mc 8,
1-10
LỜI SUY NIỆM: “Trong những
ngày ấy, lại có một đám rất đông, vì họ không có gì ăn, nên Đức Giêsu gọi các
môn đệ lại mà nói: Thầy chạnh lòng thương đám đông, vì họ ở luôn với Thầy đã ba
ngày rồi mà không có gì ăn! Nếu Thầy giải tán, để họ nhịn đói mà về nhà, thì họ
sẽ bị xỉu dọc đường. Trong số đó có nhưng người ở xa đến.”
Chúa Giêsu chạnh lòng
thương, và Người ân cần quan tâm đến đám đông dân chúng đang đói, không chỉ là
một đức tính của Người, mà Người đã gọi các môn đệ lại, để các môn đệ nhìn thấy
hoàn cảnh thực tại của đám đông, và lời giải thích của Người để cùng đưa ra một
giải pháp. Các môn đệ đã có những suy nghĩ và các môn đệ đã có lý do đẻ từ chối.
Nhưng rồi chính Chúa đã làm thỏa mãn cơn đói cho dân mà số bánh còn dư thừa đến
bảy giỏ.
Lạy Chúa Giêsu. Với
đám đông dân chúng đang đói Chúa đã chạnh lòng thương ân cần quan tâm đến họ.
Trong khi đó các môn đệ của Chúa lại đứng trước một thách thức lớn ngoài khả
năng của họ và họ muốn từ chối. Ngày hôm nay, chúng con khẩn cầu xin Chúa ban
cho chúng con những vị chủ chăn biết cọng tác với Chúa để đem lại sự sống cho
đàn chiên là chúng con.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 10-02
Thánh SCÔLASTICA
Đồng trinh
(480-543)
Thánh Scholastica là
em gái thánh Benêdictô, tổ phụ của những đời sống khổ tu bên Tây phương. Ngài
còn được nối kết với thánh nhân như người em sinh đôi, nhưng không chắc chắn lắm.
Chúng ta biết được chút ít về đời sống của thánh nữ là do cuốn Dialogue, tập
hai, của thánh Grêgôriô cả, cuốn sách ghi lại đời sống thánh Bênêdictô và các
phép lạ của Ngài. Như anh của Ngài, thánh nữ Scholastica đã sinh ra tại quận
Sabina miền Nursia và cha mẹ Ngài được giả thuyết cho là những người dòng dõi
quí phái tai miền quê.
Vào một lúc nào đó, có
lẽ khi còn rất trẻ, Scholastica đã tu kín và trong những năm cuối cùng đời
Ngài, chúng ta thấy Ngài sống gần Montê Cassinô, để có thể gặp được anh mình mỗi
năm một lần.
Khi thánh Bênêdictô
thiết lập tu viện tại Montê Cassiô, Scholastica cùng với các trinh nữ quây quần
bên Ngài đã đến ở bên núi, lập thành tu viện Palumbariola, Ngài đặt mình dưới sự
hứơng dẫn của anh, vì Ngài biết rằng: không có ai có thể hướng dẫn các linh hồn
về trời cách chắc chắn hơn.
Nhưng Ngài không hề
làm rộn anh mình và chỉ gặp anh mỗi năm một lần vào trước mùa chay, trong một
trang trại của tu viện ở miền núi. Một nguyện đường đã được dựng nên tại đây để
ghi nhớ những giây phút khôn tả, mà thánh Bênêdictô thông cho em mình ánh sáng
thần linh Ngài thụ lãnh được và dạy dỗ em mình đường trọn lành của tu sĩ trong
thống hối và yêu thương.
Nhưng lần ấy họ đã trải
qua một ngày để khen ngợi Chúa và cầu xin hạnh phúc trên trời, bên ngoài khí trời
tươi mát vì đã vào xuân, bầu trời trong sáng lạ thường, thánh Scholastica say
sưa cảm nếm hương vị của câu chuyện đàm thọai trong khi màn đêm buông dần xuống...
lúc đó thánh Scholastica nới với thánh Bênêdictô: - Anh ơi trời khuya rồi, làm
sao anh về được. Thôi mình tiếp tục nói chuyện tới sáng về niềm vui cuộc sống
trên trời đi.
Thánh Bênêdictô trả lời:
- Em nói chi, anh không thể nhận lời em được. Anh không thể qua đêm ở ngoài nhà
dòng được đâu.
Thánh Scholastica dấu
mặt vào đôi lòng bàn tay và nức nở khóc. Ngài nói với Chúa ước muốn êm ái của
lòng mình. Và Thiên Chúa là đấng đã chúc phúc cho cả một cuộc sống hiến dâng, lại
sắp gọi thánh nữ về với mình, nên như người cha chiều con vậy, đã muốn ban cho
Ngài niềm an ủi dịu dàng cuối cùng. Một trận cuồng phong nổi lên. Mưa đổ xuống
như thác lũ với sấm sét dữ dằn. Chẳng ai còn có thể nghĩ tới việc ra đi nữa.
Thánh Bênêdictô bối rối,
Ngài nói: - Này em, em làm gì vậy ?
Thánh Scholastica êm
ái trả lời: - Em đã xin anh, nhưng anh chẳng muốn nghe em. Em đã cầu xin Chúa
và Ngài đã nhận lời. Bây giờ nếu có thể được, anh hãy về nhà dòng đi.
Lúc ấy thánh Bênêdictô
cảm tạ lòng thương xót Chúa, Ngài tiếp tục nói chuyện về hạnh phúc đang chờ đón
những người Chúa chọn. Lời Ngài dâng cao như những chùm ánh sáng.
Đến sáng cơn giông ngừng.
Anh em mỗi người một ngả và không còn gặp nhau trên trần gian này lần nào nữa.
Ba ngày sau, khi thánh
Bênêdictô đang đứng bên cửa sổ đã thấy linh hồn em mình bay lên như ánh chim
câu, phủ đầy ánh sáng thiên đàng. Say mê với thị kiến này, Ngài cất cao giọng
hát bài thánh Ca. Đó chính là lúc thánh Scholastica êm ái tắt hơi trong tu viện
mình. Thánh Bênêdictô sai các tu sĩ đi tìm xác em để chôn trong ngôi mộ dọn sẵn
cho mình.
Một tháng sau nhà ẩn
tu vĩ đại cũng từ giã cõi thế để hợp với thánh Scholastica trong hạnh phúc của
các thánh nhân mà họ đã tha thiết khơi dậy.
(daminhvn.net)
10 Tháng Hai
Liều Thuốc Dành Cho Kẻ Chán Ðời
Một người đàn ông
chán đời nọ đang đứng nhìn dòng nước từ một chiếc cầu cao. Ông đốt một điếu thuốc
cuối cùng trước khi kết liễu cuộc đời.
Ông không còn lối thoát nào khác hơn nữa. Ông đã làm đủ mọi cách để lấp đầy nỗi chán chường trong tâm hồn. Ông đã đi đây đi đó, ông đã tìm lạc thú trong các cuộc vui trác táng, ông đã chạy đến với mọi thứ hơi men và khói thuốc. Nhưng chán chường vẫn cứ chán chường. Ông thử thời vận lần cuối cùng bằng một cuộc hôn nhân, nhưng không có một người đàn bà nào có thể ở bên cạnh ông được vài tháng, bởi vì ông đòi hỏi quá nhiều, nhưng lại không biết nghĩ đến người khác. Ông nhận ra rằng ông đã chán chường mà cũng không ai được hạnh phúc bên cạnh ông. Chỉ có dòng sông may ra mới mang lại cho ông sự thanh thản.
Ông không còn lối thoát nào khác hơn nữa. Ông đã làm đủ mọi cách để lấp đầy nỗi chán chường trong tâm hồn. Ông đã đi đây đi đó, ông đã tìm lạc thú trong các cuộc vui trác táng, ông đã chạy đến với mọi thứ hơi men và khói thuốc. Nhưng chán chường vẫn cứ chán chường. Ông thử thời vận lần cuối cùng bằng một cuộc hôn nhân, nhưng không có một người đàn bà nào có thể ở bên cạnh ông được vài tháng, bởi vì ông đòi hỏi quá nhiều, nhưng lại không biết nghĩ đến người khác. Ông nhận ra rằng ông đã chán chường mà cũng không ai được hạnh phúc bên cạnh ông. Chỉ có dòng sông may ra mới mang lại cho ông sự thanh thản.
Người đàn ông chưa
hút xong điếu thuốc thì cũng có một người hành khất cũng đi qua chiếc cầu. Con
người rách rưới đó dừng lại nhìn người đàn ông và chìa tay xin giúp đỡ. Người
đàn ông chán chường không ngần ngại rút cả ví tiền và trao cho người hành khất.
Ông giải thích rằng bên kia thế giới ông không cần tiền bạc nữa. Người hành khất
cầm lấy chiếc ví một lúc rồi trao lại cho khổ chủ. Ông ta nhìn thẳng vào đôi mắt
của kẻ chán đời và nói: "Thưa ông, tôi không cần một số tiền lớn như thế.
Tuy là một người hành khất, nhưng tôi không là một kẻ hèn nhát. Ông hãy giữ lại
tiền của ông và đem qua bên kia thế giới của ông". Nói xong, người hành khất
ném cả ví tiền xuống dòng sông rồi lặng lẽ bước đi, bỏ mặc kẻ chán đời tiếp tục
gặm nhấm nỗi đắng cay chua xót của ông.
Ðã hút xong điếu
thuốc, nhưng kẻ chán đời vẫn muốn chưa kết liễu cuộc đời. Ông nhìn theo người
hành khất đang khuất xa dần. Tự nhiên, ông không muốn chết nữa, mà chỉ muốn nhặt
lại chiếc ví để trao tặng cho người hành khất. Chưa một lần trong đời, ông biết
mở ví trao tặng cho bất cứ người nào. Giờ phút này. ông muốn mở rộng tâm hồn, mở
rộng đôi tay để trao tặng và muốn tiếp tục sống. Nghĩ như thế, kẻ chán đời đứng
thẳng lên, rời bỏ cây cầu và tiếp tục đuổi theo cho kỳ được người hành khất.
Không gì buồn chán cho
bằng sống không có định hướng, không có lẽ sống. Sống mà không biết tại sao
mình sống, mình sẽ đi về đâu là điều làm cho con người chán chường và đau khổ
nhất.
Ai cũng khao khát hạnh
phúc, ai cũng đi tìm hạnh phúc nhưng lắm khi người ta chỉ chạy theo ảo ảnh của
hạnh phúc. Ai cũng biết rằng tiền tài, danh vọng và lạc thú trong cuộc sống tự
nó không phải là hạnh phúc và lắm khi chúng cũng không mang lại hạnh phúc cho
con người.
Hạnh phúc không phải
là một nơi để đi đến, hạnh phúc là một hướng đi. Có đi theo hướng đó, con người
mới cảm thấy được hạnh phúc. Vậy hướng đi của chúng ta là gì?
Chúa Giêsu, Ðấng là Ðường,
là Sự Thật và là Sự Sống, đã vạch ra cho chúng ta hướng đi ấy. Và hướng đi Ngài
đã vạch ra chính là Sống cho tha nhân. Ai càng tích trữ và chiếm giữ cho mình,
người đó càng nghèo nàn và khốn khổ. Ai càng đóng kín quả tim và khép chặt bàn
tay, người đó sẽ không được nhận lãnh. Hạnh phúc đích thực chính là trao ban, bởi
vì như Thánh Phaolô đã ghi lại lời của Chúa Giêsu: "Cho thì có hạnh phúc
hơn nhận lãnh".
Cho là liều thuốc chữa
trị được căn bệnh trầm trọng nhất trong tâm hồn chúng ta: đó là sự chán sống.
Cho cũng là liều thuốc xoa dịu được mọi khổ đau trong tâm hồn chúng ta. Chúng
ta đang đau khổ vì bị phản bội, vì thất chí, vì bệnh tật hay vì bất cứ một
nguyên do nào: chúng ta hãy thử mở rộng tâm hồn để trao ban, để san sẻ. Chúng
ta sẽ cảm thấy được xoa dịu trong tâm hồn.
(Lẽ Sống)







Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét